Giới thiệu cuốn sách này với cử toạ nước ngoài sau 40 năm đã trôi qua cũng có nghĩa là chấp nhận một sự rủi ro nhất định (liệu độc giả sẽ tiếp nhận văn bản thế nào?), bởi làm như thế sẽ tạo ra không chỉ mình vấn đề lý thuyết, mà còn có cả vấn đề tư tưởng: người ta muốn nói gì đây về một tác phẩm khi tách nó ra khỏi hoàn cảnh không gian, thời gian và ngôn ngữ, khi bỏ qua khoảng cách thời gian, địa lý, lịch sử và xã hội để lại từ đầu, ứng xử với nó theo kiểu mới?
Trong tình huống tương tự, việc dịch thuật vừa hoàn tất cách đây chưa lâu những văn bản của các nhà hình thức luận[2] ở những năm 30[3], cũng như những công trình của các nhà ký hiệu học xô viết hiện nay[4] không chỉ cho phép đưa chúng vào sách giáo khoa đại học với tư cách là tài liệu tham khảo, mà còn tạo ra một định hướng mới cho các công trình nghiên cứu ở phương Tây mà đối tượng là văn bản văn học và các hệ thống ký hiệu nói chung.
Với việc nghiên cứu tổ chức nội tại của “tác phẩm trong bản thân nó”, chia tách các đơn vị hợp thành trong nội bộ trần thuật, rồi xác lập mối quan hệ giữa chúng với nhau, bằng cách đi theo con đường diễn dịch xuất phát từ Kant, nhất là ở các đặc tính cụ thể, cho đến ngôn ngữ học cấu trúc nửa sau thế kỷ XX, những công trình nghiên cứu của phái hình thức luận đã mang lại cái mà cả lịch sử văn học, lẫn nền tiểu luận ấn tượng chủ nghĩa, vốn là đặc thù của truyền thống Pháp, đều thiếu hụt, ấy chính là hướng tiếp cận nhắm tới tính lý thuyết; trong khi giành giật chỗ đứng cho mình, hướng tiếp cận này đã tìm thấy tiếng vang vọng hoặc sự tương đồng ở những tiến trình chiếm lĩnh vị thế khoa học của các lĩnh vực “nhân văn” và “xã hội” mà ngày nay vẫn thường gọi là cấu trúc luận.
Thuộc về thời đại mình, xuất hiện trước khi phép phân tâm của Freud và các nguyên tắc của ngôn ngữ học hiện đại đạt tới sự phát triển, bị cột chặt vào những tiền đề triết học riêng (những tiền đề làm nền tảng cho một diễn ngôn nào đó về ý nghĩa và là đối tượng giải cấu trúc của triết học ở phía này, kể từ Husserl đến Heidegger, cũng như từ phía Marx, ở một thổ ngơi khác), văn bản của các nhà hình thức luận Nga đã thúc đẩy việc nghiên cứu các phương thức biểu nghĩa mang tính đặc thù của văn bản văn học đóng khung trong giới hạn của chủ nghĩa duy tâm máy móc. Điều đó được minh chứng bởi nhiều ý đồ xây dựng một nền thi pháp học giống như một loại diễn ngôn phi đối tượng nào đó, một loại Lời (“Logos”) ngoài thời gian và không gian, chỉ mình nó trò chuyện với chính nó trong một tiến trình kiến tạo miên viễn các kiểu mẫu, mà những kiểu mẫu thì lại được rút ra từ ngôn ngữ học hoặc giáo trình lô gíc học đại cương, rồi sau đó chúng được sử dụng hoàn toàn tuỳ tiện vào việc tổ chức kiểu mẫu của văn bản văn học. Rốt cuộc, điều đó có nghĩa là văn bản bị quy về một loại lý thuyết ngôn ngữ học nào đó (thường là bị quy về một phạm trù ngôn ngữ, chứ không bao giờ được quy về phạm trù diễn ngôn), hay may lắm là được đối chiếu với một trong những thứ lý thuyết ấy, nhưng bởi đặc thù của đối tượng văn học - trong giới hạn lịch sử của những phương thức biểu nghĩa - hoá ra đã bị bỏ mất, còn diễn ngôn “thi ca” thì vẫn giữ nguyên không suy suyển, nên nó chỉ còn là một mớ phạm trù và phương thức tự kiểm nghiệm, chứ hoàn toàn không phải là hiện thân cho sự hiểu biết khách quan.
