Những góc nhìn Văn hoá

Quá trình hình thành, phát triển của thể loại phóng sự trong văn học Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945

Phóng sự là một trong những thể loại báo chí được người đọc yêu quí nhất và cũng là một trong những thể loại khó nhất đối với người viết. Đặc biệt, hấp dẫn và khó viết nên sau khi báo chí xuất hiện ở phương Tây, với sự ra đời của các thể ký văn học cuối thế kỷ XVI, thì đến những năm 1690 phóng sự mới có “mầm mống” trên tờ Boston với bài Những việc xảy ra nơi công cộng của Bejamin Harriss.

Bài viết đã làm giật mình giới cầm quyền lúc đó... Nhưng theo các nhà nghiên cứu thế giới thì phóng sự chỉ thực sự xuất hiện trên báo chí phương Tây ở thế kỷ XIX. Người Mỹ tên là Wlring đã thể hiện những ấn tượng của ông về nước Mỹ và nước Anh trong cuốn Stetch Book (1819). G.Weerth (người Đức) bằng những hiểu biết của mình đã viết Ký sự Anh quốc (1843) và Những ký sự khôi hài về đời sống thương mại Đức (1845)... Kế thừa kinh nghiệm viết ký sự trên, một loạt các cuốn sách đã được ra đời như Một mùa hè ở Luân Đôn (1854), Từ Anh Quốc (1860), Phía bên kia TWeed (1860) đã kết hợp được sự tường thuật với sự hư cấu các sự kiện...

Cuốn Bách khoa toàn cầu (Encyclopedia Universalis), xuất bản ở Pari năm 1991 thì cho rằng thể phóng sự ra đời ở Mỹ trong chiến tranh Nam Bắc (1861- 1865). Phóng sự đã nhanh chóng xuất hiện trong các báo Anglo - Saxonne và trên mục Thời luận lúc đó. Các tác giả cuốn sách này còn cho biết, thể văn, báo này xuất hiện ở Mỹ sớm như vậy, nhưng thời điểm đó ở châu Âu, đặc biệt là Pháp, các ký giả nhận thức không đúng về thể loại này nên sử dụng rất dè dặt ([1]). Trong cuốn Các thể ký báo chí, Đức Dũng lại cho rằng người Anh là người đầu tiên sử dụng thể phóng sự trên báo chí: “Sau đó ít lâu trên các báo chí ở nước Pháp, phóng sự cũng xuất hiện với tư cách là bài viết về quá trình điều tra của phóng viên đối với những con người, những sự việc chứa nhiều điều bí ẩn” ([2]). Nhiều tài liệu khác cũng khẳng định rằng, mãi đến cuối thế kỷ XIX, ở Pháp mới sử dụng thể văn này và ngay lập tức nó phát triển mạnh mẽ, chiếm vị trí quan trọng trong văn chương Pháp.
Sự phát triển mạnh mẽ của thể loại phóng sự trong văn học, báo chí phương Tây cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là kết quả của sự biến động về văn hoá, xã hội giai đoạn này. Nửa sau thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ ở phương Tây thì cùng với việc hình thành và phát triển của các tập đoàn tư bản là sự đấu tranh giành quyền lực, phân chia thị trường, thị phần giữa các nhà tư bản, là việc giai cấp công nhân bị bóc lột cùng cực. Trong xã hội nảy sinh nhiều mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa tư bản với tư bản, mâu thuẫn giữa tư bản với những người làm thuê. Mâu thuẫn này phát triển cao biểu thị bằng các cuộc nổi dậy có tổ chức, đòi quyền sống, quyền bình đẳng của giai cấp công nhân và một bộ phận giai cấp nông dân thế giới, dưới ánh sáng của một luồng tư tưởng mới - tư tưởng cách mạng của Mác - Ăngghen - Lê nin. Chính sự biến động sâu sắc, phức tạp của hoàn cảnh xã hội đã làm nảy sinh một thể loại báo chí mới phản ánh tức thì hiện thực khách quan - thể phóng sự, với một đội ngũ sáng tác mới, bên cạnh các thể loại tin, phỏng vấn, bình luận.
Cùng với việc tiếp nhận những tác phẩm tiểu thuyết nổi tiếng của các nhà văn danh tiếng như Standan, Victo Huygô, Đôxtôiepki với những tình tiết li kỳ hấp dẫn phản ánh đời sống của giai cấp quí tộc hay cuộc sống của những nhân vật “dưới đáy” xã hội, công chúng khao khát được đọc những tác phẩm phản ánh một cách chân thực, ngắn gọn về các mối quan hệ xã hội, về sự bất công ngang trái trong xã hội, về những sự kiện đang xảy ra trong xã hội. Nắm bắt được tâm lý tiếp nhận đó, các nhà văn đã trực tiếp tham gia viết báo kể lại những câu chuyện có thực hàng ngày mà họ trực tiếp chứng kiến. Các bài viết của các nhà văn mới này không chỉ đơn giản mô tả “các kỳ họp quốc hội, những đám cháy, những trận lụt” nữa, mà thêm vào đó là những thông tin chi tiết, sinh động về diễn biến của những sự kiện có ý nghĩa xã hội, khám phá về số phận của những con người, những lớp người. Những bài viết đó vừa “chật ních” những sự kiện nóng hổi, vừa cung cấp cho bạn đọc những sự kiện từ nhiều góc nhìn khác nhau với những hiểu biết sâu sắc về xã hội, con người, bằng cảm xúc thương cảm hay căm ghét, chê trách. Có thể khẳng định rằng các nhà văn đã góp phần sáng tạo một thể loại báo chí, văn học mới - thể phóng sự - thể loại tổng hợp phong cách sáng tạo của văn học và báo chí.
Thế kỷ XX, bên cạnh cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã tạo nên bước nhảy vọt về kinh tế, xã hội. Sự ra đời của điện thoại, điện tín... đã giúp các nhà báo ngay lập tức nắm bắt được những thông tin ở xa và kịp thời phản ánh những thông tin đó. Đồng thời, họ cũng có điều kiện thuận lợi để giao lưu học hỏi, trao đổi kinh nghiệm viết văn, viết báo. Chính sự “giao lưu” về thông tin đã giúp cho người viết phóng sự nhanh chóng thu nhận và truyền tải thông tin. Cách thông tin này của các nhà văn, nhà báo đã nhanh chóng đáp ứng được yêu cầu đón đọc của công chúng.
Như vậy, sự biến động của xã hội, nhu cầu đón nhận thông tin ngày càng cao của công chúng, sự tham gia của các nhà văn, nhà báo vào lĩnh vực báo chí đã thúc đẩy thể loại phóng sự ra đời và nhanh chóng phát triển trên thế giới vào nửa sau thế kỷ XIX, đồng thời nhanh chóng chiếm lĩnh văn đàn, báo giới, đầu thế kỷ XX.
Phóng sự là một thể loại đặc biệt của văn học và báo chí. Nó có khả năng thông tin về người thực, việc thực với những sự kiện nóng hổi được chuyển tải trong những trang viết, dưới dòng cảm xúc mang đầy lý lẽ và xúc cảm thẩm mỹ công dân. Với tính chất như vậy, phóng sự đã phát triển nhanh nhạy ở hầu như tất cả các nước phương Tây từ cuối thế kỷ XIX. Từ thực tiễn sáng tác, nghiên cứu, các nhà nghiên cứu trên thế giới đã có quan niệm khác nhau về thể loại này.
Từ điển Petit Robert, xuất bản năm 1973 ở Pháp cho rằng:“Phóng sự là một bài báo hay một loạt bài báo, trong đó phóng viên phản ánh một cách sinh động những gì anh ta đã nhìn và nghe thấy” ([3]). Trong từ điển Le Petit Larouss xuất bản 1996, phóng sự (Reportage) được giải thích theo ba ý: Là một bài báo viết theo sự điều tra của phóng viên; là bài điều tra được công bố trên đài, báo ảnh, truyền hình; là chức năng, nhiệm vụ của một phóng viên thuộc một tờ báo”. Cuốn Bách khoa toàn cầu xuất bản ở Paris thì cho rằng: “Phóng sự là tường thuật những điều trông thấy. Phóng sự là một bài báo được đặc trưng bởi sự quan trọng của miêu tả: bầu không khí bao phủ sự việc, những chi tiết hình tượng, những chi tiết về con người, hay những chi tiết độc đáo, những màu sắc... Tất cả mọi thông tin đều phải xác định, ít nhất bằng sự trả lời 6 câu hỏi: ai? cái gì? ở đâu? khi nào? như thế nào? tại sao? cho phép đồng thời miêu tả và giải thích” ([4]).
Một số nhà văn Pháp lại có quan niệm khác về thể phóng sự. Nhà văn Edmond de Goncourt trong bài tựa cuốn Cherie năm1884 cho rằng, đến một ngày mà ở mỗi người có học thức không còn sự cố gắng để viết theo quan điểm riêng của mình thì chắc chắn rằng ở Pháp lúc đó “phóng sự sẽ kế nhiệm văn chương”. Nhưng sang thế kỷ XX, qua thực tiễn văn học, André Gide lại khẳng định: “Phóng sự còn lâu mới loại bỏ được văn chương”.
Theo giáo sư X.Tenlây Giônxon và Giulian trong cuốn Người phóng viên toàn năng (khoa Báo chí trường Đại học Tennsses - Mỹ) thì phóng sự là một bài tường thuật hoặc một bài báo được phát triển và xử lý một cách có văn học. Phóng sự chú ý đến sự kiện khách quan, tôn trọng tính xác thực của đối tượng miêu tả, nhưng phóng sự đòi hỏi tính thời sự trực tiếp. Giáo sư Caren Xtorocan (khoa báo chí trường Đại học Saclơ ở Tiệp Khắc trước đây) thì cho rằng, người Anh là những người đầu tiên dùng thuật ngữ “phóng sự” với nghĩa là “Sự mô tả một kỳ họp quốc hội, những trận lụt, những đám cháy và những cuộc chiến tranh...”. Nhưng cũng theo ông thì “Trong phóng sự hiện đại, không phải là một sự ghi chép giản đơn, mà còn là sự trả lời một loạt câu hỏi phức tạp liên quan đến cuộc sống chúng ta” ([5]).    Từ những cách hiểu sơ khai về phóng sự đến cách đánh giá phóng sự hiện đại của các GS. danh tiếng trên thế giới, cùng với một loạt phóng sự có giá trị xuất hiện ngày càng nhiều như Mười ngày rung chuyển thế giới của Giônrit (viết về những ngày sôi động của cuộc cách mạng tháng Mười vĩ đại - 1917), Vượt qua núi Anpơ của Hali Bơctơn; Julius Fucik với Viết dưới giá treo cổ, Macxim Gorki với Trên những nẻo đường Liên bang Xô Viết, E.Keat với Nước Trung Hoa bí mật, Lục Trụ Quốc với Thượng Cam Lĩnh... cho phép khẳng định bước phát triển hoàn chỉnh của thể loại phóng sự trong những thập niên đầu của thế kỷ XX.
Trong đời sống báo chí, văn học Việt Nam, phóng sự là thể loại tân văn, sản phẩm của công cuộc hiện đại hoá văn học, là điểm nhấn quan trọng trong tiến trình phát triển của văn học hiện đại ở thập niên thứ ba của thế kỷ XX. Nó là sản phẩm của quá trình giao lưu, ảnh hưởng, tiếp xúc với văn hoá, văn học phương Tây (trực tiếp là văn hoá, văn học Pháp) của văn học, văn hoá Việt Nam. Nó là kết quả của sự nối tiếp và hoàn thiện của một loại hình văn học truyền thống có tính nguyên hợp văn - sử gồm các thể ký ghi chép, ký và ký sự trong văn học trung đại Việt Nam.
 Ở Việt Nam, từ phóng sự xuất hiện lần đầu tiên trong Việt Nam tự điển của hội Khai trí tiến đức xuất bản năm 1931, được giải nghĩa: “Phóng sự: người hỏi tin cho nhà báo” ([6]). Trong cuốn Hán Việt từ điển do Đào Duy Anh biên soạn (xuất bản lần đầu tiên vào năm 1932), phóng sự được giải thích rằng: Phóng có nghĩa là bắt chước, phỏng theo; sự có nghĩa là sự việc. Tổng hợp lại Phóng sự có nghĩa là phỏng theo sự việc. Ngay sau khi tác phẩm Tôi kéo xe của Tam Lang ra đời (1932) cùng với thơ mới, tiểu thuyết, phóng sự đã phát triển rất mạnh mẽ, mang giá trị thẩm mỹ cao. Nhiều nhà văn, nhà báo viết phóng sự đã tự coi phóng sự của mình là tiểu thuyết - phóng sự hay phóng sự - tiểu thuyết như Nguyễn Đình Lạp, Lộng Chương, Vũ Trọng Phụng... với cách miêu tả sự việc, sự kiện xuyên suốt cuộc đời hoặc một quãng đời của nhân vật. Mặc dù vậy, cũng chưa có sự bàn luận, tranh luận về thể tài này với tư cách là một thể loại như thơ mới, tiểu thuyết lúc bấy giờ; hoặc cũng chưa được nhắc đến trong các cuộc tranh luận văn nghệ. Theo tài liệu được công bố trong Vũ Trọng Phụng, con người và tác phẩm của Nguyễn Hoành Khung và Lại Nguyên Ân (Nxb Hội nhà văn, H.1994) thì Vũ Trọng Phụng là người trực tiếp viết phóng sự duy nhất lúc đó có quan niệm rõ ràng về thể loại phóng sự: “Tiểu thuyết và phóng sự là hai thể loại văn gần nhau. Phóng sự là một thiên chuyện kể với cơ sở là những điều mà nhà báo đã từng mắt thấy tai nghe, trừ phi là một thiên “phóng sự trong buồng”, nhà báo nghe người ta kể lại cái mà mình chưa biết bằng tai và bằng mắt” ([7]).
