Những góc nhìn Văn hoá

Thế đứng của triết Việt (Kỳ 2)

2. Những Chặng Tiến Của Triết Việt 

 

Đây là một đề tài lẽ ra rất cũ, thế mà lại rất mới lạ đối với người Việt chúng ta. Học giả Dương Quảng Hàm có kết sách “Việt Nam Văn Học Sử Yếu” như sau: “Nếu xét về mặt triết học thì ta phải nhận ra rằng nước ta không có quốc học, nghĩa là cái học đặc biệt bản ngã của ta”. Đó là một sự thiếu vắng đáng tủi hổ cho một nước tự xưng là “văn hiến chi bang”. Vậy cần phải trám lỗ hổng nọ.

Câu hỏi trước hết đựơc đặt ra là có triết Việt hay chăng? Xin thưa ngay rằng không mà có, có mà không. Không có triết Việt theo quan niệm triết là một hệ thống tư tưởng có phân tích và cấu kết chặt chẽ được chép trong sách vở. Hiểu theo nghĩa này thì chỉ Aâu Tây mới có triết. Nhưng theo quan niệm triết như một tiến trình của tâm thức con người vượt qua những trở lực để đạt tới trình độ làm người một cách đầy đủ, thì Việt Nam không những có triết, mà còn là một nền triết cao cả đến nỗi Paul Mus gọi là nền triết siêu hình lăn lưng (métaphysique engagée). Tuy nhiên ít được nhận ra vì nó lẩn vào thể chế, thói tục, huyền thoại, ca dao v.v…

Trong bài này tôi xin bày tỏ điều trên xuyên qua một huyền thoại rút từ quyển Kinh Hùng, đó là truyện XII nhan đề Việt Tỉnh Cương. Truyện kể về một nàng tiên giả dạng cô gái thôn dân đi dự lễ hội rồi “vô ý” đánh vỡ cái bình pha lê cực đẹp nên bị hành hạ. Thôi Vỹ thấy vậy động lòng trắc ẩn liền cởi áo ra đền thay. Cô gái trả ân bằng cách cho Thôi Vỹ lá ngải cứu để chữa bệnh nhục ảnh. Thôi Vỹ đưa về chữa cho bạn hữu đều khỏi. Nhân một sự tư thù mà Thôi Vỹ bị hãm hại để làm của tế thần Xương Cuồng, nhưng may được một cô bạn cứu ra. Trong lúc đêm khuya đi trốn Thôi Vỹ nhỡ chân rơi xuống cái hang có con rắn dài một trăm thước mỏ vàng miệng đỏ cũng bị chứng nhục ảnh. Thôi Vỹ liền lấy ngải cứu chữa lành nên được rắn cõng ra khỏi miệng hang. Sau đó Vỹ được kết bạn với người của tiên và được tặng cặp ngọc long toại, nhờ đó trở nên giàu cáo. Sau tiên đưa vợ chồng Thôi Vỹ đi đâu chẳng ai biết. Cái hang nơi Vỹ rơi xuống nay vọi là Việt Tỉnh Cương.

Câu truyện trên đây có thể nói là bản tóm lược triết lý Việt Nam không những trong tính chất mà luôn trong các chặng tiến của nó. Nói đúng hơn là truyện đó biểu lộ tính chất triết Việt trong những chặng tiến. Chính những chặng tiến đó làm nên triết Việt. Nói thế có nghĩa là triết Việt khác với triết học Tây Aâu di chuyển từ ý niệm nọ đến ý niệm kia, từ tư tưởng này đến tư tưởng khác, muốn học triết chỉ cần đọc sách đã biết. Triết Việt không thế: nó thuộc loại tiết tiến từ tâm trạng này đến tâm trạng kia, từ tâm thức nọ đến tâm thức khác, nên muốn học triết thì phải sống triết để toàn thân tâm tiến theo các chặng của triết. Các chặng đó có thể quy vào ba mối lớn như sau:

- Chặng đầu là vượt linh dị: bám ở đợt này gọi là bái vật.

- Chặng hai là vượt lý trí bé nhỏ: bám ở đợt này gọi là ý hệ.