Tất cả những điều trên chẳng có gì đáng ngạc nhiên, vì phái hình thức luận Nga được hình thành trên nền tảng của ngôn ngữ học cấu trúc (thay thế cho ngôn ngữ học so sánh - lịch sử) và thực tiễn thi ca của phái vị lai (những người tập trung chú ý vào chất liệu ngôn từ, vào các quy tắc “gia công” trong “sản xuất nghệ thuật”). Vì thế, trường phái hình thức luận trở thành đại biểu, không chỉ thể hiện quan niệm phi lịch sử ở đầu thế kỷ XX, mà còn phát ngôn cho phương châm phân tích các quy luật nội tại tổ chức nên mọi ý nghĩa, mọi cấu trúc ký hiệu từng được văn học thời ấy, từ Mallarme đến Joyce, đem ra thực hành. Trên hành trình này, trường phái hình thức luận Nga đã tìm thấy các tư tưởng gia của mình thông qua những nhà mỹ học Đức, bắt đầu là các môn đệ của thuyết Kant mới như Volfflin, sau đó, và đặc biệt là Walzen. Sách của họ đã được dịch ra tiếng Nga, sự phân biệt nội dung (Gehalt) và hình thức (Gestalt) do họ đề xướng được mang ra bình luận và tuyên bố sau đây của Valzen đã trở thành một cương lĩnh: “Tôi hướng về một thứ toán học cao cấp của hình thức, tôi muốn thiết lập những thủ pháp kiến tạo có tính nền móng của nghệ thuật ngôn từ”. Chia tay với quan niệm về nghệ thuật như là sự mô tả một cái gì ở bên ngoài, dồn mọi nỗ lực vào việc nghiên cứu các cấu trúc hình thức, lý luận Gestalt ngay từ đầu đã được xem là phép nhị phân nội dung - biểu hiện, và như thế, nó bị lệ thuộc vào triết học mô tả. Một sự mô tả mà người ta không phân tích đối tượng được mô tả (cái “tham chiếu”), mà phân tích cái hiệu ứng như một dữ liệu trực quan, một “cấu trúc” hiện hữu thường xuyên thâu nhận vào bản thân các bình diện của cái “tham chiếu” được mô tả và bị bỏ quên, rồi lại hoàn trả chúng về cho nó.
Sự lệ thuộc này của trường phái hình thức luận và nền thi pháp học do họ tạo dựng với mỹ học Đức đã bị tảng lờ và chối bỏ một cách xấu hổ. Ngược lại, ngay từ đầu, phái hình thức luận muốn đứng dưới lá cờ của chủ nghĩa thực chứng, một mực nhắm tới lý thuyết và tính khách quan[5]. Là sự phản ứng chính đáng chống lại mỹ học tượng trưng và là điều kiện thiết yếu của trừu tượng hoá khoa học cho phép nó đánh dấu lãnh thổ riêng , thứ chủ nghĩa “thực chứng” này hoá thành một trở lực, khi hình thức luận không còn là công cụ thuần tuý để nghiên cứu “ngôn ngữ thi ca”, mà trở thành một loại thi pháp học trong ý nghĩa riêng biệt của từ ấy. Những đặc điểm của hệ thống ký hiệu được tạo thành bởi một văn bản cụ thể hay một thể loại văn học bị đồng nhất với những đặc điểm cấu trúc của ngôn ngữ (ngôn ngữ thường nhật hoặc ngôn ngữ thi ca). Vì các nhà hình thức luận cũng thiếu hụt tư duy lý thuyết, nên vấn đề về thực hành văn học như một phương thức biểu nghĩa đặc thù đã không được đặt ra. Bởi vậy, “đối tượng văn học” bị biến mất dưới trọng lực của các phạm trù ngôn ngữ, cái trọng lực làm nên “đối tượng khoa học” mang tính nội bộ trong diễn ngôn của phái hình thức luận, tuy có quan hệ với cấp độ ngầm của nó, nhưng tuyệt nhiên chẳng có gì chung đụng, hoặc có rất ít điểm chung với đối tượng đích thực của nó: với văn học như một phương thức biểu nghĩa đặc thù, tức là có tính tới không gian của chủ thể, hình thái không gian của nó, lịch sử của nó, tư tưởng hệ của nó… Thoạt đầu, nêu ra yêu cầu về sự tương thích với đối tượng được nghiên cứu, rồi sau đó biến thành một kiểu thi pháp học, hình thức luận chỉ còn là, và mãi mãi sẽ chỉ là một diễn ngôn không có đối tượng riêng, hoặc có quan hệ với một đối tượng không xác định. Đã có nhiều nỗ lực nghiêm túc nhằm thoát khỏi sự bế tắc[6], nhưng thi pháp học, ở cái dạng mà các môn đệ của phái hình thức luận đã tạo ra, không sao có thể vươn tới độ phức tạp đặc thù mà mục đích của nó là phải làm sáng tỏ. Vì sao?