Đến năm 1942, khi phóng sự Việt Nam đã phát triển tới đỉnh cao thì giới nghiên cứu, phê bình mới dành cho nó sự quan tâm thích đáng. Tiêu biểu cho cách đánh giá ở giai đoạn này về phóng sự, phải kể đến nhà nghiên cứu, phê bình Vũ Ngọc Phan. Trong cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã quan niệm rằng: “Lối văn này hoàn toàn mới ở nước ta, và cũng như ở các nước, nó là con đầu lòng của nghề viết báo (...). Phóng sự là thăm dò lấy việc mà ghi... Phóng sự là ký sự, là có lời phẩm bình, phóng sự ghi những điều mắt thấy tai nghe, có tính cách thời sự và có chỉ trích... Không có lối văn nào giúp ích cho việc cải cách, cho nhà đương chức, nhà pháp luật và nhà xã hội học bằng các thiên phóng sự” ([8]). Năm 1950, Nguyễn Đình Lạp, tác giả của những phóng sự nổi tiếng, theo kháng chiến làm công tác văn hoá văn nghệ, đã có tập bài giảng Muốn làm phóng sự gửi cho các khoá đào tạo đội ngũ văn nghệ kháng chiến mở tại Thanh Hoá. Đây là giáo trình lí luận đầu tiên về thể loại phóng sự. Sau khi có quan niệm rõ ràng về thể phóng sự, Nguyễn Đình Lạp trình bày những vấn đề cơ bản về thể loại cũng như cách thức, phương pháp làm phóng sự. Ông cho rằng: “Phóng sự hay là phỏng sự. Phóng sự tức là phóng tác (imiter), còn phỏng tức là hỏi, tìm hiểu nghiên cứu - còn sự tức là sự kiện (fait) - Như thế thì gọi là phỏng sự mới đúng hơn, mới hay hơn ... Phóng sự là nghiên cứu tìm hiểu một sự kiện gì rồi ghi chép lại cho thật đúng. Không phải bất cứ một sự kiện gì cũng thuộc phạm vi của phóng sự, sự kiện phóng sự phải có bốn yếu tố: Vật chất (cụ thể) - sự kiện phải có thực bằng hình thể trông thấy hoặc nghe thấy ... Hiện đại ... Phóng sự chỉ ghi chép được hiện tại những cái mắt thấy tai nghe... Phải nhân loại nghĩa là phải có con người ... Xã hội, nghĩa là... phải có một xã hội người…( ai chép lại và ảnh hưởng tới ai)” ([9]). Đồng thời với việc coi phóng sự “là bộ môn của nghề làm báo”,Nguyễn Đình Lạp còn khẳng định: “Phóng sự là một bộ môn văn học chuyên tả thực rất chân xác những sự kiện xã hội, cụ thể và hiện tại được nghi chép lại tại nơi chốn xảy ra” ([10]).
Năm 1962, trên diễn đàn văn nghệ, nhà văn Bùi Huy Phồn có hẳn một bài viết về thể phóng sự. Ông coi phóng sự là một thể văn xung kích, có tính chiến đấu và tính kịp thời, thuyết phục người đọc bằng những số liệu, người thật, việc thật.
Trong giáo trình Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập III), nhà giáo Phạm Thế Ngũ đã bàn về phóng sự, phân biệt sự khác nhau giữa phóng sự và tiểu thuyết. Ông coi ở hình thức đơn giản nhất, phóng sự “chỉ là một tường thuật… tác giả nhà báo đến tận nơi hỏi han, điều tra về một cảnh sinh hoạt, một nghề nghiệp, một hạng nhân vật rồi cứ sự mắt thấy tai nghe mà chép lên báo” ([11]).
Trong đợt trao đổi ý kiến về Thể ký và vấn đề viết về người thật, việc thật (đăng lần lượt trên Tạp chí văn học từ tháng 5 năm 1966 đến số tháng 6 năm 1967), cùng với Tô Hoài, Trần Cư, Chế Lan Viên…, Vũ Đức Phúc cũng đã coi phóng sự là , nhưng có nhiều đặc điểm không giống các loại khác bởi tính “sốt dẻo, xác thực, toàn diện” của nó.
Từ năm 1962, Hà Minh Đức đã coi phóng sự là một thể loại của ký văn học. Năm 1985, trong tập giáo trình viết chung với Lê Bá Hán, GS. Hà Minh Đức lại khẳng định: “Về cơ bản, phóng sự cũng có đặc tính của một thiên ký sự: chú trọng sự kiện khách quan, tôn trọng tính chính xác của đối tượng miêu tả. Nhưng phóng sự lại đòi hỏi tính phóng sự trực tiếp. Phóng sự được viết ra nhằm giải đáp những vấn đề nào đó mà xã hội quan tâm… Người viết phóng sự giỏi trước hết phải là một người có trách nhiệm với ngòi bút, với chân lý của cuộc sống..., có năng lực phát hiện và khái quát hoá” ([12]).
Bàn về thể phóng sự trên cơ sở đặc điểm của thể ký, GS. Phương Lựu trong Lý luận văn học tập II (viết chung với GS. Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam) cho rằng ở phương Tây người ta đề ra tiêu chuẩn cho một phóng sự theo công thức 6W(What, Where, When, Who, Which, Why).
Nghiên cứu về thể ký báo chí, Nguyễn Đức Dũng đã từng coi phóng sự là một phần của ký báo chí và khẳng định:“Phóng sự là một thể loại đứng giữa văn học và báo chí, có khả năng trình bày, diễn tả những sự kiện; con người, tình huống điển hình, trong một quá trình phát sinh, phát triển dưới dạng một bức tranh toàn cảnh vừa khái quát, vừa chi tiết sống động với vai trò quan trọng của nhân vật trần thuật và bút pháp linh hoạt, ngôn ngữ giàu chất văn học” ([13]). Trong lời giới thiệu bộ Phóng sự Việt Nam 1932-1945, PGS.TS Phan Trọng Thưởng tìm thấy ở phóng sự “Cái chất chủ quan của chủ thể cầm bút, chất khách quan trung thực của đối tượng miêu tả và ý thức xã hội - công dân chi phối mạnh mẽ đến từng sự kiện, từng vấn đề của đời sống” ([14]). 
Quan niệm của các nhà nghiên cứu trong nước như Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đình Lạp, Phương Lựu, Hà Minh Đức, Trần Đình Sử, Phan Trọng Thưởng, Đức Dũng ... dù có khác nhau ít nhiều nhưng đều thống nhất ở chỗ coi phóng sự là một thể ký thuộc loại hình ký phóng sự có nhiệm vụ ghi chép kịp thời những sự kiện, những vụ việc vừa xảy ra nhằm làm sáng tỏ trước công luận hiện thực cuộc sống xã hội đương thời. Phóng sự bao giờ cũng phải mang ý nghĩa thời sự, có mục đích cung cấp cho dư luận những tri thức phong phú, đầy đủ, chính xác về vấn đề mà mọi người quan tâm. Phóng sự thể hiện quan điểm và xúc cảm của tác giả về hiện thực. Những thiên phóng sự có giá trị là những tác phẩm mang đậm tính chất văn chương với những giá trị thẩm mỹ cao.
Chuyên luận sẽ sử dụng quan niệm này để từ đó đi sâu nghiên cứu thể loại phóng sự trong văn học Việt Nam giai đoạn 1932-1945.
Các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đều cho rằng: thể phóng sự trước hết thuộc hệ thống thể loại ký báo chí. Lúc đầu có thể chỉ là thấy gì ghi nấy, sau đó thêm phần điều tra, tìm hiểu những điều mắt thấy, tai nghe về đối tượng hoặc sự kiện. Do sự năng động của người viết, phóng sự kịp thời đưa tin với những con số, cứ liệu xác thực. Bên cạnh việc phản ánh hiện thực, thông qua “cái tôi” lí tính của tác giả, phóng sự còn trả lời được những câu hỏi do hiện thực đặt ra. Mặt khác, dưới bút pháp tài hoa của tác giả, từ việc sử dụng ngôn ngữ, cách sắp xếp cứ liệu đến cách xây dựng hình tượng nhân vật có thực..., tác phẩm phóng sự thường thấm đẫm chất văn chương. Trên cơ sở quan niệm đó, chúng tôi xác định những tiêu chí cơ bản để nhận diện tác phẩm phóng sự.
a. Tính thời sự và tính vấn đề trong phóng sự
Từ điển tiếng Việt (2002)từng khẳng định: Phóng sự là thể văn chuyên miêu tả những việc thật có tính thời sự xã hội”. Phóng sự phản ánh kịp thời cái gì đã xảy ra, xảy ra ở đâu, xảy ra khi nào, với ai, xảy ra như thế nào, và tại sao lại xảy ra. Khác với các thể loại khác như tiểu thuyết, tuỳ bút, bút ký, hồi ký, phóng sự không những phản ánh hiện thực cuộc sống một cách kịp thời mà phạm vi sự việc và địa điểm được qui định chặt chẽ, rõ ràng với những con người cụ thể, nhằm giải quyết một vấn đề trong hiện thực. Từ điển thuật ngữ văn học cũng đã chỉ rõ: “Nhiệm vụ của phóng sự là làm sáng tỏ trước công luận một vấn đề” ([15]). Nguyễn Đình Lạp trong bài giảngMuốn làm phóng sự, cho biết mục đích của phóng sự là “chỉ trình bày rất khách quan những tài liệu xác thực cho độc giả để hiểu biết và nhất là để cung cấp cho nhà xã hội học, nhà chính trị tìm cách giải quyết và phương pháp chạy chữa. Cũng có khi ngoài công việc trình bày tài liệu nhà phóng sự đề nghị hẳn một chương trình cải tạo lại cái thực trạng, hoặc cái xã hội hư nát ấy” ([16]). Để thực hiện được mục đích trên, theo Nguyễn Đình Lạp, phương pháp làm phóng sự là phải tổng hợp tất cả các phương pháp làm các thể loại: thông tin, tường thuật, báo cáo, điều tra, phỏng vấn, mẩu chuyện. Với mục đích quan trọng như thế, đối tượng phản ánh của phóng sự không phải là một hiện thực đơn thuần “nhàn nhạt”, xảy ra trước đó đã lâu hoặc đơn lẻ mà phải là hiện thực nóng hổi có vấn đề, hiện thực chứa đựng mâu thuẫn nổi bật trong xã hội. Phóng sự chỉ xuất hiện khi hiện thực cuộc sống có mâu thuẫn gay gắt. Tiêu chí này đã lý giải cho sự ra đời cũng như sự “nở rộ” của phóng sự trong mỗi thời điểm xã hội nhất định. Trước cách mạng, giai đoạn 1932-1945, trong lòng xã hội Việt Nam nảy sinh nhiều mâu thuẫn: mâu thuẫn giai cấp giữa dân nghèo với quan lại thực dân phong kiến; mâu thuẫn giữa những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc với sự băng hoại về đạo đức, sự sa đoạ về lối sống trong xã hội thực, giả, Tây - Ta lẫn lộn... Hoàn cảnh xã hội lúc đó cùng với một số yếu tố khác đã khiến thể loại phóng sự trong làng báo chí non trẻ Việt Nam phát triển mạnh với nhiều tác phẩm có giá trị. Những vấn đề trong Lục xì, Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng, Thanh niên truỵ lạc của Nguyễn Đình Lạp, Hà Nội ban đêm của Thạch Lam (viết chung với Tràng Khanh), Việc làng của Ngô Tất Tố… là minh chứng sống động. Sau năm 1975, cả nước tiến hành xây dựng CNXH. Trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, do non nớt về trình độ quản lý, chúng ta đã đưa cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất đi khá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất lúc đó còn non yếu, khiến xã hội có nhiều mâu thuẫn đòi hỏi phải giải quyết, phải đổi mới và kết quả là những năm 80 của thế kỷ XX, phóng sự một lần nữa lại xuất hiện nhiều với một tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật. Đó là Câu chuyện về một ông “ Vua lốp” - 1987 của Nhật Linh (lên án thói sách nhiễu và những luật tục vô lý kìm hãm người lao động…), Cái đêm hôm ấy... đêm gì - 1988 của Phùng Gia Lộc (kể về chuyện người dân đã phải ăn cám vì thóc đã bị chính quyền địa phương thu để nộp cho nhà nước), Ông già ôm bảy ki- lô - gam đơn từ của Xuân Ba… Phóng sự đã, đang và vẫn sẽ là thể văn xung kích, góp phần không nhỏ vào công cuộc đổi mới đất nước.
b. Tính cụ thể và tính khái quát trong phóng sự
Các nhà nghiên cứu trong Từ điển thuật ngữ văn học, bên cạnh việc nhấn mạnh tính chất điều tra, ghi chép của phóng sự, còn khẳng định mục đích lớn lao của phóng sự: “Một thể thuộc loại hình ký, phóng sự ghi chép kịp thời những vụ việc nhằm làm sáng tỏ trước công luận một sự kiện, một vấn đề có liên quan đến hoạt động và số phận của một hoặc nhiều người và có ý nghĩa thời sự với địa phương hay toàn xã hội. Mục đích của phóng sự là cung cấp cho chúng ta những tri thức, phong phú, đầy đủ, chính xác để họ có thể nhận thức, đánh giá đúng người và việc mà họ đang quan tâm, theo dõi” ([17]). Xuất phát từ mục đích thông tin, với mong muốn giúp người đọc nhận thức rõ, đầy đủ về bản chất của sự việc, sự kiện hoặc cao hơn là làm thay đổi nhận thức của người đọc đối với đối tượng phản ánh, buộc bức tranh hiện thực trong phóng sự phải được thể hiện một cách toàn cảnh, vừa khái quát vừa chi tiết, cụ thể sinh động:“Yêu cầu về tính khái quát của phóng sự thực chất là yêu cầu về bối cảnh của sự kiện hay vấn đề mà nó có nhiệm vụ thông tin, phản ánh” ([18]).