- Chặng ba là vươn lên vũ trụ chi tâm, tức tâm thức mở ra rộng như vũ trụ, vì thế gọi là tâm linh. Chính ở đợt ba này mà nhân tình mở rộng hết cỡ của nó, gọi là đặt nhân hay là nhân chủ, tức con người thoát vượt khỏi mọi ràng buộc do “trời hay đất” để tự làm chủ lấy mình, làm chủ vận mạng mình, đó là hàng dọc. Còn hàng ngang là làm thế nào phá vỡ được các ràng buộc do xã hội đặt ra trên nền bái vật và ý hệ để mọi người có thể đạt nhân dễ dàng.

Đó là mấy chặng lớn của triết Việt mà ta có thể thấy những nét chấm phá trong truyện Việt Tỉnh.

Bước đầu tiên để sửa soạn cho các thoát vượt kia hàm ngụ trong vụ Thôi Vỹ đi dự lễ hội. Lễ hội là một dịp để tâm hồn con người vươn qua những khung cảnh nhỏ hẹp của cá nhân, của gia đình để hòa mình vào bầu khí tâm linh của công thể đặng tài bồi cho những mối tình cao đẹp, những ý nghĩ quảng đại bao la vươn tới muôn người. Đấy là những bước cụ thể trên đường thành tựu nhân tính. Cô gái bị hành hạ là một cảnh thương tâm nhưng có người coi thấy mà như thường không cảm thấy xốn xao trong dạ. Đó là những kẻ còn thiếu óc tha nhân mà ngạn ngữ Việt Nho gọi là “ma mộc bất nhân”, nghĩa là người bất nhân đã tê liệt hết tình người ví như gỗ cứng vô tình. Những tâm hồn đó không thể nào bước lên được con đường triết lý nhân sinh. Muốn bước lên được trước hết phải là con người biết rung động trước nỗi đau khổ của tha nhân. Thôi Vỹ đã tỏ ra như thế trong việc cởi áo đền thay người, nhờ vậy mà hạt giống triết được nẩy mầm trong tâm thức Vỹ. Mầm đó được biểu thị trong lá ngải cứu do tiên tặng cho. Ta hãy xem mầm triết đó nẩy nở ra sao trong các bước tới. 

Bước đầu tiên là vượt bái vật. Bái vật đây có thể gọi là linh dị hoặc thần dị chỉ hết mọi sự tin kiêng có tính cách dị đoan có hại. Hại lớn thì như các vụ giết người tế thần xưa nơi dân Phénicie hoặc như vụ Jim Jones xúi hơn chín trăm người Mỹ tự vẫn hơn một năm trước đây. Đấy là những cái hại do bái vật có tính cách lộ liễu dễ nhận ra, còn cái hại kín đáo tế vi nhưng cũng là sự xúi giục tự vẫn, tự vẫn từng phần nào đó trong con người, như lấy những tin kiêng đó chặn mắt tâm hồn không cho thấy sự thực như nó là: có sao thấy vậy, mà không nhìn sự vật qua lăng kính của bái vật, của những tin kiêng. Vì thế bước đầu tiên trên con đường dài dẫn đến tâm hồn triết gia là phải vượt bái vật để đi lên đợt lý trí khách quan. Ơû bái vật thì lý trí ít có chỗ dùng, óc phê phán minh biện không được tài bồi để nhìn rõ đâu là ảo tưởng đâu là sự thực. Vì thế nếu không vượt được đợt bái vật thì không sao đáng mặt triết nhân. Triết học quen gọi đây là bước vượt thần thoại: vượt càng xa, tẩy rửa càng sạch, thì sự tiến càng cao độ theo đà. Do đấy ta thấy những triết gia trung thực bao giờ cũng trải qua một cuộc khủng hoảng tâm hồn biểu lộ nhiều khi bằng một sự hoài nghi có hệ thống kiểu Descartes: đó chính là lúc những tin tưởng dị đoan khởi đầu lung lay rạn vỡ, nếu vượt qua được thì người ấy đã đi được bước đầu tiên trên con đường triết. Trong lịch sử triết Tây Aâu Socrate đã bị án tử hình vì bị cáo là đã phế bỏ các thần của dân Hy Lạp chính vì lẽ đó. Vỹ đã vượt được đợt này như ám chỉ trong truyện bằng thoát khỏi nanh vuốt thần Xương Cuồng nhờ một cô gái giúp phương tiện. Trong truyện Việt Tỉnh các cô gái xuất hiện nhiều ở chặng quan trọng: chặng đầu tiên và cuối là ma cô tiên, chặng giữa này là nàng Phương Dung. Các cô đó đại biểu cho nguyên lý mẹ là nguyên lý không bao giờ vắng bóng trong văn hóa Việt dưới tên các tiên nữ như Aâu Cơ, Vụ Tiên nhờ đó triết Việt không nghiêng sang một bên: không duy nào cả. Chính nguyên lý nọ đã giúp cho Vỹ đi được những bước vững chắc trên con đường triết mà bước đầu là vượt bái vật.