Vừa mới xuất hiện, hình thức luận đã rơi ngay vào tâm điểm của những cuộc tranh luận diễn ra trên báo chí xô viết, hơn thế, rất nhiều người có mưu toan đoạn tuyệt với nó, phê phán nó từ ba phía. Nổi tiếng nhất là những ý kiến phê bình của Troski[7], người từng thừa nhận tầm quan trọng ở những công trình nghiên cứu của trường phái hình thức, nhưng đồng thời, ông yêu cầu những công trình này phải được bổ khuyết bằng sự nghiên cứu theo tinh thần của chủ nghĩa Mác. Với một quan điểm chiết trung như vậy, lý luận văn học Marxits trong tương lai rõ ràng sẽ trở thành thứ na ná như là sự cộng sinh giữa thi học hình thức với diễn giải học xã hội - lịch sử, một kiểu cộng sinh khó có thể đạt được do sự thiếu tương thích của các cơ sở lý thuyết mà hai chủ thuyết ấy dựa vào. Điều lớn nhất mà chủ nghĩa Troski toan tính là hạn chế vai trò của phái hình thức luận trong việc nghiên cứu kỹ thuật ngôn ngữ thi ca (thi pháp học ngôn ngữ), bằng cách không thừa nhận nó có quyền sáng tạo ra một nền thi pháp học, tức là lý luận văn học. Hệ quả của cách giải quyết vấn đề như thế chỉ có thể là sự tước bỏ tất cả những gì mới mẻ do phái hình thức luận mang lại, mà cụ thể là xoá bỏ tầm quan trọng hàng đầu của chất liệu ngôn từ trong việc xây dựng lý luận văn học, cũng như việc quy phương pháp hình thức vào chức năng kỹ thuật thuần tuý - thêm một chứng lý nói lên quan niệm tuỳ tiện về văn học như là sự phản ánh thực tại lịch sử.
Từ một phía khác, Pereverzev[8], tín đồ của xã hội học dung tục, đã “phản bác” các môn đệ hình thức luận bằng quan niệm riêng, theo đó, ông xem văn học như là sự phản ánh trực tiếp các lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất, mà quên hẳn luận điểm cổ điển của chủ nghĩa Mác về sự độc lập tương đối của thượng tầng kiến trúc đối với hạ tầng cơ sở.
Và cuối cùng, Pavel Medvedev[9], người nhập với V. Volosinov[10] thành một nhóm mà bây giờ thường được gọi là “nhóm Bakhtin”, tuy cư xử với phái hình thức luận như với kẻ thù[11], nhưng vẫn xem sự phê phán được nhắm tới họ chỉ mang tính “nội bộ”, tức là sự phê phán xuất phát từ bên trong hệ thống của chủ nghĩa hình thức và có ý rút ra từ đó những kết luận góp phần xây dựng nền lý luận văn học marxits. Theo ý kiến của các thành viên trong nhóm, một lý thuyết như vậy chỉ có thể được xây dựng bằng cách dựa vào trường phái hình thức, chứ không thể bằng cách làm trái ngược họ. Trong phần kết luận một cuốn sách, Medvedev viết: “Mọi nền khoa học trẻ, mà nghiên cứu văn học marxits thì còn rất trẻ, cần đánh giá một địch thủ cừ cao hơn hẳn một chiến hữu tồi”[12]. “…Nghiên cứu văn học marsits tán thành phương pháp hình thức và xung đột với nó trên cơ sở của một vấn đề chung, mang tính thời sự và bức thiết - vấn đề đặc thù (của văn bản văn học)[13].
