Những góc nhìn Văn hoá
Hội nhập văn hóa nhìn từ góc độ lịch sử

GS. Hà Văn Tấn: Cách đây 4.000 năm, trên khu vực lãnh thổ ở trung du và đồng bằng Bắc bộ hiện nay, có một nền văn hóa được hình thành, gọi là văn hóa Phùng Nguyên. Qua những hiện vật mà chúng ta đào được - nhất là một loại đồ dùng nghi lễ gọi là nha trương - có thể thấy lúc đó, xứ sở này đã chịu sự xâm nhập của các yếu tố Ân-Thương của Trung Quốc cổ đại. Khi khảo sát văn hóa Ðông Sơn, chúng tôi lại thấy có những cái búa mà gốc gác của nó phải kể là từ Trung Á tới. Trên phương diện khảo cổ học, thì chuyện giao lưu, hội nhập là chuyện tự nhiên, không ai lấy đó làm lạ cả.
Ở những giai đoạn lịch sử về sau, xứ ta nhiều lần bị xâm lược. Nhưng theo gót kẻ chiếm đóng, bao giờ cũng có văn hóa cùng tới, và bản lĩnh dân tộc đã có dịp bộc lộ trong việc vừa tiếp nhận, vừa giữ được nét đặc sắc riêng, tức hội nhập theo cái cách riêng của mình. Các nhà nghiên cứu lý thuyết thường phân chia quá trình giao thoa văn hóa (hoặc như tôi đề nghị trong một số công trình: Sự tiếp biến văn hóa) làm hai loại, một là tiếp biến tự nguyện và một là tiếp biến cưỡng bức. Nhưng dù tiếp biến kiểu gì, thì trong giao lưu, nền văn hóa nội địa cũng sẽ trở nên giàu có và truyền thống sẽ hiện ra đa dạng hơn.
PV: Chung quanh tính thuần nhất của truyền thống: liệu có rơi vào ngụy biện khi nói rằng, trong lịch sử, đôi khi, cái ngoại nhập lại có trước và cái bản địa lại có sau?
Gs Hà Văn Tấn: Không ngụy biện một chút nào cả! Không phải bao giờ lịch sử cũng rành mạch rõ ràng như ta tưởng. Ví dụ, giờ đây, thấy chị em rủ nhau mặc váy, nhiều người thường cười, cho là đánh mất bản sắc, bởi họ nghĩ váy là của Châu Âu hay Trung Hoa, Ấn Ðộ gì đó, còn phụ nữ Việt Nam mặc quần mới là... dân tộc. Song nên nhớ văn hóa quần thật ra lại của phương bắc, chính ở các nước Ðông Nam Á, nguyên sơ là mặc váy. Ca dao cũ còn ghi lại sự thực đó:
- Cái thúng mà thủng hai đầu
Bên ta thì có, bên tàu thì không
PV: Lại như tính bền vững, tính ổn định của truyền thống, có phải đấy cũng là một cái gì rất tương đối? Nói cách khác, cái truyền thống như nó vốn vậy (bao gồm cả yếu tố bản địa lẫn yếu tố ngoại nhập) không phải nhất thành bất biến, mà chỉ được nhận ra dần dần, và khi nói trung thành với truyền thống thì cần hiểu là trung thành với tất cả những phương diện khác nhau của truyền thống?
Gs Hà Văn Tấn: Có lẽ là như thế! Truyền thống không đơn nhất, cũng như lịch sử không phiến diện, chỉ có một sắc thái nào đó. Một kinh nghiệm riêng: Mỗi khi có người hỏi giai đoạn nào trong lịch sử là tiêu biểu cho dân tộc Việt Nam, tôi thường trả lời là theo tôi, lịch sử Việt Nam bao gồm tất cả những giai đoạn mà nó đã có, không nên tách ra giai đoạn này là giàu chất Việt Nam hơn, mà giai đoạn kia là ít chất Việt Nam hơn. Trở lại vấn đề đang nói: Tôi cũng thường nghĩ trong quá trình phát triển, truyền thống không phải là mục đích. Nó chỉ là cơ sở để ta đi tới. Và bởi bao giờ truyền thống cũng có nhiều mặt nên tiếp tục truyền thống đồng thời cũng có nghĩa sự lựa chọn.
PV: Chỉ riêng trong chuyện hội nhập, lịch sử cũng đã biết tới những giai đoạn Việt Nam đóng cửa, không chỉ nhà cầm quyền mà cả những người dân thường cũng không muốn tiếp nhận gì hết từ các nền văn hóa xa lạ. Ðấy có phải là một chỗ yếu của truyền thống giao lưu ở ta? Khi có sự đụng độ giữa hai dân tộc, có chiến tranh dĩ nhiên có sự co lại.
Gs Hà Văn Tấn: Ở một thời điểm như nửa đầu thế kỷ XIX và tiếp đó, gần như suốt thế kỷ này, sự co lại không muốn tiếp xúc ở ta là quá rõ. Nhưng đấy là do lịch sử quy định chúng ta gần như không thể làm khác. Bước qua nửa đầu thế kỷ XX, khi điều kiện lịch sử khác đi, thì sự giao lưu văn hóa lại bùng lên mạnh mẽ, và tạo nên những hiệu quả đáng tự hào, như chúng ta đang thấy, đang được thừa hưởng.
Tương tự như vậy, trong chừng mực nào đó cũng có thể nói là trong cuộc chiến tranh giải phóng từ 1945 đến 1975, chúng ta phải bảo nhau tự hạn chế mọi tiếp xúc lại để đánh giặc cái đã, nhưng rồi, sau giai đoạn hạn chế ấy, lại tới giai đoạn tiếp xúc sôi động hiện nay. Thành thử bảo ta chỉ biết đóng cửa là không đúng, mà bảo ta quá cởi mở cũng không đúng. Lịch sử đã đi theo đường ray riêng của nó, kể cả lịch sử văn hóa.