Sau bái vật thì đến bước hai là vượt ý hệ: Ý hệ là hệ thống các ý niệm. Tại sao cần phải vượt qua. Thưa vì ý niệm chính là hình ảnh sự vật do lý trí bóc lấy từ sự vật, vì vậy nó giống như hình chụp bất động: chụp sao thì còn mãi vậy. Hình chụp của ta lúc nhỏ nay ta đã lớn mà hình cứ còn nhỏ y nguyên. Điều đó nói lên sự bất lợi khi bám riết theo ý niệm mà không theo dõi được sự việc luôn luôn biến chuyển, tệ hơn nữa khi đem các ý niệm đó kết cấu thành hệ thống thí nó trở nên một thứ lăng kính bắt xem sự vật theo lăng kính đó, nên không thể xem được sự vật y nguyên. Vì vậy tôi quen gọi một cách khinh thị là ý hệ mà không là ý thức hệ. Vì sự thực không có thức gì hết mà chỉ có sự mê muội cố chấp như kiểu cộng sản là một thí dụ đau thương: Mác Lê đã bám vào một vài ý niệmgỡ ra từ tình trạng kinh tế Aâu Châu giữa thế kỷ 19, thí dụ thợ thuyền sẽ càng ngày càng trở nên nghèo khó, tư bản sẽ giẫy chết, không thể thoát, bao giờ vô sản bóc lột lại những kẻ bóc lột thì sẽ được sung sướng v.v… Đó là những ý niệm nảy sinh do tình trạng một thời (nửa thế kỷ 19) và một nơi (Aâu Châu) vậy mà đã không chịu thải bỏ theo thời, theo nơi lại còn kết tập lại thành hệ thống duy vật biện chứng rồi dùng bạo lực áp đặt lên mọi nơi mọi người. Đó là cái tật ý hệ nó chắn mất con mắt không cho nhìn ra sự vật nguyên hình, trong triết gọi đó là bệnh coi trọng thuyết lý hơn sự kiện. Việt cộng quen nói “hồng hơn chuyên” là thế. Nghiên cứu về sử đẳng tính phải thắng sử tính.

Trong truyện Việt Tỉnh thì ý hệ được biểu thị bằng bệnh nhục ảnh. Chính chữ có nghĩa là cái bướu, nhưng âm thanh của từ ngữ gợi lên cái hình ảnh thuộc nhục thể, nên dùng hai chữ nhục ảnh mà chỉ ý hệ thực là ám hợp, vì ý hệ là hệ thống các ý niệm, mà ý niệm là hình ảnh trá hình, hình ảnh “xác thân” của sự vật, đem những ý niệm kết cấu thành hệ thống cứng nhắc thì đó là một thứ bệnh chắn con mắt tâm hồn không cho thấy sự vật y nguyên. Đó là bệnh thuộc con mắt, vì mắt thâu nhận hình ảnh sự vật, và nó chỉ thâu được có hình dáng bên ngoài nên hình ảnh rất rõ. Chính vì sự rõ rệt phân minh nọ mà bệnh nhục ảnh rất khó chữa. Hai mươi lăm thế kỷ triết học Aâu Tây đã mắc chứng nầy. Heidegger gọi là sicktbarkeit, visibility. Oâng gọi đùa là concupiscentia oculorum: bệnh đói con mắt. Nói triết cổ điển Aâu Tây chỉ là một ý hệ mà không là ý thức hệ, thì chính là nói nền triết học nọ mắc chứng nhục ảnh, coi trọng hệ tư tưởng hơn thực tại, và do đấy các triết gia Tây phương chỉ đáng tên là triết học gia, hay là ý hệ gia (idéologue) chứ không triết gia vì không đủ sức đẩy triết học vươn lên đợt minh triết, mà chỉ là một thứ ý hệ khô cằn trừu tượng vô tích sự khiến người đời phát sợ.