Ngày nay chúng ta có cơ sở để nhận ra nguyên nhân sâu xa tạo nên sự bất lực của thi pháp học trong việc trả lời các câu hỏi đặt ra từ mọi phía là nguyên tắc tịch mặc[14] lý thuyết của các nhà hình thức luận; tinh thần tịch mặc ấy không cho phép họ khắc phục quan niệm về sự đục mờ của ký hiệu và sự mô tả. Tác phẩm văn học là một hệ thống ký hiệu, một bề mặt trực quan, nơi có vai trò của sự kết hợp các yếu tố đã hoàn bị, là cấu trúc phản ánh một ý nghĩa siêu nghiệm nào đó được củng cố bởi ý thức siêu nghiệm của các chủ thể hiện hữu - tất cả những định đề ấy của một lý trí đã bị rơi vào cái bẫy của tư tưởng mô tả chẳng hề gợi dậy ở các nhà hình thức luận một chút mảy may hoài nghi nào. Ở thời đại, khi mà những khám phá của Freud vẫn chưa được lý luận ngôn ngữ lĩnh hội, khi ngôn ngữ học vừa hoá thân vào cấu trúc luận đã chẳng hề hoài nghi về sự xuất hiện trong tương lai một phương pháp cải biến, liệu có thể khắc phục được các định đề ấy không? Sự thực lịch sử đã chứng tỏ là không thể.
Vậy mà những công trình nghiên cứu của Bakhtin và nhóm của ông lại chứng tỏ, việc cải tổ hệ vấn đề của hình thức luận và/hoặc thi pháp học là có thể, nếu người ta tiếp cận hoạt động ký hiệu của văn học từ giác độ về vị trí của nó trong lịch sử các hệ thống ký hiệu và từ giác độ về mối quan hệ giữa nó với chủ thể phát ngôn. Những vấn đề do Bakhtin và nhóm của ông đặt ra trước thi pháp học hình thức có thể quy về hai luận điểm sau đây:
1. Ngôn ngữ thi ca là một phương thức hoạt động mà các dạng khác nhau của nó đều có sự tồn tại cụ thể trong lịch sử các hệ thống ký hiệu. Từ đây, rút ra vấn đề thứ nhất: cần nghiên cứu ngôn ngữ thi ca trong khuôn khổ của một cấu trúc văn học cụ thể; cũng như phải nghiên cứu vị trí đặc thù của nó trong lịch sử các hệ thống ký hiệu, chứ không được đánh đồng nó với lĩnh vực Ý NGHĨA hoặc NHẬN THỨC[15]. Một quan niệm như thế sẽ kéo theo quan niệm về khoa học văn học như một nhánh đặc biệt của của khoa học về các hệ tư tưởng, nó đòi hỏi cũng phải nghiên cứu lịch sử các thể loại văn học từ giác độ như vậy. Điều này được Bakhtin thực hiện ở chương 4 trong cuốn sách của mình.
2. Nếu như với ngôn ngữ học, ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu, thì với khoa học về văn học, cũng hệt như với mọi khoa học về các cấu trúc tư tưởng hệ, ngôn ngữ là sự thực hành, nơi phải tính tới sự hiện diện của các chủ thể (đặc biệt là người phát), cũng như phương thức mà các chủ thể sử dụng để tái xác lập một hệ thống ký hiệu nào đó. Từ đây, nảy ra vấn đề thứ hai: phải tìm được một lĩnh vực lý thuyết có khả năng loại bỏ cả cả sự lưỡng phân gehalt/gestalt, lẫn sự lưỡng phân ngôn ngữ/tư tưởng hệ, bằng cách ấy, phát hiện ra mảnh đất mà ở đó sự hoạt động của lời nói như một ký hiệu tồn tại trong ngôn ngữ nhập làm một với chức năng tư tưởng hệ được tạo ra với sự hỗ trợ của ngôn ngữ ấy trong một tiến trình thực tiễn lịch sử đặc thù. Nhờ thế, ta sẽ nhận ra con đường cải biến bản thân đối tượng ngôn ngữ, bởi khi dịch chuyển về phía lưỡng phân gehalt/gestalt, sự cải biến ấy sẽ loại bỏ hệ tư tưởng mô tả; rốt cuộc, ý nghĩa sẽ được nhìn nhận như một hoạt động cụ thể tồn tại trong một tiến trình biến đổi liên tục tuỳ thuộc vào vị trí của chủ thể trong lịch sử; tức là phát ngôn - tiến trình tạo dựng một ý nghĩa nào đó (đồng thời một tư tưởng hệ nào đó) trong sự ràng buộc với một quan hệ cụ thể mà chủ thể duy trì cùng với diễn ngôn của mình (khác với NGÔN NGỮ) ở đây và bây giờ[16]. Vấn đề thứ hai này đòi hỏi phải có một lý thuyết về chủ thể và về ý nghĩa mà nó có thể trở thành lý thuyết về sự sản xuất diễn ra trong ngôn ngữ. Vì những năm 20 vẫn chưa có một thứ lý thuyết như thế, nên Bakhtin và bạn hữu của ông đã dồn sự chú ý vào thuật ngữ “lời” với một ý nghĩa bổ sung khi nó được chuyển dịch vị trí từ bình diện ngôn ngữ trung tính sang bình diện giao tiếp, hiểu như là diễn ngôn hướng tới người khác (chúng tôi sẽ còn trở lại với vấn đề này). Đó mới chỉ là những khởi thảo phỏng chừng và thiếu chính xác, nhưng bằng trực cảm, có rất nhiều điều, chúng đã tiên đoán ra Freud, một học giả từng giành cho ham muốn hướng tới người khác một vị trí vô cùng quan trọng. Điều này được bàn tới trong chương 5 cuốn sách của Bakhtin.