PV: Vậy trong hoàn cảnh hiện nay, liệu giới văn hóa có cần phải nhắc nhở nhau là hãy thận trọng, kẻo sẽ làm mất bản sắc ngàn đời của văn hóa dân tộc?
Gs Hà Văn Tấn: Vẫn là cần chứ! Khuynh hướng xa rời bản sắc vẫn là nguy cơ thường trực. Vì muốn học đòi mà xa rời, lại cũng vì tự ti, mà sự xa rời càng cuồng dại hơn. Có điều, không phải vì sợ mất bản sắc mà đóng thật chặt cửa, nhất định từ chối, không tiếp xúc với ai hết. Trong hoàn cảnh giao lưu quốc tế sôi động như hiện nay không thể tự vệ theo kiểu đó được.
Vấn đề đặt ra là: cũng như một con người, mỗi một dân tộc phải giữ gìn cho mình một cơ thể khỏe mạnh, một đầu óc sáng suốt, để khi tiếp xúc với ngoại giới, tìm ra những phương cách tốt nhất, tức biết đồng thời vừa thu hút cái hay, vừa loại bỏ cái dở.
PV: Nhưng đấy là một yêu cầu quá cao. Nhìn vào thực tế giao lưu văn hóa hiện nay, nhiều người vốn rất khác nhau đều gặp nhau trong ý nghĩ là ở ta mọi chuyện quá lộn xộn. Ý kiến ông ở chỗ này ra sao?
Gs Hà Văn Tấn: Vâng, tôi biết, nhiều người đã kêu là quá nhiều, là tốt xấu tiếp nhận không phân biệt, là hỗn loạn... Song, theo tôi, tất cả những cái đó là không thể tránh khỏi. Tôi không bi quan với cái tình thế entropy trước mắt. Và tôi cho rằng chúng ta hoàn toàn có thể vươn ra khỏi sự hỗn loạn, nếu thông minh hơn, biết bảo nhau hơn. Kinh nghiệm cho thấy, ở đây, giới trí thức có thể có một vai trò nào đó, mà xã hội cần khai thác.
PV: Giáo sư là người không chỉ nghiên cứu lịch sử và văn hóa dân tộc mà còn có dịp nhìn rộng ra đời sống văn hóa và hiểu rõ lịch sử nhiều nước ở khu vực Ðông Nam Á nói riêng, và ở châu Á nói chung. Theo ý ông, có những kinh nghiệm gì chúng ta có thể rút ra được, khi quan sát quá trình giao lưu văn hóa ở các nước vốn có những nét gần gũi với ta?
Gs Hà Văn Tấn: Tôi không chuyên tâm nghiên cứu vấn đề này nên cũng chưa có gì để nói, chỉ xin gợi ra một vài cảm tưởng.
Một dân tộc, như người Nhật họ lạ lắm. Trong tiếp xúc với nước ngoài, họ hầu như không có chút mặc cảm nào hết. Họ sẵn sàng bảo:"Chúng tôi chẳng có gì sáng tạo cả! Chúng tôi chỉ học Trung Hoa". Có điều, cách học của họ rất hay, nên tiếp xúc với ai họ cũng biết tự làm cho nền văn hóa của họ giầu có hơn lên. Hôm qua giàu lên nhờ việc tiếp xúc thông minh với văn hóa Trung Hoa. Mà hôm nay, thì giàu lên, nhờ việc tiếp xúc cũng rất thông minh với văn hóa phương Tây. Nhờ vậy nếu hỏi ở châu Á này nước nào biết giữ gìn bản sắc hơn hết, thì người ta cũng lập tức nghĩ đến Nhật. Nên biết rằng ở bên ấy, kịch Nô - một loại hình sân khấu dân tộc - được mang dạy cho trẻ con từ bé, hỏi sao chúng không sớm thuấn nhuần chất Nhật trong người được?
Còn như nếu nói tới chuyện Trung Hoa giao lưu văn hóa với thế giới ra sao, thì đây lại là một câu chuyện quá dài, và sự nghiên cứu của các nhà Trung Quốc học chắc còn hứa hẹn nhiều điều lý thú. Tự bản thân Trung Quốc đã là một nước quá lớn, nên nền văn hóa của họ rất đa dạng, lúc nào đó dù có co lại, thì cũng vẫn đa dạng như thường. Từ thời cổ người Hán, khi bành trướng ra các khu vực ở phía Tây, đã biết chấp nhận những nền văn hóa ở xa họ và sự cởi mở ấy cũng đã trở thành truyền thống bền vững ở họ.
Bước sang thế kỷ XIX, ở Trung Quốc, cũng như Việt Nam và nhiều nước Ðông Nam Á khác, nổi lên vấn đề tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Giai đoạn này của họ lại càng cần được nghiên cứu kỹ vì ai cũng biết giữa ta với Trung Quốc có rất nhiều nét tương ứng.
Vương Trí Nhàn thực hiện
tin tức liên quan
Videos
Khai mạc triển lãm “Hồ Chí Minh - Chân dung một con người”
Độc đáo phong tục hát dân ca trong đám cưới của đồng bào Mông ở Nghệ An
Độc đáo, hấp dẫn Lễ hội Đình Bích Thị ở xã Mai Giang
Câu đối Phan Bội Châu viết về xứ Nghệ và xứ Nghệ viết câu đối về Phan Bội Châu
Từ ngoại giao gấu trúc đến ngoại giao chiến binh sói
Thống kê truy cập
114570179

2215

2367

22562

228703

129483

114570179