Nhiệm vụ thông tin, phản ánh của thể tin, ghi nhanh, tường thuật... lại khác hẳn so với phóng sự. Cũng lấy sự kiện làm đối tượng phản ánh, nhưng trước sự kiện nóng bỏng của hiện thực, tin chỉ có nhiệm vụ khái quát đặc điểm chính của sự kiện với 3 yêu cầu chính là cái gì xảy ra?, xảy ra ở đâu?, xảy ra khi nào? Thể tường thuật lại yêu cầu miêu tả sự việc đến tận chi tiết cụ thể nhằm mục đích trả lời câu hỏi: sự việc xảy ra như thế nào? Với ghi nhanh, tác giả là nhân chứng số một, ghi lại trực tiếp những điều mắt thấy, tai nghe một cách thời sự nhưng không cần đi tìm và lí giải nguyên nhân cũng như hậu quả của nguyên nhân sự việc... Tính khái quát trong nhiệm vụ thông tin của phóng sự là sự tổng hợp những chi tiết, những số liệu để muốn nói một cái gì đó rất chung đã tạo ra bối cảnh xuất hiện sự kiện và mong muốn cải tạo hoàn cảnh. Việc tìm hiểu, điều tra bằng những chi tiết, số liệu cụ thể chính là quá trình đi tìm câu trả lời cho các mâu thuẫn trong sự kiện để rồi làm cứ liệu đòi hỏi giải quyết mâu thuẫn. Phương pháp để có một phóng sự đúng nghĩa, có giá trị là phương pháp tổng hợp của tất cả các phương pháp như đưa tin, tường thuật, ghi nhanh, dùng bút pháp của ký chân dung, ký chính luận... Nhà văn Nguyễn Đình Lạp đã nhận xét: “Lợi dụng tất cả các ngành, phóng sự đi sâu hẳn vào một hiện tượng xã hội, hay một vấn đề xã hội thường có tính cách đặc biệt quan trọng. Phóng sự phải nhận xét kỹ càng, phân tích thấu đáo vào một khía cạnh mọi mặt dù u uẩn bí mật đến đâu của vấn đề rồi lôi ra ánh sáng” ([19]).
c. Tính thuyết phục trực tiếp trong phóng sự
Nhân chứng trực tiếp và nhân chứng gián tiếp trong phóng sự quyết định giá trị nhận thức cũng như giá trị nhận thức - thẩm mỹ của tác phẩm. Đọc các phóng sự   Cơm thầy cơm cô, Kỹ nghệ lấy Tây, Lục xì, Tôi kéo xe, Việc làng, Thanh niên truỵ lạc, Huế ban đêm... thời 1932-1945, hay Cái đêm hôm ấy... đêm gì (Phùng Gia Lộc), Hai giờ dưới lòng đất (Huỳnh Dũng Nhân- viết về người thợ mỏ)... thời kỳ đổi mới, ta cảm nhận được sự “lăn lộn” vào thực tế để tận mắt chứng kiến sự kiện cùng với những chi tiết cụ thể của bức tranh hiện thực.
Với tư cách là nhân vật trần thuật, là nhân chứng trực tiếp, quan trọng, tác giả thể hiện rõ là người chứng kiến (một phần hay toàn bộ) sự kiện. Bên cạnh vai trò người trực tiếp chứng kiến, nhân vật trần thuật - tác giả còn có vai trò dẫn dắt, kết dính nội dung của tác phẩm. Vai trò nhân chứng gián tiếp của các nhân chứng khác trong tác phẩm phóng sự cũng vô cùng quan trọng.
So với các thể loại báo chí khác như ghi nhanh, chính luận, tường thuật, điều tra... thì vai trò nhân chứng - tác giả trong phóng sự rõ nét hơn. Họ có thể đặc tả hành vi hay diện mạo của mình và đặc biệt hơn là định hướng cho người đọc bằng những ý kiến phát biểu, dẫn dắt của mình. Nhân chứng định hướng người đọc qua cảm nhận chủ quan của mình trước hiện thực. Nhân chứng được tự do lựa chọn sự kiện điển hình. Nhân chứng trong tường thuật, ghi nhanh, đưa tin là nhân chứng khách quan, thấy gì nói đó, ít có điều kiện để lựa chọn sự kiện.
Nếu đặt phóng sự trong mối quan hệ với các thể loại trong ký tự sự như ký sự hồi ký, thì vai trò nhân chứng - tác giả trong phóng sự cũng có những điểm khác biệt. Ký sự nghiêm nhặt tái hiện những sự kiện phong phú của đời sống. Hồi ký ghi lại những diễn biến của câu chuyện và nhân vật theo trình tự thời gian qua sự hồi tưởng. Cả phóng sự, ký sự, hồi ký đều lấy điểm tựa ở sự thật khách quan của đời sống và tôn trọng tính xác thực của đối tượng miêu tả. Nhưng hiện thực khách quan trong phóng sự là hiện thực nóng hổi, tức thì, một hiện thực có vấn đề, vì vậy mà cái tôi chủ thể - nhân chứng trong phóng sự là cái tôi xông xáo vào hiện thực, thâu tóm vấn đề nổi trội trong hiện thực, một cái tôi - nhân chứng sắc sảo, nhanh nhạy, định hướng tiếp nhận cho độc giả qua sự lựa chọn sự kiện và xâu chuỗi vấn đề của mình, chứ không phải cái tôi ghi lại sự kiện hoặc tái hiện lại sự kiện một cách chậm rãi, chau chuốt. Cái tôi chủ thể - nhân chứng trong phóng sự ít có điều kiện để bày tỏ cảm xúc nội tâm hơn như trong ký sự và hồi ký.
d. Tính lưỡng hợp giữa báo chí và văn học của phóng sự
 Lí luận báo chí và văn học đã từng khẳng định: phóng sự là thể tài “bắc cầu” giữa báo chí và văn học. Có phóng sự báo chíphóng sự văn học. Đặc điểm chung nhất của hai loại phóng sự này là cùng lấy sự kiện người thật, việc thật, rất thời sự làm đối tượng phản ánh. Điểm khác biệt của hai kiểu phóng sự này là một bên thì phản ánh sự kiện một cách thời sự nhằm đạt được mục đích là thông tin bản chất vấn đề đến đối tượng tiếp nhận, còn bên kia ngoài mục đích thông tin ra còn muốn thông qua nhận thức cảm tính đạt tớimục đích nhận thức lý tính của đối tượng tiếp nhận. Người đọc không những hiểu rõ bản chất của sự việc mà còn có dịp thể hiện cảm xúc của mình trước sự dẫn dắt tài tình của nhân chứng - tác giả.
Cũng phản ánh người thực, việc thực ở thế trực tiếp nhưng phóng sự báo chí phải phản ánh người thực, việc thực một cách trực tiếp nhất. Tác giả là nhân chứng số một, dẫn dắt độc giả đến với hiện thực, phải là người “mắt thấy, tai nghe” một cách trực tiếp chứ không phải qua hiện thực cuộc sống hàng ngày mà tưởng tượng ra. Tác giả phải là người chịu trách nhiệm trực tiếp cao nhất trước dư luận về những vấn đề đưa ra, đảm bảo tính trung thực, khách quan, có nguồn gốc, thời điểm rõ ràng với những con người, sự kiện có địa chỉ cụ thể. Lối văn trong phóng sự báo chí phải đạt yêu cầu cao hơn lối viết khô khan, liệt kê nhàm chán sự kiện, nghĩa là phải linh hoạt trong kết cấu, sáng tạo trong lựa chọn sự kiện với giọng điệu, ngôn ngữ phong phú nhưng thiên về phản ánh đúng thông tin, diễn tả chính xác cụ thể về người thực - việc thực, không dùng lời lẽ khoa trương, hư cấu, phóng đại...
Để tác động vào nhận thức lí tính của độc giả một cách nhanh chóng và hiệu quả, “cái tôi” trần thuật tác giả phải sử dụng ngôn từ, lời lẽ mang ý nghĩa tường minh, đơn nghĩa, phản ánh đúng bản chất sự việc (phóng sự báo chí là những phóng sự rõ ràng về mục đích làm phóng sự, phóng sự đơn nghĩa). Bên cạnh đó, phóng sự báo chí phải đảm bảo cao yêu cầu “tính chất thời sự” của sự việc, tìm ra được những mâu thuẫn gay gắt trong sự kiện, hoặc khám phá, lật tẩy những vấn đề còn chưa “lộ tẩy”.
Ngay từ năm 1935, Tại Đại hội quốc tế các nhà văn hoá họp ở Pari đã có bài viết với nhan đề Phóng sự - một thể loại văn học nguy hiểm của nhà báo Tiệp Khắc Êgôn Ec VinKit. Nhà báo này đã thừa nhận có loại phóng sự văn học và loại phóng sự này có ba yếu tố: trung thành tuyệt đối với thực tế; biểu hiện những tình cảm xã hội mạnh mẽ có quan hệ chặt chẽ với quần chúng bị áp bức. Loại phóng sự này hoàn toàn khác hẳn loại phóng sự báo chí.
Lí luận văn học Trung Quốc cũng phân biệt rõ phóng sự báo chíphóng sự văn học. Phóng sự báo chí tường thuật các sự kiện một cách trần trụi, còn phóng sự văn học tuy cũng phản ánh sự kiện, nhân vật có thật nhưng lại sử dụng một số biện pháp nghệ thuật của tiểu thuyết, truyện ngắn...
Trong Nhà văn Việt Nam hiện đại, Vũ Ngọc Phan cho rằng “Viết được một thiên phóng sự cho hay, nhà viết báo không những cần phải có tài đặc biệt về nghề báo mà còn cần phải có nhiều “chất văn sỹ”” ([20]). Lí luận văn học Việt Nam hiện đại cũng đã từng coi phóng sự là một trong những tiểu thể loại của ký văn học, nằm xếp hàng cùng với bút ký, ký sự, tuỳ bút, hồi ký, nhật ký, truyện ký... Tiêu biểu cho cách xếp này là Hà Minh Đức trong công trình nghiên cứu Loại thể văn học (xuất bản năm 1962). Bên cạnh đó, các nhà văn như Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đình Lạp và sau này là Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Khải... cũng có ý kiến xếp phóng sự ngang hàng với các thể loại ký khác. Trong Cơ sở lý luận văn học, tập II (Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, năm 1985),Hà Minh Đức có nhận xét về đặc điểm chung nhất của các thể ký sự, phóng sự, hồi ký, bút ký, tuỳ bút...(ký văn học) là thể hiện ở hai nhân tố quan trọng: sự thực xác thực của đời sống và giá trị nghệ thuật. Đó là vừa phản ánh và tái hiện chân thực những sự kiện trong đời sống, đồng thời giải thích sự kiện chân thực này theo những quan điểm mỹ học nhất định và bằng hình tượng nghệ thuật cụ thể.
Coi phóng sự thuộc thể loại ký văn học, Phương Lựu lại coi trọng màu sắc chính luận của phóng sự. Tác giả Nguyễn Xuân Nam thì cho rằng: “Phóng sự sẽ có thêm giá trị văn học khi nó đi sâu khắc hoạ thế giới nội tâm, miêu tả tính cách nhân vật với lời văn giàu hình ảnh và cảm xúc” ([21]).
Thực tế cho thấy, ở những tác phẩm được gọi là phóng sự văn học thì tuy vẫn đảm bảo tính xác thực và tính thời sự nhưng tính thời sự không còn là yêu cầu gay gắt và tính xác thực cũng không phải là yêu cầu tuyệt đối nữa. Trong phóng sự văn học, hiện thực được lấy sự kiện làm “tiêu điểm” khai thác, nhưng bên cạnh đó, cái quan trọng hơn, cao hơn là vấn đề mang tính chất rộng lớn toàn xã hội. Hiện thực không chỉ là những lát cắt vụn vặt mà là một mảng đời sống được tái tạo trong một bức tranh toàn cảnh vừa cụ thể vừa sinh động, mang tính khái quát cao. Nét độc đáo trong tác phẩm phóng sự văn học là cái tôi - tác giả được tự do lựa chọn sự kiện, lựa chọn tình huống tiêu biểu để thể hiện ý tưởng thẩm mỹ, tự do lựa chọn phương thức phản ánh sự kiện, tình huống, nhân vật. Bằng năng lực phán đoán, tưởng tượng của một nhà văn, nhà viết phóng sự có thể tô đắp, trang điểm một chút cho tình huống, cho nhân vật để tình huống, nhân vật mang tính chất điển hình đại diện cho một lớp người trong xã hội (đây là điểm khác biệt cơ bản giữa phóng sự báo chí và phóng sự văn học). Mức độ hư cấu trong phóng sự văn học không phải là hư cấu theo kiểu bay bổng, ngồi một chỗ tưởng tượng ra mà là hư cấu mang mức độ tiểu xảo kỹ thuật, tô đậm hoặc làm mờ nhạt bớt đi sự kiện mà theo tác giả là cần thiết trong tác phẩm. Cũng có thể hư cấu ở những phần người ta không thể nhìn và nghe thấy được như thế giới nội tâm của nhân vật, nhân chứng. Nhân vật trong phóng sự văn học cần đạt đến độ điển hình hoá nhưng chỉ là sự bồi đắp thêm da thịt chứ không phải tưởng tượng để thay hình, đổi dạng nguyên mẫu.