Trước khi trình bày cụ thể hơn về việc Bakhtin đã cải tạo thi pháp học của phái hình thức luận ra sao, chúng tôi muốn lưu ý tới các giới hạn lý thuyết làm nên đặc điểm cố hữu trong văn bản của ông - các giới hạn lịch sử, xã hội và văn hoá, những giới hạn chắc chắn sẽ làm ngạc nhiên độc giả Pháp hiện nay. Nhưng sự hiện diện của những giới hạn ấy, những giới hạn trong chủ nghĩa tâm lý, trong sự thiếu vắng lý thuyết về chủ thể, trong những mầm mống của việc phân tích ngôn ngữ học, trong sự thâm nhập vô tình của ngữ vựng Kitô giáo vào ngôn ngữ khoa học nhân văn (Bakhtin thường dẫn lời nói về “tâm hồn” và về “ý thức” của nhân vật), liệu có ý nghĩa gì chăng, sự hiện diện này liệu có đúng là chứng tỏ các văn bản của Bakhtin chỉ mang lại hứng thú cho mình các vị thủ thư và các bảo tàng văn học? Chúng tôi không nghĩ như vậy. Trong “Lời nói đầu” viết cho lần xuất bản đầu tiên cuốn sách của mình, Bakhtin nói rõ, rằng ông chỉ có tham vọng đặt vấn đề, chứ không giải quyết vấn đề . Điều lưu ý này không cho phép mgười ta đặt ra những yêu cầu thái quá đối với công trình của ông. Mặt khác, chúng tôi nghĩ rằng, khi thời hiện tại của chúng ta đưa ra ánh sáng những công trình có giá trị của thời đại trước, thì nó làm như thế không phải là để bắt chước cái kiểu mẫu được giới thiệu trong đó, cũng không phải để ngắm nghía chúng giống như ngắm nghía các hiện vật trưng bày trong bảo tàng, mà ngược lại, để từ lớp vỏ tư tưởng hệ già cỗi đang bao bọc chúng, kéo ra một hạt nhân nào đó khả dĩ đáp ứng các nhu cầu nghiên cứu tiên tiến nhất hiện nay, cái hạt nhân hoá ra là vị tiền bối chưa từng biết và cũng không tự biết về bản thân. Thế tức là sự đọc của chúng ta đã có khả năng chạm tới nơi được gọi là cái khách quan mang tính chủ quan của văn bản (“cái đúng là tác giả có ý muốn nói”) nhằm làm hiển lộ tầm quan trọng khách quan của nó đối với những công trình nghiên cứu hiện đại ở lĩnh vực có quan hệ với văn bản ấy. Đó chính là điều chúng tôi muốn đạt được khi giới thiệu việc đọc Bakhtin của mình[17] và chúng tôi tin rằng, cách tham gia tốt nhất vào tiến trình nghiên cứu hiện nay là đưa vào tiến trình ấy một công trình nghiên cứu xa lạ, ra đời sớm hơn, mong sao nó có thể nói cho ta biết về những khó khăn ngày hôm qua của riêng nó, mà hôm nay đã trở thành của chúng ta[18]. Dĩ nhiên là chúng ta phải được tiếp xúc đầy đủ với các văn bản đích thực, và vì thế nhà xuất bản Seuil sẽ giới thiệu bản dịch đầu tiên ra tiếng Pháp từ một trong những tác phẩm của Bakhtin.
[1] Mikhaïn Bakhtine.- Những vấn đề sáng tác của Dostoïevski. L.: “Priboi”, 1929. Xin lưu ý: ở lần xuất bản đầu tiên, trong nhan đề cuốn sách không có chữ “thi pháp” là chữ được trường phái hình thức luận ưa dùng, mà Bakhtin thì cố ý tránh. Cuốn sách gồm hai phần, được phân bố theo trật tự như sau:
Phần 1: Tiểu thuyết phức điệu của Dostoïevski (Đặt vấn đề).
