Những góc nhìn Văn hoá

Mấy suy nghĩ về cái cá biệt trong Chiếc Thuyền Ngoài Xa của Nguyễn Minh Châu

Trong văn học 1945 - 1975, cái cá biệt hầu như bị loại trừ. Văn học là tiếng nói nhân danh dân tộc, đại diện cho nhân dân. Nó ưu tiên trước hết cho cái tiêu biểu, cái đại diện. Sau 1975, văn học làm một hành trình ngược lại. Cái riêng, cái cá biệt xuất hiện và trở thành tâm điểm để nhà văn nhận thức, soi chiếu đời sống. Với ý nghĩa đó, Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu tiêu biểu cho sự thể nghiệm này của nền văn học mới.

Chiếc thuyền ngoài xa trước hết dẫn người đọc đến với những con người cá biệt. Hai nhân vật chính của tác phẩm, người đàn ông và người đàn bà đều không tên. Một người đàn ông không tên, một người đàn bà không tên với “thân hình quen thuộc của một người đàn bà vùng biển”, trên một bãi biển vô danh… Tất cả như một sự hướng đạo: họ có thể là riêng mà cũng có thể là bất cứ ai ta gặp trên đất nước có chiều dài xuyên dọc bờ biển này. Không phải vô cớ mà mỗi khi nhìn tấm ảnh, người nghệ sỹ luôn có cái cảm giác: “Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất chắc chắn, hoà lẫn trong đám đông…”. Nhân vật cá biệt, nhưng trong họ có gương mặt của đám đông.
Một biểu hiên nổi bật của cái cá biệt trong tác phẩm là sự cá biệt đến quái đản của tình thế. Nó dị biệt, khác thường đến mức “không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được” - Đẩu và tôi cùng thốt lên”. Sự khác thường được đẩy lên với hai cấp độ. Thứ nhất, ấy là sự thật đáng kinh ngạc sau bức tranh thiên nhiên diễm lệ: người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của chồng, không hề có sự phản ứng. Người chồng đánh đập vợ tàn nhẫn đến mức trở thành một thói quen, vô cảm và bản năng. Những đứa con bất lực nhìn cảnh bạo lực diễn ra ở chính cha mẹ chúng. Tất cả diễn ra đều đặn, câm lặng đằng sau cái vẻ đẹp tuyệt mỹ và toàn bích của thiên nhiên. Một hiện thực quái đản không thể lý giải được. Thứ hai, còn đáng ngạc nhiên hơn nữa, khi bi kịch gia đình tưởng có thể giả quyết theo cách thông thường, tưởng như là lối giải thoát hợp lý nhất trong tư duy của “tôi” và người bạn - vị quan toà đại diện cho công lý thì hoàn toàn ngược lại. Người vợ đứng trước sự che chở của công lý đã từ chối sự bảo trợ của nó với lý lẽ đáng ngạc nhiên và không ngờ nhất: “Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó…”. Lòng tốt và cả công lý nữa không thể thấu triệt được với tình thế bất ngờ này.
Rõ ràng, Nguyễn Minh Châu đã đưa ra một câu chuyện trái ngược nhận thức thông thường bằng chính sự cá biệt của nó. Ông muốn đối thoại với cách viết về con người số đông trước kia. Trong văn học 1954 - 1975, con người trước khi là mình, dù rất ít khi nó được là mình, nó phải là con người của giai cấp, của “phe ta”, đại diện cho sức mạnh và khát vọng của cả dân tộc. Lấy điểm tựa là số đông, nó mạnh mẽ và đầy lý tính. Chân lý đối với nó phải là cái