Những góc nhìn Văn hoá

De Gaulle và Việt Nam (1945- 1969)(Kỳ cuối)

Ý đồ trung lập của tướng De Gaulle nằm trong nhng mưu toan chính trị - quân sự ở Sài Gòn
 
 Ngày 29-1-64, Lodge báo cho bộ ngoại giao Mỹ là tướng Khánh, tư lệnh quân đoàn I Quân đội Quốc gia Việt Nam quả quyết với ông là đã khám phá được trong chính phủ Nam- Việt Nam một âm mưu trung lập do Pháp gi ý.

Nhng tướng thân Pháp, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hu Xuân bi coi là có dính líu. Lodge tin Khánh là một trong nhng tướng có khả năng nhất và khác vi tướng Trần Văn Minh, sẽ ngả theo kế hoạch chiến tranh bí mật và thả bom Bắc Việt của lầu Năm góc. Lodge đem Khánh và gia đình vào toà Đại s lánh nạn và ha nếu cần sẽ di tản cả gia đình ra khỏi nước bằng máy bay.

 Đảo chính ( của tướng Khánh ) xẩy ra ngày 30-1. Trước ngày đó Washington đã làm áp lc xuống De Gaulle, làm như là nhóm tướng tá Nam Việt bị coi là có ý tưởng trung lập có thể x s theo lệnh hay theo ý của De Gaulle.
 Theo nhiều bằng chng mà các nhà ngoại giao và các cơ quan tình báo thâu thập được, thì trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng, ngay sau Đảo chính 1-11, đã có 2 phái theo 2 xu hướng khác nhau : xu hướng thiên về giải pháp của Pháp ( Dương văn Minh, Lê văn Kim, Mai Hu Xuân, Trần Văn Đôn, Nguyễn Văn Vỹ ), xu hướng trung thành vi đường lối của Mỹ ( Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Hu Có, Phạm xuân Chiểu, Đỗ Mậu ). Nội bộ quân đội trước đã rất mong manh, nay có thể bị coi là đã tan v. Tham vọng chính trị của các tướng lãnh quân đội được thả giàn và nhng cuộc đảo chính nối tiếp  nhau để các tướng lãnh thay nhau vơ vét viện tr Mỹ mỗi ngày một kếch xù.
 Để tránh Nam- Việt Nam bị rơi vào tay cộng sản quá mau chóng, Johnson thấy cần phải thuyết phục De Gaulle vi bất c giá nào để De Gaulle tuyên bố là kế hoạch trung lập hoá Nam Việt không phải là ngay tc khắc. Johnson kiếm được một đồng minh là Gaston Deferre úng c viên tổng thống đảng xã hội Pháp năm 1965. Được tiếp toà Bạch Ốc, Deferre chỉ trích thẳng cánh chính sách trung lập hoá Đông Nam Á của De Gaulle và cho là De Gaulle chỉ có mục đích làm Mỹ lúng túng. Deferre ha là khi trúng c sẽ tc khắc đi đến Washington hỏi ý các đồng minh trước khi quyết định đường lối chính trị của mình !