Chương I. Đặc điểm cơ bản của sáng tác Dostoïevski và việc nghiên cứu nó trong văn học phê bình.
Chương II. Nhân vật của Dostoïevski
Chương III. Tư tưởng của Dostoïevski
Chương IV. Chức năng của cốt truyện phiêu lưu trong các tác phẩm của Dostoïevski
Phần 2: Lời của Dostoïevski (Thử nghiệm phong cách học).
Chương I. Các kiểu lời văn xuôi. Lời của Dostoïevski
Chương II. Lời độc điệu của nhân vật và lời kể chuyện trong truyện vừa của Dostoïevski
Chương III. Lời nhân vật và lời kể chuyện trong tiểu thuyết của Dostoïevski
Chương IV. Đối thoại của Dostoïevski
Kết luận
Rabelais (M.,1965); tiếng Anh: Rabelais and his world//Bản dịch của Elena Izvonshkaja, Lời nói đầu của Kristina Pomorskaja, MIT Press, 1968; gần đây, ông công bố hai bài báo: “Lời trong tiểu thuyết”// “Những vấn đề văn học”, 1965, № 8 (bản dịch tiếng Pháp có nhan đề “L'énoncé dans lе roman”//Langages 1968, № 12) và “Từ tiền sử của lời tiểu thuyết”// “Hồ sơ khoa học” Trường Tổng hợp Mordovski, 1967, Quyển 61. Hai bài báo này được rút ra từ cuốn sách đang chuẩn bị in, bàn về loại hình phát ngôn. Xin lưu ý: “Những vấn đề thi pháp Dostoïevski ” còn có cả bản dịch tiếng Ý.
Bakhtin còn là tác giả cuốn sách Sáng tác của François
[2]Théorie de la littérature, textes des formalistes russes réunis, présentés et traduits par Т. Todorov. Р.: Seuil, coll. Tel Quel, 1965.
[3] Theo chúng tôi, ở đây có sự nhầm lẫn về chỉ số thời gian, vì hầu hết những công trình quan trọng nhất của tường phái hình thức Nga được công bố chủ yếu vào giai đoạn 1914 - 1928. Sau khi Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô ra “Nghị quyết về việc cải tổ các tổ chức văn học” (23/04/1932), Trường phái hình thức Nga cùng các tổ chức của nó bị xoá sổ và, dĩ nhiên, công trình nghiên cứu của họ không còn được công bố nữa (xem: Lã Nguyên.- Số phận lịch sử của nền lý luận văn học xô viết chính thống// “Nghiên cứu văn học”, số 9/2008).-ND.
[4]I sistemi di segni e lo strutturalismo sovietico, a cura di Remo Faccani e Umberto Eco. Milano: Bompiani, 1969.
[5] Eikhenbaym viết trong tuyển tập “Văn học”: “Vấn đề có tính nguyên tắc với “nhà hình thức luận” không phải là các phương pháp nghiên cứu văn học, mà là văn học như một đối tượng nghiên cứu. Về cơ bản, chúng tôi không nói và không tranh luận về bất kỳ một thứ phương pháp luận nào. Chúng tôi chỉ nói và có thể nói về một số nguyên tắc lý thuyết từng gợi ý cho chúng tôi không phải bằng một hệ thống mỹ học hay hệ thống phương pháp luận có sẵn nào đó, mà là bằng sự nghiên cứu chất liệu cụ thể trong những đặc điểm loại biệt của nó”. (Trích theo Medvedev P.N. Phương pháp hình thức trong nghiên cứu văn học. Dẫn nhập phê bình vào môn thi học xã hội học. L.: “Priboi”, 1928, tr.106-107).
[6] Ví như các công trình: Tưnhianov J. - Những vấn đề ngôn ngữ câu thơ. L.: “Academia”, 1924, Jakobson R., Tưnhianov.- Những vấn đề nghiên cứu văn học và ngôn ngữ// “LEF Mới”, 1928, № 12; Eikhenbaym B.- Phong cách hùng biện của Lenin// “Lời Nga”, 1924.
[7] Troski L.D.- Văn học và cách mạng. M.,1924.
[8] Pereverzev V.F. Phương pháp xã hội học của các nhà hình thức luận// Văn học và chủ nghĩa Mác, 1929, Quyển 1.
[9]Medvedev P.N. - Phương pháp hình thức trong nghiên cứu văn học. Dẫn nhập phê bình vào môn thi học xã hội học. L.: “Priboi”, 1928.