đúng, cái hợp lý. Nó ít khi chấp nhận sự cá biệt, trong khi chỉ có cái cá biệt mới dung hợp được cái éo le, bất thường. Ngược lại, ở đây, con người trước hết là đại diện cho chính nó, là con người cá nhân - đời tư trong tất cả sự riêng tư, éo le. Bởi thế, hiện thực được nói đến, trước hết là cuộc sống hiện tồn của cá nhân - hiện thực đa đoan trong cái nhân sinh nhiều vẻ của nó - hiện thực dung hợp trong nó tất cả những cái eo le dị thường nhưng có lý của cuộc sống. Bài học được rút ra ở đây là: hiện thực nhiều khi bất khả tri, nhiều khi tàn nhẫn đến phi lý nhưng nó là hiện tồn, hiện sinh không chối cãi. Để sống, để tồn tại, con người ta không có cách nào hơn là chấp nhận sự phi lý, tàn nhẫn đôi khi đến bất thường của nó. Đến đây, cái cá biệt trong tác phẩm gợi ra cái nhìn không đơn nghĩa về cuộc đời. Nó cá biệt nhưng không đơn trị. Nó chạm vào cái quy luật nghiệt ngã nhưng thẳm sâu và có lý vô cùng của tồn tại.
Một phương diện khác cũng được tác phẩm khẳng đinh là cái nhìn cá biệt, cá nhân hoá cùng kinh nghiệm cá nhân về cuộc đời. Ở Chiếc thuyền ngoài xa, người kể chuyện được nhân vật hoá: là một nhân vật trong truyện. Trước hết, Phùng xuất hiện trong tác phẩm với tư cách người làm chứng - chứng kiến câu chuyện xảy ra với tư cách một người ngoài cuộc theo đúng nghĩa của từ này: “Chắc chắn họ không trông thấy tôi”. Anh đứng đằng sau chứng kiến màn đánh vợ kỳ lạ của người đàn ông, chứng kiến bi kịch gia đình, rồi lại ngồi giấu mặt đằng sau bức màn vải hoa chứng kiến cuộc nói chuyện giữa người đàn bà và vị quan toà trẻ tuổi. Ngay cả khi tưởng như đã nhảy vào câu chuyện rồi, người kể chuyện cũng không hề tạo nên bước ngoặt mới nào cho câu chuyện, nghĩa là anh ta chưa phải là một nhân vật thực thụ tham gia vào tiến trình câu chuyện. Cả người đàn ông, người đàn bà và thằng bé Phác đều coi như không có anh ta, bi kịch gia đình diễn ra như không hề có sự có mặt của người kể chuyện: “Chỉ có tôi và thằng bé đứng trơ giữa bãi xe tăng hỏng, trên tay thằng nhỏ vẫn cầm chiếc thắt lưng, hai chúng tôi đưa mắt ngơ ngác nhìn ra một quãng bờ phá vừa ban nãi chiếc thuyền đậu. Như trong truyện cổ đầy quái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất” . Khi quá bất ngờ và bức xúc trước thái độ của người phụ nữ, Phùng từ bỏ vai trò người đứng ngoài, lộ diện và tham gia vào câu chuyện của chị. Nhưng rút cuộc, cái mà anh nhận được lại là sự chấp nhận, nghĩa là thừa nhận sự bất lực cũng như sự đứng ngoài hoàn toàn của mình với câu chuyện của họ. Thái độ này có hai ý nghĩa. Thứ nhất, nó tô đậm tư tưởng của tác phẩm: cuộc sống dẫu đôi khi tàn nhẫn nhưng có cái lý của nó và con người dù muốn, dù không cũng phải chấp nhận. Mặt khác, nó khiến ta phải suy nghĩ về vai trò của nhân vật “tôi”. Điều mà nhà văn muốn nhấn mạnh ở nhân vật này không phải là hành động cứu thế mà là ở khả năng của một “nhà tư tưởng”. Sức nặng nằm ở chính sự trải nghiệm của nhân vật: trước câu chuyện ấy, nhân vật nghĩ gì và rút ra được trải nghiệm gì. Vai trò của nhân vật có thể gói lại trong khái niệm: tự nhận thức, một hành động cá nhân, riêng tư nhất của con người ngay từ khởi thuỷ.