 Paris nghĩ là s hiện diện quân s của Mỹ Nam-Việt Nam và s hăm doạ leo thang chiến tranh trong một kỳ hạn ngắn có thể là nhng quân  bài chủ của Tây phương nếu - và chỉ nếu - đặt mục đích tối hậu là thương lượng. S hoà hoãn của Liên Xô có thể giúp ích cho việc đó. Là siêu cường quân s độc nhất Thái Bình Dương, Mỹ phải đối đầu vi thế lưỡng nan của một cuộc chiến tranh vi Trung Quốc mà Mỹ vẫn coi như là một cường lc thuộc thủa sơ khai, hung bạo, hiếu chiến và nuôi óc bành trướng. Nhưng để tránh một kịch bản chiến tranh, đổi lại vi một s cam kết rõ ràng là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ tôn trọng một thứ trung lập nào đó, Paris tin chắc là Mỹ có thể điều đình thẳng thắng  vi cả hai, Việt Nam dân chủ Cộng hoà và Trung Quốc..
 Nếu khó mà có thể nghi ng thái độ hoà hoãn của Liên Xô cho ti đầu năm 1965, thì cho ti bây gi vẫn khó mà biết được ý của Trung Quốc về nhng đề nghị đàm phán của Pháp. Trong số các nhà s học có người khẳng định là, vi mục đích loại tr nhng kẻ thù theo " chủ nghĩa xét lại ", Mao nghĩ đến chiến tranh nhiều hơn là hoà bình, nhất là sau chuyện vịnh Bắc bộ. Nhiều người khác lại nhắc lại là CHNDTQ đã khuyên Hà Nội thận trọng trước nhng gây hấn của Mỹ vì Trung Quốc thật s s bị lôi cuốn vào một cuộc đối đầu trc tiếp vi Mỹ. Ít nhất là ti đầu năm 1965, Trung Quốc khuyên đồng minh của mình nên để ngỏ ca cho s điều đình.
 Phân tích lập trường của Hà Nội cũng ngần ấy khó khăn :Các nhà lãnh đạo VNDCCH, một mặt muốn m ca điều đình vi nhng thủ lãnh mi của Sài Gòn, một mặt, ngay t tháng 12- 63, đưa ra quyết định tăng cường áp lc quân s tại miền Nam. Bộ Chính trị đảng Lao Động có vẻ chia rẽ : nhiều nhân vật như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và có lẽ cả tướng Giáp tán thành giải pháp trung lập  miền Nam để tránh một cuộc chiến tranh lâu dài và ác nghiệt. Tuy nhiên vi s vươn lên của Lê Duẩn trong lúc sc khoẻ của Hồ Chí Minh bắt đầu suy đồi, bộ Chính trị đã bị bẻ theo hướng thân Trung Quốc. Tiếp theo là một làn sóng thanh trng trong nội bộ Đảng, trong gii trí thc và sinh viên. Chỉ mấy tuần sau, bộ Chính trị chuẩn y gi nhng đơn vị tác chiến đầu tiên của QĐNDVN vào miền Nam. Bắc Việt cũng bắt đầu phải tập sự ngoại giao làm sao gi được thăng bằng gia 2 cường quốc địch thủ cùng trong phe cộng sản. Bắc Việt cũng không muốn tr lại bàn hội nghị na vì cảm thấy là nạn nhân của Hội nghị Genève năm 1954. Đại s Mai Văn Bộ bộc lộ rõ ràng mối oán giận của các nhà hu trách VNDCCH đối vi Bắc Kinh và s ng vc đối vi Paris, khi phê phán : " Genève chúng tôi đâu có nh người Trung Quốc thương lượng. Họ đã chiếm chỗ của chúng tôi ". Lý Văn Sáu, cu đại biểu phái đoàn Giải phóng miền Nam trong hội đàm Paris cũng nói lại là nhiều người Việt coi Hội nghị Genève là một bc chế.
 