Ở góc độ dẫn dắt tình tiết câu chuyện, với phóng sự báo chí, người viết có thể thể hiện thái độ khách quan, có gì phản ánh lại nấy một cách trung thực. Nhưng ở phóng sự văn học, để đảm bảo giá trị nhận thức cũng như giá trị thẩm mỹ của độc giả sau khi đọc tác phẩm, thì tác giả có thể thể hiện cảm nhận chủ quan của mình trước hiện thực bằng những triết lý chân thành, bằng lời bình phẩm mang đậm dấu ấn cá nhân. Không chỉ nhằm tới giá trị phản ánh - thông tin mà phóng sự văn học còn ước muốn đạt tới giá trị phản ánh - thông tin - thẩm mỹ. Điều này không những chi phối đến cách xây dựng hình tượng nhân vật mà còn chi phối ngôn ngữ trong tác phẩm. Ngôn từ trong phóng sự báo chí đòi hỏi cô đọng, súc tích, gọi đúng tên sự vật hiện tượng, chuẩn về mặt ngữ nghĩa và chỉ có một lớp nghĩa tường minh. Kết cấu tác phẩm ngắn gọn, ý tưởng của tác giả nằm ngay trong văn bản, người đọc bình dân cũng có thể hiểu được. Ngôn ngữ trong phóng sự văn học là ngôn ngữ hình tượng, ngôn ngữ mang tính khái quát cao; nó bao hàm hai lớp nghĩa: tường minh và hàm ẩn (sự lựa chọn câu, từ bao hàm hai lớp nghĩa này phụ thuộc nhiều vào trình độ của người viết phóng sự). Điều này cũng lý giải được nguyên nhân ngoài mục đích phản ánh thông tin một cách thời sự, đề xuất với các nhà quản lý những biện pháp hữu hiệu, phóng sự văn học còn giúp người đọc có thái độ yêu ghét rõ ràng trước hiện thực. Kết cấu phóng sự văn học thường dài và kết thúc theo hướng mở. Từ giá trị đó, phóng sự văn học ở lại lâu hơn trong lòng người đọc.
Trong phóng sự văn học có phóng sự tiểu thuyết. Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại (1942) đã chia tiểu thuyết thành 10 loại, trong đó có phóng sự tiểu thuyết. Nhà văn Nguyễn Đình Lạp cũng có chính kiến riêng của mình về loại phóng sự tiểu thuyết: “Dùng những tài liệu chân xác, dồi dào, đầy đủ về một vấn đề gì rồi dùng sức tưởng tượng tạo ra nhân vật sống hẳn hoi có mạch lạc, liên hệ chặt chẽ với nhau” ([22]). Một số tác giả khi sáng tác cũng đề dưới tác phẩm của mình là phóng sự tiểu thuyết như Cạm bẫy người, Một huyện ăn tết (Vũ Trọng Phụng), Ngoại ô (Nguyễn Đình Lạp), hoặc tiểu thuyết phóng sự như Ngõ hẻm (Nguyễn Đình Lạp), Bút nghiên (Chu Thiên), Lều chõng (Ngô Tất Tố)... Với tư cách là chủ thể sáng tạo, họ đã dự báo và đưa đến cho công chúng một cái nhìn toàn diện, một vấn đề có tính chất xã hội, đầy triết lý sâu sắc về kiếp người, về một số phận con người. Chính tính chất tiểu thuyết yêu cầu các tác phẩm viết theo lối “tả chân” này, không những năng động, công phu trong việc lấy sự kiện nóng bỏng mà còn phải chọn lọc sự kiện, tổng hợp tư liệu, có cái nhìn linh hoạt trước hiện thực dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Đồng thời cũng yêu cầu tác giả phải có khả năng phân tích, đánh giá xã hội; tác giả phải xây dựng được những hình tượng nhân vật đại diện cho một lớp người có thực ở ngoài đời. Tác giả không những chỉ có tài dùng từ ngữ mà điểm nhìn, góc nhìn hiện thực của họ (thế giới quan của tác giả) cũng chi phối nhiều đến giá trị của tác phẩm. Sự kiện, hiện thực ở đây không còn trần trụi, khô cứng, với những con số cụ thể đơn lẻ mà trong phóng sự, hiện thực ấy đã được khái quát hoá. Có nhiều trường hợp, tác phẩm không chỉ dừng lại nói đến chính đối tượng phóng sự phản ánh mà còn nói về cái rộng lớn hơn, bao trùm hơn và có ý nghĩa xã hội. Chính việc sử dụng có chọn lọc những phương tiện của bút pháp tiểu thuyết khiến các phóng sự này có dung lượng tương đối lớn, kết cấu chặt chẽ, nhân chứng - nhân vật sống động, nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn...Nghệ thuật phân tích nội tâm nhân vật, sức tưởng tượng hư cấutrong chừng mực cho phép đã nâng tầm giá trị tác phẩm. Sự ảnh hưởng, đan xen giữa các thể loại trong quá trình vận động thể hiện sự sinh động, phong phú của đời sống văn học. Tuy nhiên chỉ có những tay viết phóng sự đạt đến trình độ cao về khả năng văn chương thì mới thai nghén được những tác phẩm phóng sự mang tính tiểu thuyết. Sự bước sang “lãnh địa” của nhau giữa phóng sự và tiểu thuyết đã, đang và sẽ luôn được coi là “phẩm chất” của thể loại.
 
a. Phóng sự Việt Nam 1932-1945 ra đời như một kết quả của quá trình giao lưu, ảnh hưởng văn hoá, văn học phương Tây
Để xuất hiện một lớp công chúng văn học, báo chí mới, một quan niệm sáng tác mới, yếu tố lịch sử xã hội, sự giao lưu ảnh hưởng văn học, văn hoá bên ngoài có vị trí vô cùng quan trọng. Sự ra đời của phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932-1945 cũng gắn liền với các yếu tố trên.
Sau khi phong trào Cần vương kết thúc (1896), cả bộ máy vua quan, hào lý từ triều đình, tỉnh, huyện đến làng xã Việt Nam đều biến thành tay sai của bọn xâm lược. Chính quyền bản xứ đã phụ thuộc hoàn toàn thực dân Pháp. Ngoài bốn tầng lớp nhân dân thời phong kiến xưa cũ như sĩ, nông, công, thương, khi thực dân Pháp sang thì “những con buôn chạy việc cung cấp thức ăn cho trại lính, chạy việc mua hàng bán hàng, những thông ngôn ký lục giúp việc giao thiệp, giấy tờ, những me Tây, những ông thầu khoán, những học trò các trường thông ngôn, hậu bổ là lớp thị dân đầu tiên của các thành phố nhượng địa” ([23]). Bên cạnh đó, những anh bồi, anh xe, vú em, buôn thúng bán mẹt, gái đĩ, lưu manh xuất thân từ nông thôn, từ thợ thủ công bị phá sản tạo thành tầng lớp tiểu tư sản nghèo sống bấp bênh ở thành thị. Tầng lớp Tây học được thực dân Pháp đào tạo trở thành những ông thông, ông phán, ông nghè, ông cử mới thay thế dần vị trí của các văn thân xuất thân từ Nho học. Ở nông thôn, các thầy chánh, thầy lý trước đây còn là người chạy việc cho các thân sĩ thì nay được quan sứ, quan đồn bênh vực trở nên ngông nghênh, hống hách ở chốn đình trung. Đến đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam đã thực sự là xã hội thực dân nửa phong kiến và chuyển mình theo hướng tư sản, một hướng tư sản què quặt. Cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thế kỷ XX, do ảnh hưởng của các trào lưu cách mạng trên thế giới, ảnh hưởng của các cuộc khai thác thuộc địa, xã hội Việt Nam đã có những biến động sâu sắc về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá.
Trước hết về lĩnh vực chính trị, đây là thời kỳ hình thành và đua tranh giữa các đảng phái, đồng thời là thời kỳ mà sự phân hoá giai cấp trong xã hội ngày càng diễn ra sâu sắc. Thực dân Pháp bằng các cuộc khai thác thuộc địa, bằng những cải cách ở hương thôn, bằng một loạt các chính sách mỵ dân, đã ra sức củng cố chế độ thuộc địa, nhưng càng ngày chúng càng bộc lộ rõ bản chất thâm hiểm, tàn bạo. Phát xít Nhật đã có kế hoạch thôn tính Việt Nam nhằm chuẩn bị cho sự bành trướng vùng châu Á - Thái Bình Dương. Cùng với đó, mâu thuẫn giai cấp trong lòng xã hội Việt Nam lúc đó ngày càng trở nên gay gắt, nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân đã xảy ra. Sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái, Việt Nam Quốc dân Đảng thất bại, giai cấp tư sản đã mất dần vai trò lãnh đạo xã hội. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 đã đánh dấu một bước chuyển mới trong xã hội thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ. Giai cấp vô sản bước lên vũ đài chính trị, lãnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh và tiếp theo đó là phong trào Mặt trận dân chủ Đông dương (1936-1939) đã làm chuyển biến sâu sắc tư tưởng của nhiều tầng lớp trong xã hội.
Về lĩnh vực kinh tế, đầu thế kỷ XX đến những năm 30 của thế kỷ, thực dân Pháp tiến hành hai cuộc khai thác thuộc địa với các chính sách độc chiếm thị trường kinh doanh, độc chiếm các ngành kinh doanh. Thành thị ngày càng được mở rộng, kinh tế thuộc địa phát triển, hàng hoá châu Âu từ thành thị tràn về nông thôn. Bên cạnh đó, sự bóc lột tô thuế nặng nề cũng đã làm cho đời sống của nông dân vô cùng cực khổ. Sự chuyển động của kinh tế tư bản cũng đã đụng chạm đến hệ tư tưởng của các giai cấp trong xã hội Việt Nam.
 Về lĩnh vực văn hoá, xã hội, công cuộc khai hoá văn minh của Pháp đã làm cho văn hoá - xã hội Việt Nam có những biến đổi sâu sắc, nên đây là thời kỳ trong lòng xã hội Việt Nam cùng một lúc tồn tại nhiều hệ tư tưởng. Hệ tư tưởng phong kiến đã lung lay và dần lụi tàn, nhất là sau khi nhà nước tổ chức hội khoa thi cuối cùng vào năm 1919 ở Huế. Giai cấp tư sản được hình thành sau cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất đã ngày càng lớn mạnh, khi các đô thị xuất hiện nhanh chóng và sự buôn bán sôi nổi diễn ra ở các thành phố lớn. Lối sống tư sản và hệ tư tưởng tư sản với những quan niệm đề cao vai trò của cá nhân con người, những tư tưởng về tự do, dân chủ xuất hiện tràn lan trong giai cấp tư sản và tầng lớp tiểu tư sản. Cuộc sống trong khuôn khổ luân thường đạo lý bị phá vỡ, trở thành cuộc sống xã hội cụ thể, đa dạng, sôi động. Sự rạn nứt của nền tảng đạo đức, luân lý gia đình phong kiến không những xảy ra ở thành thị, mà còn xuất hiện ngay trong luỹ tre làng. Trong lúc đó, hệ tư tưởng vô sản bắt đầu xuất hiện. Sự du nhập của sách báo hải ngoại, sự trở về của du học sinh ở Pháp (tầng lớp Tây học, nói, viết thông thạo tiếng Pháp,ở nhà lầu, đi xe hơi, dùng đồ điện)… là những điều kiện hội đủ để văn hoá Việt Nam đón nhận luồng tư tưởng mới của phương Tây.
Sự tiếp xúc với văn hoá phương Tây, lối sống đô thị hoá làm cho ý thức cá nhân nảy nở và nhanh chóng lấn át ý thức cộng đồng xưa cũ. Quan niệm về cuộc sống nhân sinh có những đổi thay, con người ý thức ngày càng sâu sắc hơn về “cái tôi” cá nhân, về cuộc sống riêng tư, muốn khẳng định “cái tôi” cá nhân trong gia đình và xã hội nên nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị vật chất, tinh thần cũng biến đổi theo, trong đó có nhu cầu sáng tạo, thưởng thức văn hoá, văn học, và “Thị hiếu đại chúng hầu như thay đổi hoàn toàn, chỉ ưa tìm đọc những văn, những chuyện thuộc loại tả chân và lãng quên dần loại văn chương lãng mạn mà người ta cho là không thích hợp” ([24]). Nhu cầu văn chương mới và quan niệm sáng tác mới đầu thế kỷ XX cùng với những tác động của đời sống chính trị những năm 30 đã làm xuất hiện một kiểu nhà văn mới. Kiểu nhà văn hăm hở đi vào cuộc đời, quan sát, ghi chép trực tiếp đời sống xã hội. Kiểu nhà văn vạch ra sự lẫn lộn thật giả của thời cuộc để tìm bộ mặt thật của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Tờ báo tiếng Việt đầu tiên của Việt Nam xuất hiện ở Nam Kỳ năm 1865 là Gia Định báo. Tờ báo đăng các nghị định, thông tư của chính phủ Pháp và đưa tin tức trong nước, sau có thêm chuyên mục khảo cứu, nghị luận, thơ ca của các danh sỹ Nam kỳ. Tờ báo đã mở đường cho các nhà Nho phổ biến chữ quốc ngữ. Sau Gia Định báoPhan Yên báo, Nông cổ mín đàn, Lục tỉnh tân văn ở Nam bộ. Ở Bắc kỳ, tờ báo đầu tiên là Đại Nam đồng văn nhật báo (1891) và Đại Việt tạp chí. Được viết bằng chữ Hán và Quốc ngữ, hai tờ báo này là công cụ của nhà nước bảo hộ. Tiếp sau đó là các tờ Đông dương tạp chí (1913), Nam phong tạp chí (1917) truyền bá văn minh phương Tây, phê bình lối sống phong kiến. Cùng với thời gian, qua các cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, với những quan niệm sáng tác mới, báo chí nước ta đã trưởng thành, thoát ra khỏi sự ảnh hưởng, sự nô dịch của thực dân Pháp và dần xuất hiện ngày càng nhiều trong cả nước. Theo thống kê, nếu năm 1865 ta chỉ có tờ Gia Định báo thì đến 1923 đã có 71 tờ báo và năm 1934 đã có đến 227 tờ với cả một hệ thống in ấn, phát hành rộng khắp. Báo chí phát triển, đã đáp ứng được nhu cầu văn hoá, tinh thần ngày càng cao của xã hội.