Ta hãy trở lại với Thôi Vỹ để xem người có vượt được chặng này chăng. Thưa có như được biểu thị trong truyện. Trứơc hết là người đi trong đêm tối bị rơi xuống giếng sâu, trong đó phải chịu đói khát đến nỗi phải ăn mầm đá… Đó là lúc sửa soạn từ bỏ ý niệm của giác quan, của tai mắt. Còn rơi xuống giếng là một sự giật mình (a chock) của tâm thức, một sự xao xuyến lo âu, mắt không thấy chi như người đi trong đêm tối, bụng thì đói khổ vì không còn bằng lòng với những sự thực bé nhỏ do tai mắt cung ứng nữa, bởi đã thấy chúng dựa trên các ý niệm của sự vật hữu hạn, nên chạy theo chúng là đi vào ngõ bí. Vì thế cần phải thải bỏ. Sự thải bỏ này được Kinh Dịch kêu là “dược tại uyên”: nhảy vào hố thẳm, tức trút sạch mọi ý niệm để tâm hồn “trở nên trống trơn”. Việc này được biểu thị bằng sự việc Thôi Vỹ rơi xuống hang sâu, do đó gặp dịp dùng ngải cứu để chữa bệnh nhục ảnh cho con rắn dài trăm thước có mỏ vàng miệng đỏ: đó là vật biểu của Việt tộc cũng có tên là Bách Việt (trăm thước) với là cờ nền vàng có miếng tròn đỏ ở giữa. Con rắn mắc bệnh nhục ảnh có nghĩa là đại chúng Bách Việt cũng như hết mọi dân trên hoàn cầu đều mắc bệnh nhục ảnh, cũng như mắc nạn Xương Cuồng. Đó là những chặng cản trở bước tiến của tâm thức con người, nên khi con người muốn tiến thêm thì phải vượt qua, mà dẫn đầu phải là các triết nhân. Điều này đã thấy xảy ra ở ba truyện đầu trong Kinh Hùng (II-IV) khi Lạc Long Quân vượt qua bái vật Xương Cuồng chỉ bằng diệt mộc tinh, rồi vượt ý hệ nhục ảnh chỉ bằng diệt Hồ tinh và Ngư tinh. Nay đến lượt Thôi Vỹ cũng đã vượt xương cuồng và nhục ảnh, chỉ còn lại việc đi lên giai đoạn ba là tâm linh. Hỏi Thôi Vỹ có đi hết đường chăng? Thưa có như được biểu thị trong truyện bằng việc rắn công kênh Thôi Vỹ lên khỏi hang tối để Vỹ được hoàn toàn tự do, rồi được lấy vợ tiên với quà tặng là cặp ngọc Long Toại, nhờ đó Vỹ trở nên giàu có v.v…

Đó là một ẩn dụ chứa đầy những chân lý sâu xa. Muốn hiểu được phần nào chúng ta cần dùng phương pháp đối chiếu với câu truyện rất thời danh về cái hang của Plato chép trong sách Republic của ông. Câu truyện này thường được coi như đỉnh cao nhất của triết lý Plato, cũng như tóm lược trọn tính chất của nền triết lý đó, nên đem so với cái hang Việt Tỉnh Cương là nắm được then chốt hai nền triết lý Đông Tây trong hình ảnh cụ thể và cao cả nhất của mỗi bên. Trong cái hang của Plato có những tù nhân bị trói quay mặt vào tường và chỉ thấy được những hình ảnh di động trên tường, mà các tù nhân tưởng là chính sự vật. Trong nhóm tù nhân có một người may mắn gỡ bỏ khỏi xiếng xích để lẻ ra ngoài, mới nhận ra những người những vật đang di động trên trục lộ, được ánh sáng mặt trời chiều hình ảnh lên tường. Trong ý tưởng Plato những sự thực đó là các ý niệm. Gồm cả các ý niệm lại gọi là lý giới, còn các hình ảnh trên tường là các sự vật giác quan ta tiếp xúc với, đó là trần giới (le monde sensible). Theo Plato thì trần giới chỉ là hình bóng, còn lý giới hay thế giới những ý niệm mới là sự thực. Do đó vấn đề lớn nhất trong siêu hình cổ điển là vấn đề các yếu tính (la question de universaux), hỏi rằng các yếu tính cũng gọi là các ý niệm có thực đến độ nào? Plato cho là thực trọn vẹn, thực cách độc hữu đến độ các vật trần gian chỉ là bóng hình.