Như thế, xuất phát điểm của câu chuyện rõ ràng là sự trải nghiệm cá nhân. Người kể chuyện như muốn khẳng định: đây là câu chuyện của riêng “tôi”, là một cuộc gặp gỡ ngoài dự kiến, một câu chuyện lạ lùng đối với bản thân tôi nữa. Tôi cũng hoàn toàn bất ngờ, thậm chí là bị động trước nó. Trong truyện có hai mạch vận động. Trên bề nổi là mạch vận động của câu chuyện - ba lần gặp gỡ của “tôi” với người phụ nữ. Ở bề chìm hơn, là mạch vận động trong sự nhận thức của nhân vật “tôi", đi từ sửng sốt, căm giận, phản đối quyết liệt đến thấu hiểu và chấp nhận. Trọng tâm câu chuyện rơi vào mạch thứ hai. Nhân vật không biết trước, biết hết mà lớn lên cùng câu chuyện, là kiểu nhân vật “do đời dạy dỗ”. Ý nghĩa của nhân vật nằm ở chính hành trình này. Nhìn từ phương diện khác, nó chính là hành trình đi từ cái cá biệt đến cái không đơn nghĩa: tìm ra chân dung đời sống trong vẻ đầy nghịch lý, nhiều mặt phía sau. Cho nên, có thể nói rằng, ngay trong “tôi”- người kể chuyện - cũng có một nghịch lý trở thành thuận lý: ban đầu là cuộc gặp gỡ tưởng cá biệt, ngẫu nhiên, là suy nghĩ tưởng như riêng tư, nhưng rồi nó đã khơi gợi những suy nghĩ phổ quát về bản chất cuộc đời. Ý nghĩa mà cuộc đời khơi gợi, vang động trong lòng nhân vật đã vượt lên tình thế cụ thể của đời sống mở ra một cách ngẫu nhiên trước mắt.
Người ta luôn khẳng định rằng, một tác phẩm có giá trị đích thực phải mang một cái nhìn mới cho cuộc đời. Suy cho cùng, gốc rễ của nó phải thuộc về cái nhìn, mà sâu xa hơn nữa, phải thuộc về cái nhìn cá nhân. Chỉ có cái nhìn cá nhân bứt phá, dám chấp nhận sự vênh lệch với cái nhìn cộng đồng mới đủ bản lĩnh xuyên thấu những vấn đề mà nhận thức thông thường không thể. Nói cách khác, chỉ có cái nhìn cá nhân mới chấp nhận được cái cá biệt, có đủ bản lĩnh soi rọi nó bằng sự trải nghiệm riêng. Nhưng, nói như Nguyễn Khải: “Đám đông thường cho ta cảm giác sai vì họ không thể giữ được tính độc lập trong tình cảm và phán xét. Còn cá nhân thì cái thân phận riêng tư của họ bao giờ cũng thuộc về nhân loại hôm nay và mai sau” (Nguyễn Khải- Đi tìm cái tôi đã mất). Xuyên qua sự trải nghiệm cá nhân ấy luôn là cái nhìn sâu vào bản chất cuộc đời, con người.Cái nhìn ấy hé lộ phần sâu kín nhất của thân phận và tâm sự cá nhân, nó dễ chạm vào phạm trù nhân bản mà cái chung, số đông dễ bỏ qua.
 Ba phương diện trên đã góp phần tạo nên tính đa diện, chất suy nghịêm cho tác phẩm. Đi từ cái riêng, cái cá biệt để nhận mặt những quy luật phổ quát của cuộc đời, tác phẩm để lại sức vang động lớn trong tâm tư người đọc.
 
 
 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114570059

Hôm nay

295

Hôm qua

2367

Tuần này

22442

Tháng này

228583

Tháng qua

129483

Tất cả

114570059