[10] Volosinov V.N.- Lời trong đời sống và lời trong thơ// “Ngôi sao”, 1926, № 6 (Công trình dành cho Dostoievski); Cùng tác giả.- Chủ nghĩa Mác và triết học ngôn ngữ. L.: “Priboi”, 1929.
[11] Khi bắt đầu có tệ sùng bái Stalin thì giọng điệu tranh luận ấy bắt đầu thay đổi và thái độ thù địch được bộc lộ rõ rệt trong cuốn sách thứ hai của Bakhtin (Xem: Medvedev P.N. Chủ nghĩa hình thức và các nhà hình thức luận, 1934).
[12] Medvedev P.N.- Phương pháp hình thức trong nghiên cứu văn học…, tr. 232.
[13] Medvedev P.N.- Phương pháp hình thức trong nghiên cứu văn học, tr.55.
[14] “Tịch mặc”: dịch từ chữ “quiétisme”, có nghĩa là “thuyết tịch mịch”, một học thuyết tôn giáo, theo đó, sự hoàn thiện về đạo chỉ có thể đạt được chủ yếu qua sự quan chiêm thụ động- ND.
[15] Trong Phương pháp hình thức, Bakhtin viết: “Ý nghĩa” và “nhận thức” là những thuật ngữ cơ bản của các lý thuyết và triết học tư bản về văn hoá. Triết học duy tâm đặt vào giữa nhận thức cá nhân và ý nghĩa một “nhận thức siêu nghiệm”, hay là “nhận thức nói chung”(Bewusstsein überhaupt), bổn phận của nó là giữ gìn sự thống nhất và sự thuần khiết của các ý nghĩa trừu tượng trước sự tản mát và mơ hồ của chúng trong sự hình thành sinh động của thực tại vật chất” (tr.16).
[16] Hệ thống thuật ngữ được sử dụng trong việc xây dựng lĩnh vực lý thuyết mới mẻ này, ở đây, ngôn ngữ được xem là sự phát ngôn - tiến trình thuộc về chủ thể, trĩu nặng đời sống, và ở đây, mọi ý nghĩa hiển nhiên đều là ý nghĩa tư tưởng hệ; hệ thống thuật ngữ này, trong bối cảnh chính trị - xã hội của thời đại, chỉ có thể trở thành thuật ngữ xã hội học và tâm lý học. Xem: “Vấn đề đặt ra có thể đã được giải quyết, nếu như tìm thấy trong tác phẩm thi ca một yếu tố mà nó đồng thời vừa gắn với sự hiện diện trực quan của lời, vừa gắn với ý nghĩa của nó, một yếu tố, giống như nhân tố trung gian, có thể hợp nhất chiều sâu và tính phổ quát của ý nghĩa với tính đơn nhất của âm thanh được phát ra. Nhân tố trung gian đó sẽ tạo ra khả năng chuyển tiếp liên tục …từ hình thức bên ngoài tới ý nghĩa tư tưởng bên trong…Chúng tôi cho rằng, sự đánh giá xã hội chính là yếu tố như vậy…Bởi vậy, sự hiện diện mang tính cá thể đơn nhất của phát ngôn là có tính lịch sử và ý nghĩa xã hội. Từ phạm trù của thực tại tự nhiên nó chuyển thành phạm trù của thực tiễn xã hội…Nhưng qua hành vi thực hành mang tính đơn nhất của nó, bản thân ý nghĩa của lời - phát ngôn cũng cọ xát với lịch sử, trở thành hiện tượng lịch sử…Mối quan hệ hữu cơ giữa ký hiệu và ý nghĩa…chỉ tồn tại với phát ngôn cụ thể và với những hoàn cảnh thực hành cụ thể của nó…Mối quan hệ ấy được tạo ra để phá huỷ và kiến tạo lại, nhưng là trong những hình thức mới, trong những hoàn cảnh phát ngôn mới.
Vậy nên, cái tính bức thiết lịch sử như một nhân tố nối kết sự hiện diện mang tính cá thể của phát ngôn với tính phổ quát và sự toàn vẹn của ý nghĩa, nhân tố cá thể hoá, cụ thể hoá ý nghĩa và tri nhận sự hiện diện về mặt âm thanh của lời nói ở đây và bây giờ, chúng tôi sẽ gọi là sự định giá xã hội” (Medvedev P.N. Tlđd, tr.161-164).