Ý chí muốn xích lại gần Hà Nội
 
 Ngày 1-7-65, Mai Văn Bộ khẳng định vi Nanac'h, giám đốc Á châu s vụ bộ Ngoại giao là chính phủ của ông muốn bình thường hoá quan hệ ngoại giao vi nước Pháp. Ngày 24- 1-66, Hồ Chí Minh gi một lá thư cho tướng De Gaulle yêu cầu De Gaulle dùng " uy thế của mình  để làm ngưng lại cho kịp thi nhng âm mưu nham hiểm mi của Mỹ Việt Nam và Đông Dương ". De Gaulle viết thư trả li " chủ tịch Hồ Chí Minh " ngày 8-2. Ngày 15, bc thư trả li được chính thc đăng trên báo chí vi nhng li lẽ rất hoà giải và lễ độ làm  ngạc nhiên và bc mình nhng gii có liên hệ vi Nam-Việt Nam.
 Không chỗ nào mà nhng li chỉ trích s can thiệp của Mỹ Việt Nam được gii truyền thông nói ti nhiều bằng trong bài diễn văn Phnom Pênh. Nếu 73% dân Pháp đồng ý vi nội dung bài diễn văn đó thì cũng có nhiều chính khách, nhà báo, nhà ngoại giao tiếc là De Gaulle chỉ cáo giác một bên là Mỹ và như vậy khó có thể đng làm trung gian gia 2 bên được. Mendès France cho bài diễn văn vô ích, không thc tế. Tuy Mendès France cùng quan điểm vi De Gaulle về cách hay nhất để làm mất s s hãi gia Mỹ và Trung Quốc là trung lập hóa toàn thể Đông Nam Á, Mendes France khác De Gaulle về phương cách : cho cách hay nhất là De Gaulle nên đi thẳng đến Hà Nội, Washington hay  Bắc Kinh để trình bày nhng đề nghị của mình ngõ hầu làm giảm bt nhng nghi ng và nhng đối kháng.
 Báo chí Trung Quốc im hơi lặng tiếng về cuộc viếng thăm Cam Bốt của De Gaulle vì các nhà lãnh đạo CHNDTQ coi Hiệp định Genève là đã lỗi thi trong khi De Gaulle vẫn muốn da vào nó.
 
Sainteny móc nối một đường giây cho tương lai
 
 Sainteny, tổng trưởng bộ Cu chiến binh trong nội các Pompidou t 1962 đến 1966 được De Gaulle tin cậy vì là người đã tham d nhiều về công chuyện Việt Nam và thỉnh thoảng vẫn có liên lạc  vi nhng nhà ngoại giao người Việt và người Mỹ công cán Paris. Ông nói vi người Mỹ là Việt Nam thống nhất có li cho Tây phương : " biên thùy " Nam Bắc được m, nhng thành phần không cộng sản trong nước sẽ được li thế vô kể vì, theo kinh nghiệm của ông khi còn Hà Nội, đa số người dân miền Bắc không thích hệ thống cộng sản.
 Cũng vì De Gaulle biết Sainteny được các lãnh tụ cao cấp Bắc Việt như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng mến chuộng nên ngày 24-2 ông được De Gaulle trao cho một bc thư cầm tay cho chủ tịch nước VNDCCH, nói là De Gaulle muốn có nhng tiếp xúc mi và chỉ gia 2 người vi nhau.
 Sainteny được Nguyễn Duy Trinh, bộ trưởng ngoại giao, phó thủ tướng tiếp ngày 4-7, và sau đó được chính thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp. Ngày hôm sau 5-7, Sainteny được tiếp chuyện " mặt đối mặt " vi Hồ Chí Minh Chủ tịch phủ. Cảm tưởng của Sainteny là chủ tịch VNDCCH không còn giữ quyền chính na, giao phó cho Phạm Văn Đồng. Hồ Chí Minh có vẻ thất vọng về bc thư của De Gaulle. Tuy không có ảo tưởng gì về nhng li khuyên của mình, Sainteny cũng cảnh giác nhng người đối thoại về hậu quả của một cuộc tranh đấu đến tận cùng, có thể làm lụn bại Việt Nam hay làm Việt Nam rơi hoàn toàn vào quĩ đạo Trung Quốc.  Rút cục nhng cuộc hội đàm vi Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, có vẻ hu ích cho mối bang giao Việt - Pháp nhiều hơn là tìm được một giải pháp ngoại giao ..
 Ảnh hưởng của Bắc Kinh bao trùm Hà Nội lúc đó. Bắc Kinh thúc đẩy tiếp tục chiến tranh để hưởng li : Mỹ bị thua một nước nhỏ, sẽ mất hết uy tín phương Đông, bang giao gia Washington và Moscou sẽ bị lục đục, s tùy thuộc Bắc Kinh về viện tr sẽ mỗi ngày một ln. Nhưng cái khốc liệt nhất là các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang m nhng cuộc thanh trng các tầng lp tư sản, trí thc, sẽ tiếp tục đem chiến tranh Việt Nam ra để biện bạch.
Tuy nhiên khi Sainteny gặp Phạm Văn Đồng lần th hai, lần đầu tiên Phạm Văn Đồng nói sẽ ngưng xâm nhập nếu Mỹ ngng thả bom. Bộ Ngoại giao Mỹ không giấu nổi s ngạc nhiên và bằng lòng. Dean Rusk ra huấn thị cho đại s Mỹ gặp Sainteny để làm sáng tỏ nhng câu nói của Phạm Văn Đồng. Một ủy ban đàm phán do Averell Harriman cầm đầu ủy nhiệm Giáo sư Henry Kissinger, ngôi sao đang lên của Washington và cũng là chỗ quen biết của v Sainteny, Claude Dulong, lo việc này. Kissinger gặp Sainteny ngày 13-6-1966 trước khi ông tr lại Á Đông.
 Nói tóm lại Sainteny đã không tr về vi 2 bàn tay trống. Cuộc viếng thăm Hà Nội của ông đã cho toà Bạch ốc thấy ông là người trung gian có tiềm năng. Toà Bạch Ốc tưởng đã gạt bỏ được mãi mãi vai trò trung gian của chính phủ Pháp sau bài diễn văn Phnom Penh.
 