Những năm 20 của thế kỷ XX, công chúng văn học mới, quan niệm sáng tác mới, đội ngũ sáng tác mới đã khiến văn chương Việt Nam dần bước vào quĩ đạo hiện đại hoá với những cách tân về thể tài, cảm hứng, phong cách thể hiện, ngôn từ. Báo chí đã có vị trí quan trọng trong quá trình hiện đại hoá. Trước hết là vai trò truyền bá chữ quốc ngữ. Các tờ báo ra mắt đầu tiên đều có mục dạy chữ quốc ngữ, các tờ báo sau đều viết bằng chữ quốc ngữ và truyền bá tri thức hiện đại phổ thông. Nam phong tạp chí Đông dương tạp chí in gần như toàn bộ tri thức học thuật đương thời. Báo chí là phương tiện giúp độc giả thay đổi thị hiếu thẩm mỹ, tiếp cận kiểu văn chương mới. Do báo chí giai đoạn này phát triển mạnh, nên làm báo đã trở thành một nghề và báo chí cũng là nơi tập họp, đào luyện, hành nghề của những người viết văn. Ở thời kỳ này, các nhà báo cũng thường là các nhà văn, chủ bút, nhà xuất bản. Điều này lý giải vì sao có nhiều bài báo lại thấm đẫm chất văn chương. Đây cũng là điều mới lạ so với các trang viết, những trang ký người thực việc thực về những cuộc du hành của Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của... cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Chủ nhân của báo chí thường là các trí thức Tây học, chịu ảnh hưởng sâu sắc của giáo dục phương Tây, ham xông xáo vào mọi ngóc nghách của hiện thực để tìm đề tài, lấy cảm hứng từ chính hơi thở của cuộc sống chứ không phải chỉ bằng tình cảm đơn thuần bàn luận về “thế đạo nhân tâm”. Lớp nhà văn, nhà báo Tây học cùng với một số nhà Nho tiến bộ đã dần có những sản phẩm đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu mới của lớp công chúng văn học mới.
Đầu thế kỷ XX, đặc biệt là sau năm 1920, kỹ thuật in ấn ở nước ta cũng dần được hiện đại hoá. Nhiều nhà máy in cùng các nhà xuất bản như Minh Đức, Tân Dân, Đời Nay ... ra đời, đã tạo điều kiện cho báo chí Việt Nam lúc đó phát triển mạnh.
Những năm 30 của thế kỷ XX, bên cạnh tiểu thuyết, truyện ngắn được viết theo lối mới, thể ký với các dạng như ký sự, tuỳ bút, phóng sự cũng lần lượt ra đời. Thạch Lam (Việt Sinh) cây bút chủ đạo của nhóm Tự lực văn đoàn đã phát biểu trên tờ Phong hoá: Đọc một quyển truyện, một tờ báo đầy những lời dạy bảo về tam cương ngũ thường thì đọc ngay một cuốn luân lý cho xong, người ta đã chán chường những văn chương như thế, người ta đã ham mê những truyện chỉ cốt tả sự thật, không giảng luân lý, không dạy ai gì hết. Một quyển truyện, một tờ báo muốn người ta ham đọc cần phải làm cho người ta vui hoặc người ta cảm động, mà muốn cho người ta cảm động thì cần phải đúng sự thật.
Tờ Phong hoá và tờ Ngày nay của nhóm Tự lực văn đoàn có thể coi là một trong những nơi đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại có cuộc vận động cách tân văn học Việt Nam bằng việc đăng tải một loạt những tiểu thuyết, thơ, tản văn ... của các tác giả trong và ngoài nhóm. Những tác phẩm này so với lối truyện nôm về các anh hùng, liệt nữ xưa đã phần nào loại bỏ được lối khuôn sáo, ước lệ mà thêm vào đó hơi thở nồng nàn của hiện thực xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Bên cạnh luồng tư tưởng mới, quan niệm mới về nghệ thuật là sự cách tân về câu văn, về bút pháp, quan niệm lấy con người làm nhân vật trung tâm để miêu tả.
Cùng với sự phát triển của tiểu thuyết do nhóm Tự lực văn đoàn sáng tác là sự phát triển rầm rộ của phong trào thơ mới với những bài thơ của Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận,... Bên cạnh dòng văn chương lãng mạn, giai đoạn 1932-1945 còn là mốc ra đời và phát triển mạnh mẽ của văn học cách mạng, văn học hiện thực phê phán. Những thành tựu ưu tú của văn học thời kỳ này đã tạo thành:“ “một thời đại thi ca” và một thời đại của những tác phẩm văn chương vừa hiện thực vừa lãng mạn” ([25]).Nếu như trước năm 1930, tuy đã xuất hiện nhiều, nhưng văn học, báo chí còn khá non nớt với những bài du ký, ký sự, hài đàm... có nội dung hời hợt và giọng văn khuôn sáo, hoài cổ, siêu thoát thì nay - sau năm 1930, các toà soạn báo đã không ngừng cải tiến từ nội dung đến hình thức để tranh thủ độc giả. Tam Lang đã tuyên ngôn dõng dạc: “Vì không muốn mình còn là một người viết báo lỗi thời, tôi đã thay đổi cả ngòi bút lẫn bình mực (...) Tôi đã chuyển luôn cách viết dứt khoát bỏ hẳn lối văn lãng mạn, ghi chép những điều tai nghe mắt thấy trong mục Những cái mắt thấy cũng trên tờ Ngọ báo bằng lối tả chân” ([26]). Để viết nên Tôi kéo xe, viết về những cảnh bi hài của kiếp “người ngựa”, Tam Lang trong Tôi kéo xe đã “Bắt chước Marise Choisy đổi lấy bộ áo con đòi vào ở thổ, tôi cũng mượn bộ quần áo nâu của một bạn áo ngắn, khoác vào mình rồi mạnh bạo đi làm xe” ([27]).
Khi nói về “Ảnh hưởng văn học Pháp tới văn học Việt Nam trong giai đoạn 1932 - 1945”, Phan Ngọc cho biết, vào khoảng những năm 30 của thế kỷ XX, cuốn phóng sự Sadan conduit (Quỉ xa tăng cầm đầu cuộc khiêu vũ) đã “chấn động dư luận (...) ai cũng đọc và rất có ảnh hưởng”. Bạn văn cùng thời Vũ Trọng Phụng cũng cho biết, Vũ Trọng Phụng giỏi tiếng Pháp và đọc rất nhiều phóng sự nước ngoài. Ở phóng sự đầu tayCơm thầy cơm cô, Vũ Trọng Phụng có nói đến thiên Phóng sự Carnet d’une femme de Chaubre 1934 của Marise Choisy và sau này, ở đây đó ông cũng có nhắc đến ảnh hưởng của phóng sự nước ngoài đối với tư tưởng quần chúng nhân dân. Như vậy là bằng nhiều con đường, các phóng sự nước ngoài đã vào Việt Nam và được giới trí thức Việt Nam tìm đọc, trong đó có cả những nhà “Tây học” và “Nho học”. Họ đã đọc và học tập ở đó cách tiếp cận, khai thác hiện thực, cách thể hiện hiện thực.
Sự phát triển mạnh mẽ của báo chí đã tác động trực tiếp đến sự ra đời của phóng sự. Phóng sự - thể văn đặc biệt bằng nhiều con đường du nhập từ Pháp, Nga, Trung Quốc về, đã dần trưởng thành và phát triển trong làng báo, làng văn Việt Nam. Các nhà văn Việt Nam đã tìm thấy sự biểu đạt mạnh mẽ, nhanh nhạy, sâu lắng của thể phóng sự trước hiện thực bề bộn. Qua thể văn tư liệu này, người viết mặc sức “điều tra”, vạch rõ mảng tối sáng của sự kiện, lên tiếng yêu cầu nhà chức trách cải tạo hiện thực... Thể văn này đáp ứng mong muốn hiểu rõ sự thật một cách “trần trụi”, mộc mạc của độc giả. Vì vậy, tuy mới du nhập nhưng ngay lập tức phóng sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng trở thành một thể loại độc lập sánh vai cùng thơ, kịch, tiểu thuyết, truyện ngắn. Xét về hiệu quả phản ánh hiện thực, phóng sự có vị trí mũi nhọn trong làng báo, làng văn đương thời.
Những sự kiện văn học, báo chí thời kỳ trước và sau những năm 1930 cho thấy, bên cạnh tiểu thuyết hiện đại, phóng sự Việt Nam 1932-1945 cũng là sản phẩm của sự giao lưu ảnh hưởng với văn học, báo chí nước ngoài. Các nhà văn đồng thời cũng là nhà báo lúc bấy giờ như Tam Lang, Trọng Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố... bằng tài năng và sự ham học hỏi đã đưa thể loại phóng sự còn non trẻ phát triển đến đỉnh cao của sự chiếm lĩnh hiện thực một cách sống động với những hình ảnh, số liệu cụ thể, những nhân vật giống như nguyên mẫu, giúp người đọc không những hiểu sự thật mà còn thấy được bản chất sâu xa của hiện tượng. Các tác phẩm Tôi kéo xe, Cơm thầy cơm cô, Lục xì, Cạm bẫy người, Ngõ hẻm... đăng nhiều kỳ trên các báo đã làm nhiều độc giả khao khát đón đọc. Chính sự háo hức của độc giả cũng đã giúp nhiều nhà văn, nhà báo từng gặt hái thành công ở các thể loại khác thử sức, khiến đội ngũ viết phóng sự trở nên hết sức đông đảo.
Tiền đề về văn hoá và văn học phương Tây, cùng với sự vận động của dòng văn học, báo chí Việt trên con đường hiện đại hoá về các mặt thể loại, đối tượng phản ánh, nội dung phản ánh, cách thức phản ánh... đã giúp thể loại phóng sự Việt Nam ra đời.
b. Phóng sự Việt Nam 1932-1945 là kết quả của sự tiếp nối, phát triển và hoàn thiện của thể loại ký sự truyền thống
Theo Phan Huy Chú (1782-1840) thì văn học Việt Nam thời kỳ trung đại có hai thành phần khác biệt nhau tạo thành, đó là điển lễ hiến chương (do chế tác làm ra, thuộc văn học chức năng) và văn chương (tâm thuật người cầm bút gửi vào, thuộc văn học nghệ thuật). Nhóm văn học chức năng gồm hiến chươngkinh sử; nhóm văn học nghệ thuật gồm thi văn truyện ký. Nếu như ở giai đoạn đầu của văn học trung đại, văn học chức năng ra đời trước và chiếm vị trí trung tâm thì trong suốt mười thế kỷ văn học trung đại là cả một quá trình vận động của văn học về mặt thể loại cũng như đề tài, quan niệm sáng tác: “Quá trình văn học trung đại cũng là quá trình văn học nghệ thuật chiếm dần vị trí trung tâm và đẩy lùi từng bước văn học chức năng ra ngoài. Trong quá trình ấy lúc nào cũng có một bộ phận của văn học nghệ thuật tiếp giáp với văn học chức năng, hoặc đan xen, thậm chí có thời kỳ xâm nhập đan xen... Bộ phận văn học này tạo nên cái mà người ta gọi là “văn - sử - triết bất phân” ([28]).
Các nhà lý luận văn học thời hiện đại đã coi các tác phẩm văn xuôi chữ Hán thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XIX như Công dư tiệp ký, Vũ trung tuỳ bút, Tang thương ngẫu lục, Thượng kinh ký sự,... thuộc thể loại trung đại và là văn ghi chép sự thực, hoặc đi chơi, hoặc muốn ghi việc gì thì tả cái sự thực đó mà nghị luận thêm để tỏ cái ý của mình. Bên cạnh ý kiến của Phan Kế Bính, Trần Đình Hượu, Nguyễn Đăng Na về tiêu chí, đặc điểm của ký trung đại, còn có một loạt ý kiến của các nhà nghiên cứu trong nước cũng như ngoài nước bàn về thể loại văn “ghi chép” Việt Nam thời trung đại với những tên gọi của chúng cũng như phong cách ghi chép “có nghệ thuật” của chúng. Các ý kiến tựu trung lại nhận diện ký trung đại bằng các tiêu chí sau: Đó là, dạng ghi chép “xác thực”, tái hiện những điều “tai nghe mắt thấy”; trừ một số trường hợp, còn phần lớn có dung lượng không lớn, nhân vật và cốt truyện không rõ rệt, kết cấu mang tính ghi chép và tự do; mang đậm dấu ấn cá nhân, rõ nét “cái tôi” tác giả trong khi ghi chép; văn chương có tính nghệ thuật.… Các trí thức của xã hội phong kiến (cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX) đã “hăm hở nhập cuộc”, ghi chép sự việc theo diễn biến khách quan của sự kiện lịch sử một cách tỷ mỉ, cụ thể, đồng thời cũng ghi lại những nét lớn của những sự kiện giàu ý nghĩa trong xã hội. Mở đầu cho cách ghi chép “xác thực” này là tác giả Vũ Phương Đề với Công dư tiệp ký (năm1755). Sách mang màu sắc dã sử thần kỳ, ghi chép các mẩu chuyện, truyền thuyết về các sự kiện và nhân vật lịch sử. Tiếp sau tác giả họ Vũ là Ngô Thì Sĩ (1726-1780), Lê Quí Đôn (1726-1784). Ký của Ngô Thì Sĩ thì thiên về trữ tình (Ngọ phong văn tậpKhuê ai lục); còn ký của Lê Quí Đôn thì thiên về khảo cứu (Vân Đài loại ngữ Bắc sứ thông lục).