Cũng với tinh thần như vậy, trong “Lời nói đầu” của bản in năm 1929, Bakhtin viết: “Sự phân tích ở đây được đặt trên nền tảng của quan niệm cho rằng, ở bên trong, từ nội tại, mọi tác phẩm văn học đều mang tính xã hội. Trong đó, các lực lượng xã hội sống động cọ xát với nhau, mỗi yếu tố hình thức của nó đều thấm đẫm những ý kiến đánh giá sinh động của xã hội. Bởi vậy, ngay cả sự phân tích hình thức thuần tuý vẫn phải khai thác từng yếu tố của cấu trúc nghệ thuật như là điểm khúc xạ của các lực lượng xã hội sống động, như là sự kết tinh nghệ thuật mà những đường cạnh của nó được tổ chức và trau chuốt thế nào để khúc xạ những tia định giá xã hội khác nhau, và làm khúc xạ chúng dưới một góc độ nhất định”.
Hiện nay, các nhà ký hiệu học xô viết có ý đồ xác lập sự khác biệt giữa cấu trúc của một hệ thống ký hiệu nào đó với cấu trúc của ngôn ngữ bằng cách đưa ra khái niệm “hệ thống mô hình hoá thứ hai”, ví như, trong mối quan hệ với ngôn ngữ, thì tiểu thuyết là hệ thống mô hình hoá thứ hai (Những công trình nghiên cứu về các hệ thống ký hiệu. Tartu, 1965).
[17]Kristeva J. Bakhtine, le mot, le dialogue et le roman // Critique, 1967, № 239 (Bản dịch tiếng Nga: Кристева Ю. Бахтин, слово, диалог и роман // Диалог. Карнавал. Хронотоп, 1993, № 4).
[18] Đây là lý do giải thích vì sao khi giới thiệu những công trình của các nhà ký hiệu học xô viết (xem: Kristeva J. L'expansion de la sémiotique // Kristeva J. Σημειωτική. Recherches pour une sémanalyse, p. 43 sq; Kristeva J. Distance et anti-représentation // Tel Quel, 1968, № 32; Kristeva J. La sémiologie aujourd'hui en U.R.S.S. // Tel Quel, 1968, № 35; Kristeva J. La sémiologie comme science des ideologies // Semiotica, 1969, № 2), chúng tôi không chỉ nhấn mạnh bình diện ngữ dụng và thực chứng trong nghiên cứu của họ, mà còn nhấn mạnh khuynh hướng nhắm tới lý thuyết chủ thể và lý thuyết loại hình của các hệ thống ký hiệu trong lịch sử. Khác với Umberto Eco (xem: Есо U. Lezione е contradizioni della semiotica sovietica // I sistemi di segni…), chúng tôi không nghĩ vấn đề là ở thiên hướng “tiên nghiệm” của ký hiệu học xô viết, mà là ở sự phân tích hệ thống ký hiệu của chủ thể tiên nghiệm, tức là về các cơ sở của sự tiên nghiệm trong hệ tư tưởng khoa học của chủ nghĩa duy vật máy móc (và trầm tích thực chứng của nó). Về lý thuyết, có thể trên con đường vòng vèo này, khoa ký hiệu học mà ngày nay đang cứng đờ trong điệu bộ “điều khiển học” và tiếp tục ấp ủ giấc mơ về việc toán học hoá quá trình tạo nghĩa sẽ có thể liên kết với chủ nghĩa duy vật biện chứng để xây dựng nhận thức luận cho nó. Với ý nghĩa như thế, sự quan tâm của các nhà ký hiệu học xô viết đối với vấn đề chủ thể hoặc lịch sử các hệ thống ký hiệu (của phương Tây, cũng như của phương Đông) là cái “nhánh nhất thời” của tiến trình lôgic đang diễn ra.
(*) Juilia Kristeva (sinh 24. 6. 1941): là nhà văn, nhà nghiên cứu văn học và ngôn ngữ học, nhà phân tâm học, ký hiệu học, triết học, nhà hoạt động nữ quyền người Pháp (gốc Bulgaria), hiện là Giáo sư Đại học Paris 7 Denis Diderot. Bà là người nhiệt thành truyền bá di sản và tư tưởng của M.Bakhtin với cử toạ châu Âu, là đại biểu xuất sắc của trường phái hậu cấu trúc luận, là người đặt nền móng cho lý thuyết “ngôn ngữ học phân tâm”, lý thuyết liên văn bản, lý thuyết văn bản giới và nữ quyền luận. Juilia Kristeva là người đầu tiên nhận Giải thưởng Quốc tế Holberg(2004)do chính phủ Na Uy tổ chức nhằm khôi phục giá trị của các ngành khoa học xã hội và nhân văn, luật học và thần học, bổ sung cho thiếu sót của giải Nobel đối với các ngành này.