Khỏi nói thì ai cũng biết là chủ thuyết của Plato đã ngự trị trọn vẹn vòm trời triết Tây đến độ Whitehead đã có thể viết rằng 25 thế kỷ triết Tây chỉ là những chú thích các trang sách của Plato. Vậy có nghĩa là triết học cổ điển Tây Aâu đã bỏ sự thực trần gian như những mối nhân luân, lịch sử con người v.v… để giồn hết tâm lực vào thế giới ý niệm rất xa vời thực tế, thế có nghĩa là đã bỏ mồi bắt bóng, đọa ra một thứ mộng du, không điều động được đời sống, cho nên người ta coi triết bằng con mắt thương hại. Nietzsche gọi sinh viên triết là các thánh tử vì đạo triết, học xong mà còn giữ được lương tri lành mạnh là phúc rồi. Tai họa lớn hơn hết mà triết Tây đã gây ra cho loài người là làm cho người ta coi thường triết, nếu không là khinh miệt, trong khi đáng lẽ triết là khoa cần thiết hơn hết cho cuộc sống. Nói theo huyền thoại Việt Tỉnh thì nền triết học cổ điển Tây Aâu quả là mắc bệnh nhục ảnh, tức là một nền siêu hình giả tạo vì xây trên ý niệm suông mà không trên thực tế khách quan. Bởi thế Kant gọi đó là một siêu ảo tưởng transcendental illusion, không giúp cho triết nhân vượt ra khỏi nhị nguyên là chọn một bỏ một: chọn trời bỏ đất như duy tâm, hoặc ngược lại là duy vật. Trong cả hai trường hợp đều không có người, con người bị vong thân: bị bán đoạn mại cho sự vật, không còn được tự quyết về vận hệ mình theo bản tính của mình mà phải tuân theo những dị đoan hay ý niệm sự vật bên ngoài con người, trái với bản tính của người.

Ngược lại Thôi Vỹ đã vượt lên được khỏi hang thì được lấy vợ tiên rồi được giàu sang hạnh phúc. Điều đó hàm ý rằng Vỹ đã thực sự vựơt ra khỏi hang: cả hang bái vật cũng như hang ý hệ, tức giũ xong các ách ràng buộc con người, để con người lấy lại được tâm mình, tự làm chủ lấy mình, đó gọi là nhân chủ, có nghĩa là trở nên một vua, ngang cùng trời đất. Và như vậy là lên tới đợt tâm linh, nói theo triết là đặt đợt minh triết, nói theo tác hành động ứng là lên tới đợt an vi với hậu quả là gây được cuộc sống an vui hạnh phúc cho mình, cho xã hội, trong truyện chỉ bằng lấy vợ tiên với quà tặng là ngọc long toại. Chữ toại cùng nghĩa với Toại nhân là người phát minh ra sự dùng lửa. Tiên cho Vỹ cặp Long Toại là cho Vỹ nền minh triết xây trên nét song trùng nguyên thủy: tiên rồng, trời đất, sáng và nóng. Con người được định nghĩa là thiên địa chi đức. Khi tâm hồn nào thể nghiệm được chân lý đó thì lòng mở ra rộng như vũ trụ nên gọi là vũ trụ chi tâm, với hậu quả cảm nghiệm ngay trong lòng là coi mọi cái trong đời nhẹ hẳn đi, không còn quá quan trọng tiền tài danh vọng, lòng tự nhiên như được nâng cao thanh thoát, khác nào khi ta ngồi trên máy bay xem xuống thấy nhà cửa ruộng vườn chỉ còn như cái bát, mất hẳn sự quan trọng mà ta gán cho khi đang ở trong nhà. Nhưng đồng thời người có vũ trụ chi tâm lại muốn ôm cả vũ trụ vào lòng để cải đổi vận hệ cho nó tốt đẹp hơn. Họ sẽ nói như Nguyễn Công Trứ “vũ trụ nội mạc phi phận sự” trong vũ trụ không có việc gì không là bổn phận của tôi: mỗi người tỵ nạn đắm thuyền là lòng tôi đau nhói, mỗi quân nhân còn bị giam trong cải tạo làm lòng tôi xốn xang v.v…