Một đường giây đầy ha hẹn : Pennsylvania
 
  Pennsylvania là mật mã của một đung giây bí mật trong đó có tên của 2 người Pháp không thuộc ngành  ngoại giao bên cạnh tên của giáo sư Kissinger : Hebert Markovich và Raymond Aubrac. Marcovich là một nhà vi sinh vật học thuộc viện Pasteur Paris, Aubrac là nhân viên cao cấp của FAO ( Tổ chc Liên Hiệp Quốc về thc phẩm và canh nông ). Aubrac được mi vào đường giây này vì là cu kháng chiến và là chỗ thân tình của Hồ Chí Minh. Hai s giả Pháp được Henri Kissinger nh nhắn tin vi Hà Nội là chính phủ Mỹ sẵn sàng ngng ném bom Bắc Việt vi điều kiện là VNDCCH không tăng cường thâm nhập Nam Việt. Kissinger nhấn mạnh ch " ngưng tăng cường thâm nhập " thay vì " ngưng thâm nhập ".
 Ti Hà Nội ngày 21-7 hai trung gian Pháp được bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đón tiếp, lấy c để tái lập s liên lạc gia viện Pasteur Paris và viện Pasteur Hà Nội. Ngày 24, 2 người được gặp Phạm Văn Đồng. Marcovich đưa tin của Kissinger cho thủ tướng VNDCCH. Aubrac nói thêm vào là vấn đề kiểm soát s thâm nhập phải được giải quyết và Mỹ hoan nghênh nhng đề nghị của Hà Nội. Thủ tướng hỏi " Làm sao họ biết được chúng tôi ngng thâm nhập ?" Marcovich trả li là vi máy bay trinh thám có thể kiểm soát được một phần.
Buổi chiều Aubrac được Hồ Chí Minh tiếp. Sau 15 phút hàn huyên về gia đình Aubrac mà Chủ tịch biết rất rõ t khi còn nhà Aubrac năm 1946, Hồ Chí Minh bắt đầu bằng một bài thuyết trình về lịch s, địa dư và địa lí chính của cuộc chiến tranh, rồi Hồ Chí Minh tr lại nhng câu chuyện thường và có ý nói là nhng chi tiết về thuơng lượng đều do thủ tướng Phạm Văn Đồng nắm giữ.
 Ngày hôm sau 2 người gặp lại Phạm Văn Đồng. Ông lập lại vi 2 người là ngưng chiến đòi hỏi phải ngưng thả bom vô điều kiện, vô thi hạn và Mỹ phải rút quân khỏi Việt Nam. Marcovich ngắt li và có ý cho là thiếu thc tế. Phạm Văn Đồng đành phải nói rõ ràng : Quân đội Mỹ có thể lại cho ti khi đạt được một thoả hiệp chính trị Nam Việt. Nếu cần phải bàn bí mật thì bàn tuy không thích hội đàm bí mật ( chỉ gia Mỹ và Bắc Việt ). Không cần phải có s tham d của GPMN khi nhng vấn đề được đem ra bàn không dính dáng gì ti Nam-Việt Nam.
 Khi tr về Paris, Aubrac và Marcovich vội vã tường thuật cho Kissinger nghe. Nhng li nói của Phạm Văn Đồng được Washington cho là thc tế và khích lệ : đàm phán bí mật, không có s hiện diện của GPMN,  quân đội Mỹ vẫn có thể lại miền Nam cho đến khi nhng vấn đề chính trị được giải quyết, thành lập một chính phủ liên hiệp trong đó có.nhng nhân vật của chính phủ Sài Gòn.
 Một lần na toà Bạch Ốc đã không cho là cần thiết phải giảm bt nhịp độ thả bom miền Bắc song song vi s tiến bộ đạt được của đường giây Paris. Rội bom  ác liệt nhất trong chiến dịch Rolling Thunder là t ngày 20 đến 23-8. Chính phủ VNDCCH t chối tiếp thư của các s giả Pháp gi cho Mai Văn Bộ. Đường giây bị tắt ngấm.
 