Với hai tác phẩm Tiên tướng công niên phả lục (1764) và Trần khiêm đường niên phả lục (1765), Trần Tiến (con trai Diệu quận công Trần Cảnh) đã đưa thể ký lên một bước phát triển mới, đặt cái tôi cá nhân trở thành nhân vật trung tâm trong tác phẩm để từ đấy đánh giá, quan sát miêu tả mọi sự kiện nhưng mạch viết vẫn tuân theo năm tháng, sự kiện. Hai tác phẩm có nội dung phong phú, đặc sắc, bút pháp chân thực lột tả thực chất xã hội Việt Nam những năm 40 của thế kỷ XVIII, một xã hội vua thì tăm tối, quan thì nhiều kẻ tham lam, tàn ác, xã hội thì loạn ly… Trong Thượng kinh ký sự (11/ 1783), Lê Hữu Trác (1720-1791) mặc sức “tự do tung hoành trên dòng sông cảm xúc của mình” ([29]). Với cái tôi cá nhân được bộc lộ mạnh mẽ, Lê Hữu Trác đã đưa Thượng kinh ký sự đạt đến trình độ cao về nghệ thuật viết văn. Trong dòng chảy “văn học nghệ thuật”, yếu tố sử đã làm nền cho yếu tố văn nảy nở và lấn lướt. Đến Lê Hữu Trác, thể ký văn học đích thực ra đời, tạo đà cho một loạt tác phẩm ký khác như Bắc hành tùng ký (Lê Quýnh), Vũ trung tuỳ bút, Châu phong tạp thảo... (Phạm Đình Hổ, 1768-1839). Nếu Bắc hành tùng ký vừa có tính chất tự thuật vừa mang tính chất nhật ký, hồi ký và ký sự thì ở Vũ trung tuỳ bút, Phạm Đình Hổ vừa viết theo kiểu tự thuật vừa viết theo kiểu khảo cứu. Ông không viết theo thứ tự thời gian (chất sử) mà viết về những kỷ niệm thời thơ ấu. “Khảo” là cái cớ để nói về hiện tại, lời văn đậm chất trữ tình...
Đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái xuất hiện cũng đánh dấu bước phát triển của văn chương Việt Nam thời trung đại. Tuy được viết theo lối tiểu thuyết chương hồi, trong mỗi chương, mỗi hồi là một sự kiện lịch sử nhưng lối viết đều thấm đậm chất văn chương. Yếu tố văn chương lấn át dần yếu tố sử ký, tạo nên sức hút kỳ lạ cho tác phẩm.
Trong quá trình vận động của văn học thời trung đại, văn học chức năng dần nhường chỗ cho văn học nghệ thuật. Thể ký bước đầu chỉ là sự ghi chép những sự kiện với mốc thời gian lịch sử có thực một cách khách quan, trong quá trình vận động thể loại đã mang trong mình nỗi niềm riêng tư của tác giả. Yếu tố văn chương xuất hiện, lúc đầu phát triển song tồn cùng yếu tố sử và sau đó có phần lấn át yếu tố sử khiến những tác phẩm viết về các nhân vật, sự kiện lịch sử không còn khô cứng, rời rạc. Sự phát triển song tồn của hai yếu tố này mang tính chất lỏng lẻo, để đến thời gian sau, văn học vận động theo hướng phân lập, tách dần hai yếu tố. Mặc dù có kết cấu mang tính ghi chép tự do, đầy ngẫu hứng, không tuân theo trật tự sự kiện, gặp đâu nói đó, nghe thế nào kể lại như thế, nhưng trong ký trung đại, đặc biệt là các tác phẩm của Lê Hữu Trác, Phạm Đình Hổ, nghệ thuật ghi chép đã đạt đến độ khá hấp dẫn qua cách chọn lọc và sắp xếp các chi tiết có hàm lượng tư tưởng cao, sự dồn nén cảm xúc trong một hình thức ngắn gọn, giọng văn mô tả có vẻ khách quan, dẫn dắt tình tiết khéo léo đã làm cho ký có tính xác thực và thuyết phục cao. Trong ký trung đại, sự đối thoại giữa các nhân vật, sự bình luận của các tác giả... đã tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm. Đặc điểm nổi bật trong văn phong và ngôn ngữ của ký là cách viết giản dị, ít dùng điển cố và câu văn biền ngẫu... khiến tác phẩm ký dễ đọc, dễ hiểu. Các tác phẩm ký phong cảnh của Ngô Thì Sĩ, Phạm Đình Hổ, Lê Hữu Trác thường sử dụng thứ văn phong giàu tính tạo hình, biểu cảm, giàu ý nghĩa (Nhị Thanh động ký sự, Trùng Dương vô thi ký của Ngô Thì Sĩ; Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác; Phật tích sơn du ký củaPhạm Đình Hổ...). Trong tác phẩm, lời ăn tiếng nói của cuộc sống thường nhật cũng được các tác giả sử dụng hợp lý. Chất “hiện đại” của ký trung đại là dòng chảy tự nhiên, xuyên suốt để khi văn học Việt Nam bước vào giai đoạn hiện đại kết hợp với tinh hoa văn hoá ngoại lai cho ra đời những tác phẩm ký hiện đại đầy giá trị.
Lấy mạch nguồn từ loại hình văn học truyền thống có tính nguyên hợp văn - sử, phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932-1945 được coi là “đứa con” của báo chí và văn học. Báo chí ở chỗ, nó ghi chép những sự kiện, hiện tượng xảy ra trong đời sống thường nhật một cách khách quan. Văn học ở chỗ, nó thể hiện yếu tố cảm xúc, “cái tôi trữ tình” trong tác phẩm. Tuy nhiên, ở Việt Nam phải đến khi báo in xuất hiện thì phóng sự mới xuất hiện với tư cách là một thể độc lập. Kế thừa bản chất văn chương của ký trung đại thế kỷ XVIII - XIX, trong các phóng sự hiện đại, yếu tố sử tuy vẫn còn nhưng không còn ở vị thế chủ đạo nữa mà thay vào đó là yếu tố văn; vai trò chép sử thường thấy ở các nhà viết ký thời trung đại đã nhường chỗ cho vai trò nhà văn ở phóng sự hiện đại.
Kế thừa thành tựu của phóng sự hiện đại thế giới, thể phóng sự xuất hiện trên văn đàn Việt Nam cùng với sự hình thành và phát triển của các trào lưu văn học. Trong quá trình phát triển, nó đã dần thoả mãn nhu cầu của bạn đọc. Nó tồn tại và phát triển do yêu cầu và tác động của đời sống chính trị xã hội đương thời. Trong bối cảnh thế giới hiện đại, phóng sự không dừng lại ở việc mô tả sự kiện đơn giản, thuần nhất, khô cứng mà dần dần nó đã đạt tới sự chuẩn xác và phong phú trong việc trình bày hiện thực với những chi tiết cụ thể sống động. Với bút pháp giàu chất văn học và “cái tôi” trần thuật đầy cảm xúc, giàu trí tuệ, phóng sự 1932-1945 không chỉ trình bày hiện thực mà còn phát hiện, lý giải những vấn đề thuộc về bản chất của hiện thực.
Tam Lang - tác giả Tôi kéo xe (1932), đã từng lý giải với độc giả về cách viết mới mẻ, táo bạo nhằm mục đích chỉ muốn phác thảo một bức tranh tả cái cảnh sinh hoạt khổ sở của một hạng người trong xã hội của mình. Tác giả đã đạt được mục đích này. Công chúng đương thời có dịp được hiểu tường tận cuộc sống của một kiếp người, cảm nhận được cả tấm lòng thương cảm chân thành của tác giả đối với kiếp “ngựa người”, với những trang viết xúc động: “Bị người một giống khinh thị một cách bất công rồi, người phu xe có cần gì phải tự trọng? Chúng ta cướp nhân phẩm của anh em mà chúng ta không biết. Anh em làm những việc không có nhân cách, chúng ta còn khinh trách gì anh em” ([30]). Dùng ngòi bút tả chân để miêu tả thực chất cuộc đời cũng như sự sa đoạ của kiếp phu xe, Tôi kéo xe còn có những trang viết bộc lộ quan điểm xã hội của tác giả, với lối viết văn xuôi gần khẩu ngữ, tự nhiên, sinh động.
Tiếp sau người khởi xướng cho lối viết mới mẻ này là các cây bút sắc sảo Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang, Ngô Tất Tố, Nguyễn Đình Lạp và một loạt các nhà văn danh tiếng khác.
Chất văn của phóng sự 1932-1945 không chỉ ở những trang viết mượt mà, đầy cảm xúc mà còn ở thái độ, quan điểm nhìn nhận của tác giả trước hiện thực xã hội, ở cách khai thác chất liệu của đời sống trong mỗi tác phẩm.
Tìm hiểu thể loại phóng sự trong văn học Việt Nam hiện đại, xung quanh tiêu chí nhận diện thể loại của phóng sự, ta thấy, ngoài những thiên phóng sự đăng trên các báo thời đó mà bản chất thể loại của nó thể hiện rõ, ta còn gặp những tác phẩm vừa có đặc trưng của phóng sự, vừa có đặc trưng của tiểu thuyết hoặc truyện vừa như Ngõ hẻm của Nguyễn Đình Lạp, Lều chõng của Ngô Tất Tố, Hầu thánh của Lộng Chương, Bút nghiên của Chu Thiên… Khi nói về những tác phẩm này, trong giới nghiên cứu còn có những ý kiến trái ngược nhau. Có người xếp là phóng sự, có người xếp là tiểu thuyết. Có lẽ vậy mà khái niệm tiểu thuyết phóng sự hoặc phóng sự tiểu thuyết được dùng cho những tác phẩm này.
 Để thuận lợi cho việc đánh giá giá trị của tác phẩm, giá trị cả thể loại, chúng tôi sử dụng cách phân loại phóng sự và tiểu thuyết của Vũ Ngọc Phan và Nguyễn Đình Lạp. Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại (1942) đã xếp riêng các nhà viết phóng sự và các nhà tiểu thuyết phóng sự, nhưng có lẽ lúc đó do chưa có tiêu chí rõ ràng nên đã xếp Lều chõng của Ngô Tất Tố, Bút nghiên của Chu Thiên vào mục “Tiểu thuyết phóng sự”, nhưng cũng xếp Lều chõng cùng một số tác phẩm khác của Ngô Tất Tố vào mục “Những nhà viết phóng sự”. Nguyễn Đình Lạp trong tập bài giảng Muốn làm phóng sự lại cho rằng một sự kiện phóng sự cần có đủ 4 yếu tố: cụ thể (thấy và nghe); hiện đại (đang diễn ra); nhân loại (có con người) và xã hội (ảnh hưởng, quan hệ tốt tới nhiều người). Những sự kiện tâm lý thì thuộc phạm vi tiểu thuyết; những sự kiện đã diễn ra trong quá khứ thuộc phạm vi của ký sự lịch sử, những sự kiện diễn ra trong tương lai lại thuộc phạm vi của tiểu thuyết. Vậy theo Nguyễn Đình Lạp thì đặc trưng khá cơ bản của tiểu thuyết phóng sự hay phóng sự tiểu thuyết và phóng sự là tinh thần nghiên cứu, tìm hiểu cặn kẽ một sự kiện, một vấn đề; ghi chép mô tả sự kiện trung thực; hướng vào một ý nghĩa xã hội - chính trị cụ thể theo quan điểm của người viết. Theo quan điểm này thì Lều chõng, Bút nghiên, Hầu thánh, Ngõ hẻm… đều là những thiên phóng sự hoặc tiểu thuyết phóng sự. Nó đề cập đến những vấn đề dù có diễn ra trong lịch sử, nhưng việc phản ánh nó trong hiện tại vẫn có ý nghĩa thời sự.
Những thiên du ký, những điều tra, ghi chép, khảo cứu về lịch sử văn hoá in trên các báo thời đó, khi đối chiếu với những đặc trưng nổi bật nhất của phóng sự ta thấy chúng thật sự là những thiên phóng sự. Lối viết và ý nghĩa của những bút ký, ghi chép này giống như cách viết phóng sự một kỳ trên báo. Nói chung, xét về mặt thể loại, trong phóng sự 1932-1945, không chỉ có phóng sự một kỳ hoặc nhiều kỳ trên báo mà còn có cả tiểu thuyết phóng sự, những thiên du ký, khảo cứu phong tục, lịch sử văn hoá, những bài điều tra xã hội học… đăng trên các báo đương thời, ta đều gọi là phóng sự. Việc phân định này sẽ là cơ sở để ta nhận thức đầy đủ, sâu sắc giá trị nhiều mặt của phóng sự 1932-1945.