Những tư tưởng bao la trên đây đã được lược đồ hóa vào khung chữ tỉnh. Nên gọi là Việt Tỉnh Cương. Gọi triết Việt là tỉnh là giếng, vì đó là giếng luôn luôn vọt lên nước nuôi dưỡng làm lớn mạnh những tâm hồn cao cả trong dân tộc. Vì thế mà nhân vật trong truyện mang tên là Thôi Vỹ. Cả hai chữ Thôi và Vỹ đều có nghĩa là cái gì cao cả (Thôi), vĩ đại (Vĩ) nên Thôi Vỹ cũng chính là Vĩ nhân, tức là một nền triết lý để huấn luyện nên những vĩ nhân tự cường tự chủ, nói theo triết là những người đạt nhân chủ tức là đặt lý tưởng cao nhất của triết mà sứ mạng là phải giải phóng con người khỏi mọi ràng buộc để nó đặt đợt nhân tính tròn đầy.

Trở lên là thử phác học những chặng tiến của triết Việt. Ta thấy đó quả là một nền triết rất cao cả. Thế mà tại sao cho tới nay Việt Nam vẫn bị kể là không có triết. Không nói tới các tác giả quốc tế mà ngay chính người Việt cũng phải công nhận. Tôi nhớ lại xưa kia khi đọc các sách của Plato rồi quay về đọc các sách Nho thì cảm tưởng tràn ngập tâm hồn lúc ấy là Plato cao cả như thần, còn Nho giáo chẳng qua là một thứ luân lý tầm thường. Nho đã có lời, có sách mà còn không thể so sánh được với hệ thống đồ sộ của Plato, Arsitotle huống chi là Việt ngay văn tự còn chưa có, nói chi tới hệ thống tư tưởng.

Thế nhưng sau nhiều năm mải miết trong triết Tây, thấy vô số môn phái khác nhau như trời với đất, thuyết nọ đả thuyết kia, nhưng tất cả giống nhau ở chỗ đều trừu tượng xa đời sống, có thể nói là một xa xỉ chẳng ơn ích chi cho ai. Lúc ấy tôi mới sực nhớ tới thứ tự của “tam bất hủ” Đông phương là đức, công, ngôn, trong đó lập ngôn chỉ đứng thứ ba sau lập đức và lập công, nghĩa là khác hẳn triết Tây đặt lập ngôn lên đầu, để khỏi nói là duy nhất. Như vậy muốn hiểu được triết cả Việt cũng như Nho thì phải theo bực thang đức công ngôn mà xét, tức không xét lời, xét hệ thống ý niệm mà phải xét xem hàng dọc nó đã đạt được những đức tính nào cho tư nhân, còn hàng ngang đã lập được những công trạng gì trong xã hội. Lúc ấy thứ tự lật ngược hẳn lại, tức là triết Nho vượt xa triết học Tây Aâu, nếu có thua sút thì chỉ là đốivới triết Việt. Câu này mới nghe có vẻ kiêu thái do óc quốc gia quá khích, vì vậy cần kiểm kê qua những tiêu chuẩn hàng ngang thuộc xã hội của nhân chủ thuyết. Khi một xã hội có được nền triết nhân chủ thì phải đặt được những hệ quả sau:

1.   Con người không bị nô lệ cho dị đoan hay thuyết lý nào.

2.   Xã hội phá được chế độ nô lện.

3.   Mức độ bình sản cao.

4.   Địa vị đàn bả khả trợ.

5.   Mức độ tự trị thôn xã cao.

Đó chỉ là mấy tiêu điểm mẫu, thuộc phần lập công, hễ xã hội nào có đựơc thì đấy có nhân chủ, có càng cao thì nhân chủ càng thân sâu. Muốn xét từng điểm trên xuyên qua lịch sử thì mỗi điểm sẽ là một luận án đồ sộ. Thế nghĩa là ở đây không thể đi vào chi tiết nhưng khi nhìn bao trùm thì ta có thể nói các xã hội cổ thời của Tây Aâu hay Aán Độ tất nhiên không được bén mảng. Vì Aán Độ còn nằm gọn trong tay xương cuồng bái vật nên xã hội còn bị nạn đẳng cấp. Tây Aâu thì vướng chân trong ý hệ nhục ảnh nên xã hội cũng giai cấp đấu tranh thường trực, chỉ có Tàu theo Nho là có được năm điểm trên nhưng vì là Hán nho tức Nho đã bị bẻ quặt nên chưa đạt cao bằng Việt lý đại để như sau:

1.   Con người chưa thoát xong nạn xương cuồng, nhiều lần một vua chết thì có cả hàng trăm người bị chôn sống theo, bên Việt không có như vậy.