S trỗi lên của đường giây Manac' h
 
Thàng 10-1967, Manac'h nhận li Mỹ đóng vai trò trung gian không chính thc gia s quán Mỹ Paris và tổng đại diện VNDCCH để chuyển vận thư tín và thúc gấp cuộc đối thoại. Manac' h nhận được khẳng định của Bộ ngày 8-12 : " Nếu Mỹ ngưng thả bom, sẽ có thể có nhng cuộc hội đàm ". Manac' h nói vi Bộ là vì vấn đề tâm lí đối vi dân Mỹ, cần phải nói rõ ràng hơn, khẳng định hơn, như ( "nhng cuộc hội đàm sẽ  diễn ra... ). Ngày 29-12 một bản tuyên bố của Nguyễn Duy Trinh bằng tiếng Pháp được phổ biến vi nhng động từ được chia Thì tương lai, không chia ở điều kiện thc (văn phạm Pháp) na : Sau khi ngưng thả bom vô điều kiện (...) VNDCCH sẽ bắt đầu nhng cuộc nói chuyện vi Hoa Kỳ về nhng vấn đề có liên quan..." Mai Văn Bộ khẳng định vi Manac' h là bản tuyên bố hoàn toàn có tính cách chính thc và t ng " ngưng thả bom vô kỳ hạn "đã được bỏ đi. Về thi gian t khi ngưng thả bom đến khi mcuộc hội đàm, Bộ nói rõ : " VNDCCH m cuộc đàm phán ngay khi s ngưng thả bom được thc hiện "
 Hai địch thủ có vẻ đi gần nhau về nhng điều kiện được đòi hỏi để m cuộc hội đàm.
 