Kế thừa mạch nguồn của các thiên ký sự, chú trọng sự kiện khách quan, tôn trọng tính chính xác của đối tượng miêu tả của văn học viết bằng chữ Hán, đầu thế kỷ XX ở Việt Nam xuất hiện một số tập du ký có yếu tố phóng sự được đăng tải trên báo chí: Pháp du hành trình nhật ký, Mười ngày ở Huế của Phạm Quỳnh và một số tác phẩm viết về cuộc sống nghèo khổ của nhân dân lao động, những mảnh đời lầm than, tố cáo chế độ bất công đang tồn tại trong xã hội. Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn ái Quốc, gồm nhiều bài báo đăng lần lượt trên tờ báo Le Paria (Người cùng khổ), năm 1925, đã giáng một đòn quyết liệt vào âm mưu đen tối, tâm địa dã man của bọn thực dân Pháp, đồng thời thức tỉnh ý thức vùng lên làm cách mạng của quần chúng lao khổ bị áp bức bóc lột ở Đông dương và các nước thuộc địa trên toàn thế giới. Mỗi chương của Bản án chế độ thực dân Pháp là một thiên ký sự dồi dào chất liệu hiện thực, nóng bỏng chí căm thù thực dân đế quốc, cổ vũ, khích lệ quần chúng lao động, giai cấp cần lao dũng cảm đứng lên đấu tranh xoá bỏ chế độ bất công tàn bạo. Tác phẩm được coi là một thiên phóng sự đầy ắp ý tưởng cải tạo, thay đổi chế độ xã hội. Có thể coi Bản án chế độ thực dân Pháp là tác phẩm phóng sự đầu tiên của văn học Việt Nam hiện đại với tác giả là nhà báo, nhà cách mạng Việt Nam nhưng do viết bằng tiếng Pháp, xuất bản ở Pháp nên thật sự chưa được coi là điểm mốc đánh dấu quá trình hiện đại hoá của văn học Việt Nam.
Từ năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nền báo chí cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ, góp phần tích cực vào công tác tuyên truyền, cổ vũ quần chúng trong công cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc. Với Vấn đề dân cày, các tác giả Qua Ninh và Vân Đình (bút danh của đồng chí Trường Chinh và đồng chí Võ Nguyên Giáp) đã làm một thiên phóng sự điều tra về vấn đề nóng bỏng cần thực hiện là người cày có ruộng lúc bấy giờ. Cũng trong thời gian này, báo chí, văn học Việt Nam có điều kiện nảy nở, phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu, cả công khai lẫn bí mật. Cùng với báo chí, văn học cách mạng hoạt động bí mật, báo chí, văn học công khai đã hoạt động sôi nổi, mạnh mẽ và phân hoá thành các trào lưu, khuynh hướng (lãng mạn, hiện thực). Đại diện của các trào lưu, khuynh hướng mới này là các thế hệ cầm bút mới. Họ tiếp thu kinh nghiệm của các thế hệ đi trước, cùng vốn học thức mới, sáng tác trong điều kiện xã hội mới với những giao lưu kỳ thú giữa văn học trong nước và quốc tế đã cho ra đời và hoàn thiện những loại thể văn học mới, góp phần quan trọng để 15 năm sau hoàn tất quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam. Bên cạnh thể loại tiểu thuyết, kịch, truyện ngắn, thể phóng sự ra đời đã kịp thời nắm bắt những vấn đề mấu chốt, nóng bỏng của xã hội đương thời.
Người có công mở đầu cho thể loại phóng sự Việt Nam là nhà báo Vũ Đình Chí - bút hiệu Tam Lang (1900-1986) với thiên phóng sự Tôi kéo xe đăng liên tiếp 20 kỳ trên tờ Ngọ báo. Ba năm sau, Tam Lang tự bỏ tiền in  Tôi kéo xe thành sách. Cũng trong ba năm (1932-1935), Tam Lang còn viết được 8 thiên phóng sự ngắn như Trên dòng Tiên Kim Thuỷ, Đêm sông Hương, Người… ngợm... Tiếp ngay sau Tôi kéo xe của Tam Lang là sự nở rộ của một loạt phóng sự đặc sắc của cây bút sung sức Vũ Trọng Phụng: Cạm bẫy người (1933), Kỹ nghệ lấy Tây (1934), Cơm thầy cơm cô (1936), Lục xì (1937), Một huyện ăn tết (1938)... , một số phóng sự ngợi ca vẻ đẹp của đất nước như Một cuộc hành hương ở Hà Tiên của Huỳnh Văn Chính, Nam Du đến Ngũ Hành sơn của Nguyễn Trọng Thuật, Tết chơi biển của Trúc Phong…
Cùng với Vũ Đình Chí, Vũ Trọng Phụng, Vũ Bằng cũng viết nhiều phóng sự như Một đêm trắng với năm bông hoa tàn, Tôi buôn lậu, Cai.... Sự mở đầu thành công của ba chàng họ Vũ đã kéo cả đoàn tàu phóng sự Việt Nam rút ngắn lộ trình phát triển với các cây bút được coi là tiên phong như: Trọng Lang, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Lạp, Thạch Lam... Nhiều người trong số họ khởi nghiệp văn bằng phóng sự và kết thúc đời văn cũng bằng phóng sự.
Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ (1936-1939), báo chí tự do phát triển, phóng sự được mặc sức thả mình vào thế giới hiện thực, tung hoành trước những vấn đề nóng bỏng, nhức nhối của xã hội. Thời kỳ này đã xuất hiện nhiều xu hướng viết phóng sự khác nhau: xu hướng viết về cuộc sống lam lũ vất vả của những người thuộc tầng lớp dưới đáy của xã hội; xu hướng viết về những tệ nạn của xã hội, về những hủ tục ở thôn quê; xu hướng viết về hiện thực trong những nhà tù, những nơi lưu đày và ca ngợi phẩm chất trung kiên của những người tù chính trị...
Hoà chung với sự phát triển rầm rộ của văn đàn, báo giới, phóng sự phát triển ngày càng mạnh mẽ và chiếm ưu thế về đội ngũ sáng tác cũng như số lượng và chất lượng tác phẩm. Với chủ trương dùng tờ báo của mình để làm một cuộc cách mạng “về báo chí”, bên cạnh việc cho đăng tải những thể loại mới mẻ của văn học, báo chí lúc bấy giờ như truyện ngắn, thơ, tiểu thuyết, tản văn, luận bàn, góc quảng cáo, châm biếm thì trên các tờ Phong hoá, Ngày nay của nhóm Tự lực văn đoàn, thể loại phóng sự giành được sự ưu ái hơn cả. Các trang báo của Tự lực văn đoàn liên tục đăng các phóng sự của hai tác giả trong nhóm. Đó là Thạch Lam (Việt Sinh) với Một tháng ở nhà thương, Hà Nội băm sáu phố phường, Nghe hát quan họ một đêm ở Lũng Giang, Trước tết, tết và sau tết, Trẻ con lấy vợ Hà Nội ban đêm (viết chung với Tràng Khanh); Hoàng Đạo với phóng sự Trước vành móng ngựa trên báo Ngày nay (1938) gồm nhiều phóng sự ngắn về cuộc sống đầy bi hài của xã hội đương thời. Ngày nayPhong hoá cũng là nơi đào luyện các tay viết phóng sự. Trường hợp Trọng Lang là một ví dụ. Viết về những mặt trái của xã hội thành thị, Trọng Lang được coi là cây bút phóng sự tiên phong giai đoạn 1932-1945, bởi “Qua những trang viết của tác giả, hậu thế có thể thấy lại được đầy đủ những đặc điểm của phóng sự một thời, không chỉ thành tựu mà cả những vụng dại, non nớt đáng yêu... của một thời làm báo hăm hở” ([31]). Hầu hết các tác phẩm của Trọng Lang được đăng trên 2 tờ báo của Tự lực văn đoàn: Trong làng chạy (Ngày nay, 1935); Đời bí mật của sư vãi (Phong hoá, 1935-1936); Gà chọi (Phong hoá, 1935); Đồng bóng (Phong hoá, 1935-1936); Hà Nội lầm than (Ngày nay, 1937); Làm dân (Ngày nay, 1938). Ngoài ra còn có Thầy lang (Hà Nội tân văn, 1941), Vợ lẽ nàng hầu (Tự do xuất bản, 1950);  Những đứa trẻ (viết năm 1944, xuất bản 1950) v.v.
Khảo sát toàn bộ phóng sự Việt Nam 1932-1945 có thể dễ dàng nhận thấy số tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống nơi thành thị chiếm ưu thế nhất và nhiều tác phẩm đạt tới đỉnh cao. Đó là những phóng sự viết về cuộc sống bần cùng và sự tha hoá của lớp người dưới đáy: Tôi kéo xe của Tam Lang (Ngọ báo, 1932), Cơm thầy cơm cô của Vũ Trọng Phụng (Hà Nội báo, 1936). Đó là lối sống buông thả, sa đoạ ở thành thị qua Thanh niên trụy lạc, Từ ái tình... đến hôn nhân, Chợ phiên đi về đâu (Ích hữu, 1937) của Nguyễn Đình Lạp. Sự nhố nhăng của đám “nghị sĩ” trong Dân biểu và dân biểu của Vũ Trọng Phụng (Công dân, 1935) và một loạt phóng sự in trên báo Tin tức năm 1938.
Nhưng sâu sắc hơn cả vẫn là những phóng sự viết về những tệ nạn của xã hội thành thị. Đó là Cạm bẫy người của Vũ Trọng Phụng (Nhật Tân, 1933) với những mánh khoé của bọn cờ gian bạc lận. Đó là sự ăn cắp vặt có “nghề” được Trọng Lang miêu tả như một nghệ thuật Trong làng chạy (Ngày nay, 1935). Đó là sự mộng mị trong cõi nàng tiên nâu của Ngọn đèn dầu lạcTàn đèn dầu lạc (Nxb Mai Lĩnh, 1941) được Nguyễn Tuân lột tả với bút pháp tài hoa; Trọng Lang qua Đàn bà nghiện hút thấy cả sự khủng khiếp của tệ nạn xã hội. Cai (Trung Bắc chủ nhật, 1940) của Vũ Bằng được coi vừa là hồi ký vừa là phóng sự. Nạn mại dâm với tất cả sự nhớp nhúa, ghê sợ qua các thiên phóng sự: Đêm sông Hương (Nam Kỳ xuất bản, 1938) của Tam Lang, Hà Nội lầm than (Đời nay xuất bản, 1938) của Trọng Lang; Hà Nội ban đêm (Ngày nay, 1936) của Tràng Khanh - Việt Sinh; Hải Phòng ban đêm, Huế ban đêm của Thiếu Hoa; Lục xì của Vũ Trọng Phụng (Tương lai, 1937); Điều tra tại sở phong tục (Phóng sự, 1938) của Y Lang... Tệ tham nhũng được Vũ Trọng Phụng mô tả một cách sinh động Một huyện ăn tết (Tiểu thuyết thứ bảy, 1939), Phạm Ngọc Thọ thể hiện trong Hối lộ. Sự khốn hại của nạn mê tín dị đoan được Trọng Lang thể hiện trong Đồng bóng (Ngày nay, 1935-1936), được Lộng Chương phân tích rõ trong tiểu thuyết phóng sự Hầu Thánh ( Nxb Cộng Lực, 1942).
Viết về miền quê nơi “bùn lầy, nước đọng”, nơi có những con người lam lũ một nắng hai sương là sở trường của Ngô Tất Tố. Hai phóng sự Tập án cái đình (Con ong, 1939), Việc làng (Hà Nội tân văn, 1940) đã phơi bày những hủ tục ở “góc chiếu sân đình” và những cảnh ngộ khốn cùng, nực cười ở chốn làng quê. Phóng sự Làm dân (Ngày nay, 1938) của Trọng Lang cũng phản ánh nỗi khốn đốn của những người dân trước những hủ tục vô nghĩa ở thôn quê. Phóng sự Thanh niên thôn quê của Trần Tiêu (Ngày nay, 1938) đặc tả sự vô tích sự, ươn lười, bạc nhược của lớp người trẻ tuổi thôn quê…
Không chỉ tập trung miêu tả cảnh “bùn lầy nước đọng”, các cây bút phóng sự còn kịp thời phản ánh những tai ương, chướng hoạ ập xuống đầu dân đen. Phóng sự Câu chuyện Bắc Giang (Tin tức, 1938) của Đ.K. đã diễn tả cảnh lụt lội cơ hàn của nông dân xứ Kinh Bắc và lối ăn chặn bẩn thỉu của đám cường hào, quan lại. Phi Vân viết nhiều thiên phóng sự về đồng quê Nam Bộ như Tình quê, Đồng quê, Dưới đồng sâu, Cô gái quê... Trong đó, Đồng quê là bức tranh tươi tắn, hồn hậu về đất nước con người phương Nam, nhưng cũng không át nổi tiếng rên xiết của người dân Nam bộ trước bọn chủ điền độc ác, xảo trá, dâm ô... Lan Khai - cây bút chủ chốt của nhà xuất bản Tân Dân thành công ở nhiều thể loại. Tiêu biểu cho phóng sự của Lan Khai là tác phẩm Mọi rợ, Một buổi săn đêm
Qua ngòi bút phóng sự của các nhà văn, nhà báo, nông thôn Việt Nam hiện lên không hẳn tươi đẹp, thanh bình mà ẩn bên trong đó là cảnh tiêu điều, đói nghèo, lạc hậu.