2.   Xã hội cổ Tàu còn nhiều nô lệ, tuy chế độ nô lệ đã bị Nho đả phá sớm, nhưng sự kiện nô lệ còn nhiều hơn ở bên Việt Nam.

3.   Mức độ bình sản bên Việt vẫn cao hơn. Ruộng công điền vẫn chiếm đa số cho tới thế kỷ 19. Lúc xuống thấp nhất cũng còn được 20% trong khi bên Tàu có lúc xuống tới 4%.

4.   Địa vị đàn bà bên Việt cao hơn hẳn bên Tàu.

5.   Mức độ tự trị xã thôn cũng cao hơn, dân chủ hơn. Vì quyền hành không nằm trong tay một họ mà trong toàn dân.

Như vậy là căn cứ trên những điểm khách quan ta có thể nói triết Việt đã đạt điểm cao nhất là nhân chủ, là an vi. Nếu thế thì ta khỏi cần làm chi nữa chăng?

Thưa không, vì nếu xét lại ba nấc thang của tam bất hủ, sẽ nhận ra tiền nhân ta mới chú ý đến có hai đợt là lập đức và lập công, còn lập ngôn thì chưa, tức khi chưa kịp đi đến giai đoạn lập ngôn, lập văn tự thì nước đã bị rơi vào ách đô hộ Tàu, nên tiền nhân đã dùng ngôn ngữ của Nho, mà vì Nho chỉ chuyên về ngôn từ nghệ thuật chứ không đi sâu vào lý luận phân tích và hệ thống nên dọc dài lịch sử nước Việt chúng ta chưa có được một nhà tư tưởng, chứ đừng nói đến một triết gia. Điều đó xưa kia không hệ trọng cho lắm, nhưng khi bước vào đời mới thì đó là một khuyết điểm rất trầm trọng. Mất nước một phần cũng vì đó, vì khi thiếu một nền triết học thì người trong nước không nhận thức ra được quốc tuý quốc hồn cũng như giá trị riêng của mình, và những đường lối ơn ích ám hợp cho khung cảnh mình để dùng làm chủ đạo.

Vì thế đã đến lúc người Việt phải nghĩ tới bứơc lập ngôn còn bỏ dở, tức là phải kiến thiết lấy một chủ đạo hợp với khung cảnh đất nước cũng như ám hợp với các đòi hỏi của thời đại, nếu không thì chưa nói đến việc kiến quốc, mà ngay công việc trước mắt là duy trì tinh thần Việt tộc, duy trì nền văn hóa quốc gia cũng khó lòng lâu dài. Vì tâm hồn con người cũng như thiên nhiên rất kỵ sự bỏ trống: nếu ta ngâm một bông biển khô xuống ao thì nước sẽ dẫn dần ngấm vào, ngược lại nước ao sẽ đứng ngoài bông biển khi nó đã được tẩm một thứ nước nào đó. Tâm hồn con người cũng vậy, bao giờ nó cũng phải theo một nền chủ đạo nào đó, hầu hết cách tiềm mặc. Nếu dân tộc không cung ứng cho nó một chủ đạo thì nó sẽ thâu nhận bất kỳ một chủ thuyết nào đó mà nó gặp tuỳ sự may rủi. Vì vậy việc lập ngôn lúc nàay trở nên khẩn thiết: Cha ông đã gửi lại cho chúng ta đủ chất liệu phong phú trong hai bước lập đức và lập công, chỉ còn cần lập ngôn tức phân tích và tìm ra những phạm trù ám hợp, những mô thức hợp cảm quan thời đại để tổng hợp trình bày thì chúng ta sẽ có được một nền triết đây đủ cả đức, công, ngôn, tức vừa có nội dung bảo đảm theo nghĩa khi đem ra thi hành không sợ nó quay lại tác hại con người như những ý hệ, mà đồng thời lại có một hệ tư tưởng theo một lối kết cấu riêng biệt Việt Nam.

Đó là điều rất đang mong đợi vậy

Nguồn:dunglac.org
 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114596003

Hôm nay

2153

Hôm qua

2335

Tuần này

21464

Tháng này

222620

Tháng qua

131357

Tất cả

114596003