Chọn Paris làm chỗ hội đàm hoà bình
 
 Ngày 20-1 1968, giáo sư Roussel chủ tịch hội Y gii Việt-Pháp, 3 ngày trước khi đi công tác y tế Hà Nội, được mi ti điện Élysée để De Gaulle trao cho một nhiệm vụ bí mật là thăm dò phản ng cúa thủ tướng VNDCCH, không nhng về s tăng cường quan hệ Việt-Pháp sau bài diễn văn Phnom Pênh, mà còn về sáng kiến của De Gaulle là m nhng cuộc hội đàm sơ bộ về hoà bình Paris. Khi được Phạm Văn Đồng tiếp kiến, Phạm Văn Đồng phát biểu " Ông nói vi tướng De Gaulle là tôi đón nhận mọi ý kiến. Trái banh bên tướng De Gaulle ". Qua câu trả li, Điện Élysée coi là đã nhận được sự ưng thuận mặc nhiên của chính phủ Bắc Việt về ý tưởng một hội nghị tương lai Paris bàn về hoà bình Việt Nam.
 Theo CIA, điện Élysée muốn chắc chắn có được s hỗ tr của cả hai chính phủ Việt Nam về s chọn la Paris, nên đã nh một người trung gian kín đáo trao cho chính phủ Nam Việt một bc thư về s la chọn này. Tuy không biết danh tính của người trung gian này, nhưng chắc cũng phải là một nhân vật quan trọng mi tiếp xúc được vi nhng nhân vật cao cấp của chế độ nhưNguyễn Văn Hiếu, cố vấn chính trị, anh của tổng thống Thiệu, nhiều tổng trưởng trong đó có tổng trưởng ngoại giao Trần Văn Đỗ và đại s Sài Gòn Mỹ. Người trung gian cũng nói riêng vi một nhân viên CIA là cuộc thăm viếng nhằm mục đích muốn soi sáng tổng thống Thiệu và nhng cố vấn của ông về thái độ của De Gaulle và của nhng nhà hu trách chính trị Pháp đối vi chính phủ Nam Việt và về nhng diễn tiến chính trị trong s quyết định của Bắc Việt khi chấp thuận nhng cuộc thương lượng. Người trung gian cũng biện bạch cho s xích lại gần Hà Nội của Paris là muốn cân đối ảnh hưởng của Trung Quốc cộng sản và chính phủ Pháp vẫn quyết tâm giúp chính phủ Nam Việt bằng mọi phương tiện có thể được, vì có trách nhiệm tinh thần vi nhng người Việt Nam chống cộng đã chiến đấu cho và vi người Pháp. Người trung gian cũng nói hi vọng cuộc hội đàm diễn ra khi Hồ Chí Minh còn sống ch không vi Lê Duẩn hay vi Trường Chinh. Chính phủ Pháp cũng cho quyết định hội đàm của Hà Nội là một hành động can đảm trước nhng áp lc của Bắc Kinh chống cuộc hội đàm.
 Hoàn toàn là tình c hay là kết quả của đường giây bí mật này ? Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo Evening Star ngày 23-4, Trần Văn Đỗ khẳng định là Nam-Việt Nam không bác bẻ s chọn la Paris làm nơi hội đàm sơ bộ gia các nhà ngoại giao Mỹ vả Bắc Việt, và ngay cả cho nhng cuộc hội đàm sau này nếu mang lại kết quả. Bắc Việt và Nam Việt đều có quan hệ ngoại giao vi nước Phàp và các nhà ngoại giao Nam Việt có thể đóng vai trò quan sát viên của mình một cách tự do.
 
                                                       Kết luận
 
  Ngày 24-4-69, tướng De Gaulle lấy cớ không được tín nhiệm trong một cuộc trưng cầu dân ý, từ chức. Từ sau biến cố tháng 5-68 ông đã sửa soạn ra đi để bảo toàn phẩm giá. Ông chỉ chờ cơ hội..
 Khi ông đưa ra một giải pháp để thay thế sự can thiệp quân sự của một cường quốc có quân lực mạnh nhất thế giới, khi ông cố gắng đẩy xa chiến tranh lạnh ở những nước Đông Nam Á bị tù túng trong những liên minh, rồi thúc gấp mở ra những cuộc đàm phán, phải chăng De Gaulle đã góp phần cho sự thăng bằng thế giới ?
 Đường lối chính trị của De Gaulle đã đưa tới sự hòa giải biểu tượng với Việt Nam mà không chối bỏ tình hữu nghị với Hoa Kỳ. Những giá trị chung giữa các nền văn minh được công nhận và được đặt lên trên những tách biệt về lí tưởng và những khủng hoảng từ đó mà ra. Sự thừa nhận những giá trị đó đến từ một người đã biết tự nhận những lỗi lầm của mình để từ đó đã rút tỉa được những bài học tích cực. Một người biết chấp nhận tầm vóc bi kịch của Lịch sử
   
                                                                                               Nguyên Phong lược dịch

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114560746

Hôm nay

2130

Hôm qua

2289

Tuần này

22064

Tháng này

228289

Tháng qua

122920

Tất cả

114560746