Thời kỳ Mặt trận Dân chủ (1936-1939), văn học, báo chí đã phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu với hai bước đột phá quan trọng là hoàn chỉnh về thể loại (ngoài thơ ca thời trước thì nay văn xuôi cũng phát triển), hiện đại về hình thức, nội dung. Mảng hiện thực cách mạng với những cảnh lao tù, khổ sai nhưng đầy ý chí cách mạng được chính các chiến sỹ cách mạng viết và phát hành công khai. Đó là Tết của tù đàn bà, Tù trẻ con của Nguyên Hồng (1937, 1938), Côn Lôn ký sự  của Trần Huy Liệu (Ánh sáng, 1935); Một ngày ngàn thu của Tôn Quang Phiệt (Ánh sáng, 1935) Côn Lôn địa ngục trần gian (1934, 1935) của Nguyễn Văn Nguyễn, Pháp đình trung cổ của Pháp ở Đông dương, Bắc kỳ trong cảnh lầm than dưới sự bảo hộ tốt lành của nước Pháp của Nguyễn Khánh Toàn; Các chị Thân, Ninh, Tạo, Nguyễn đi thăm chồng - một cuộc hội ngộ cảm động cuối năm ở khám lớn Sài gòn (Phóng sự, số 11/1939) của Thúc Tề. Nổi bật nhất là Ngục Kon Tum của Lê Văn Hiến (Sơn Trà xuất bản 1938). Một số phóng sự có tính chất tuyên truyền, vận động, chỉ đạo cách mạng của các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp... đăng trên các tờ Tin tức, Lao động, Nhành lúa, Việt Nam độc lập...
Thể phóng sự ở giai đoạn 1932-1945 còn đi sâu vào một mảng nữa của hiện thực. Đó là ngợi ca cảnh đẹp của quê hương, đất nước. Ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên, ngợi ca nét đẹp văn hoá đậm đà, các trang văn đầy ắp lòng tự hào dân tộc. Ở các phóng sự này, tính chất bút ký chiếm vị trí độc tôn. Tiêu biểu là các tác phẩm: Từ Hà Nội đến hồ Ba Bể - phóng sự nhiều kỳ của Nhật Nham (Tạp chí Tri tân, 1942); Hai tháng ở gò Óc Eo của Biệt Lam Trần Huy Bá (Tạp chí Tri tân, 1944 - 1945), Tôi ăn tết ở Côn Lôn của Khuông Việt (Nam kỳ tuần báo, 1944), Hà tiên du ngoạn của Hồ Biểu Chánh (Nam kỳ tuần báo, 1943); Miền thượng du Bắc kỳ của Ngọc Ước (Nam kỳ tuần báo, 1944); Qua đền Trấn Vũ của Ngọc Nhơn (Nam kỳ tuần báo, 1944); Nam du đến Ngũ Hành sơn của Nguyễn Trọng Thuật (Tạp chí Nam phong, 1933)... Dâng hương đền kiếp của Hoa Bằng và Cách Chi (Tạp chí Tri tân, 1941); Tết Đà Lạt của Trịnh Như Nghê (Tạp chí Tri Ân, 1945); Qua đền Trấn Vũ của Ngọc Nhơn (Nam Kỳ tuần báo, 1944); tự hào về nét văn hoá thanh lịch yêu kiều, của Hà Nội có Hà Nội băm sáu phố phường (Đời nay xuất bản, 1943)của Thạch Lam... Hầu hết những phóng sự viết theo xu hướng này được sáng tác sau năm 1940, khi mà thực dân Pháp thực hiện chính sách kiểm duyệt sách báo và nhiều chính sách đàn áp tàn bạo, hòng dập tắt phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân đang ngày càng phát triển sâu, rộng. Văn học cách mạng rút vào hoạt động bí mật, văn học hiện thực phê phán bị kiểm duyệt gắt gao, các văn sĩ tiến bộ gửi lòng mình vào những thiên phóng sự ngợi ca vẻ đẹp đất nước và con người Việt Nam. Các trang văn thấm đẫm lòng tự hào dân tộc, nhưng đây đó ẩn sâu bên trong là nỗi buồn của những người “muốn đi, nhưng chưa thấy đường sáng mà đi”.   
Thể phóng sự đã được nhiều nhà văn, nhà báo thuộc các khuynh hướng khác nhau khai thác triệt để ở mọi khía cạnh của hiện thực. Các trang viết đầy ắp sự kiện nhưng lại thấm đẫm chất văn chương. Nhìn tổng quan, ta nhận thấy rõ trong 13 năm, phóng sự đã phát triển nhanh chóng và đạt tới đỉnh cao. Phóng sự xuất hiện nhiều và những tác phẩm có giá trị sâu sắc về nội dung, hình thức là những tác phẩm được viết trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, khi tự do dân chủ, tự do báo chí được thực hiện; những tác phẩm viết theo lối bút ký văn học thể hiện lòng tự hào dân tộc phần lớn được sáng tác từ sau năm 40 của thế kỷ XX. Sự bùng nổ có tính chất như một hiện tượng nổi trội này không những có ý nghĩa về số lượng mà còn là cả sự biến đổi về chất lượng, về khả năng bao quát hiện thực của đời sống với những tác phẩm để đời cả về nghệ thuật làm phóng sự cũng như nghệ thuật viết văn chương. Sự phát triển rầm rộ của thể loại phóng sự tuy mới mẻ nhưng đầy sức hấp dẫn này trước thời vận có nhiều biến cố của những năm 30 đầu những năm 40 của thế kỷ trước, là nền tảng vững chắc để hơn năm mươi năm sau phóng sự của thời kỳ đổi mới đất nước ra đời với nhiều tư liệu, nhiều thước phim nóng hổi.
a. Phóng sự với tư cách là tác phẩm báo chí
Nếu xem phóng sự là “con đầu lòng của nghề viết báo” như Vũ Ngọc Phan đã viết trong “Nhà văn hiện đại” thì thành tựu của phóng sự 1932-1945 còn được nhìn nhận như là kết quả của sự phát triển vũ bão của báo chí, được xem là môi trường xã hội rộng lớn, là nhu cầu thiết yếu của đời sống xã hội tinh thần Việt Nam nửa đầu thế kỷ” ([32]). Với tư cách là một thể loại báo chí, phóng sự 1932-1945 trước hết thông tin thời sự về người thật, việc thật trong một quá trình phát triển, đồng thời trả lời những câu hỏi mà hiện thực đặt ra. Chú trọng tới sự kiện khách quan, tôn trọng tính xác thực của đối tượng miêu tả, nhưng khác với các thể ký ở tính thời sự, phóng sự được viết ra nhằm giải quyết những vấn đề mà xã hội đương thời đang rất quan tâm hoặc một vấn đề bức xúc nảy sinh trong xã hội. Người viết phóng sự phản ánh một cách chân thực khách quan vấn đề nổi trội xảy ra đối với một tầng lớp nào đó trong xã hội. Tác giả không chỉ là người quan sát, ghi lại sự thật một cách khách quan mà quan trọng hơn là phải khám phá ra hình thể và cốt cách của sự thật. Đối tượng phản ánh của phóng sự là hiện thực khách quan với tất cả những gì “nóng hổi” đang được xã hội quan tâm. Vũ Ngọc Phan cũng đã từng khẳng định: phóng sự ghi những điều mắt thấy tai nghe có tính cách thời sự. Trong Từ điển thuật ngữ văn học, các nhà lí luận đã định nghĩa phóng sự và nhấn mạnh tính chất điều tra, ghi chép sự thật của phóng sự. Tác giả cuốn Viết báo như thế nào còn cho biết: “Trong quá trình phản ánh hiện thực, nó không thể thoát ly khỏi những yêu cầu cơ bản đối với bất cứ một tác phẩm báo chí nào, đó là yêu cầu phản ánh những con người, sự việc sự kiện, hoàn cảnh tình huống... có thật tiêu biểu... Người viết phóng sự không được phép tuỳ tiện bóp méo những sự thật được tái hiện trong tác phẩm của mình và không được hư cấu, bịa đặt...” ([33]). Tam Lang - người từng được giới nghiên cứu coi là “ông tổ” của nghề viết phóng sự ở Việt Nam đã nhắc lại lời ông chủ Ngọ báo - Bùi Xuân Học trong đầu tác phẩm Tôi kéo xe - 1932 như là lời tuyên ngôn cho cách viết báo hiện đại: “Anh có ngòi bút viết văn tả chân khéo, bây giờ đang là mùa các bạn đồng nghiệp của anh đi khắp bốn phương điều tra, phỏng vấn ... mà anh thì lúi húi ở nhà với ba bài văn sầu cảm, sao không ném bút đi xem người cho sáng thêm con mắt, có hơn không” ([34]). Lời tuyên ngôn cho cách viết báo của Tam Lang như là phương pháp luận viết báo đương thời và cũng chính là lời huấn thị cách làm phóng sự. Tiếp sau Tam Lang là Nguyễn Đình Lạp, Thạch Lam, Vũ Bằng, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố... Các tác phẩm của những cây bút trên ắp đầy cái gấp gáp của cuộc sống. Mỗi tác giả đều thể hiện ưu thế vượt trội của mình qua cách lựa chọn sự kiện của hiện thực cuộc sống, lấy hơi thở hiện thực làm nhựa sống cho sáng tạo của mình. Nguyễn Đình Lạp - một thanh niên tiểu tư sản sống giữa đất Hà Thành đau đớn trước cảnh truỵ lạc, ăn chơi sa đà của lớp người trẻ tuổi vào buổi Tây - Ta, giả - thực lẫn lộn trong Thanh niên truỵ lạc; thương cảm với cuộc sống lam lũ, bần hàn của tầng lớp dân nghèo ngoại ô qua Ngoại ô, Ngõ hẻm. Bức tranh nóng bỏng dòng máu của hiện thực đời sống với những con người và sự việc xác thực được thể hiện trong các phóng sự để đời của Vũ Trọng Phụng là những nét tiêu biểu cho mặt trái của xã hội Âu hoá giở chừng, Âu hoá lem nhem. Đó là những mánh khoé làm tiền của các me Tây trong Kỹ nghệ lấy Tây, làng “bịp” của giới ăn chơi Hà thành trong Cạm bẫy người. Sự nhức nhối của xã hội bởi nạn mãi dâm ngày càng gia tăng qua Lục xì; sự tha hoá của những người theo con đường di dân kiếm sống từ nông thôn ra thành thị qua Cơm thầy cơm cô ... Tất cả như một thứ ung nhọt nhức nhối làm băng hoại giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Sinh ra từ một làng quê nghèo Lộc Hà, hiện thực xác xơ của cuộc sống làng quê vùng Trung du Bắc Bộ đã tràn vào tác phẩm của nhà Nho “đầu xứ Tố”. Các phóng sự của ông đều rất đặc sắc khi viết về những hủ tục nặng nề xảy ra thường ngày ở một làng quê nhỏ bé, trong hàng ngàn làng quê đất Việt của thời cuộc cá lớn nuốt cá bé, trong buổi xế tàn của xã hội thực dân nửa phong kiến. Hủ tục không chỉ xảy ra ở phạm vi cái cổng làng mà còn là nỗi nhức nhối của cả xã hội.
Có thể khẳng định rằng, với tư cách là một tác phẩm báo chí, phóng sự 1932-1945 tuy không khởi nguồn từ hư cấu và trí tưởng tượng nhưng bù lại, nó có được tính xác thực, tính thời sự và tính xã hội chính trị thể hiện qua thái độ lựa chọn và lập trường của tác giả trước các vấn đề. Ở ký trung đại, tác giả là người đứng ngoài sự kiện, ghi chép sự kiện một cách thụ động, lệ thuộc vào sự kiện, có thế nào, ghi thế đó hoặc chạy theo sự kiện theo kiểu biên niên sử. Còn ở phóng sự 1932-1945, tác giả chủ động tham gia vào sự kiện, tự do lựa chọn sự kiện. Tác giả phóng sự có quyền tự do bộc lộ chính kiến, giãi bày cảm xúc chủ quan của mình. Người viết phóng sự có thể tự tìm cho mình một cách tiếp cận bản chất sự kiện, một phương pháp mô tả, biểu hiện riêng, một thái độ riêng trước hiện thực. Đó chính là cái tôi trần thuật của tác giả. Cái tôi lý trí, giàu lí lẽ và trong chừng mực nào đó còn sử dụng sức mạnh của cảm xúc thẩm mỹ. Trong từng hoàn cảnh cụ thể, căn cứ vào tầm quan trọng và tính chất của sự kiện, con người và đối tượng phản ánh, người viết phóng sự phải lựa chọn cách viết sao cho hợp lý. Ngoài kinh nghiệm làm báo giản đơn, lúc đầu là ghi chép sự thật, sau đó là điều tra, khám phá đưa những điều “lắt léo” ra ánh sáng nhằm thoả mãn nhu cầu của công chúng thì quan điểm của chủ thể sáng tạo giữ vai trò quyết định tạo ra những giá trị cho tác phẩm. Tác giả - nhà báo không chỉ đơn giản ghi lại sự thật mà còn phải là người khám phá, diễn tả được bản chất bên trong của sự thật. Thái độ của tác giả trong phóng sự phải là thái độ nhập cuộc, biết nhận xét, đánh giá, bày tỏ thái độ, chứ không phải chỉ là người quan sát, ghi chép đơn thuần.  
Khác với các thể loại báo chí khác cùng xuất hiện lúc bấy giờ trên các trang báo như đưa tin nhanh về vấn đề nào đó trong xã hội lúc bấy giờ (đưa tin về các cuộc đua ngựa, về các thuốc chữa bệnh lậu, giang mai, về các hội chợ được tổ chức ở Đồ Sơn, Hà Nội; quảng cáo về thuốc, quần áo, sữa... trên các trang báo) hoặc những lời bàn luận về báo chí thời cuộc của Lê Ta, Thạch Lam... thì phương thức tiếp cận hiện thực của các cây bút phóng sự 1932-1945 lại là việc lựa chọn sự kiện. Nếu Vũ Ngọc Phan cho rằng “Phóng sự là đứa con đầu lòng của nghề viết báo”, thì chính khả năng nắm bắt nhanh nhạy thời cuộc, nhãn quan cảm nhận hiện thực của người làm báo đã giúp các cây bút phóng sự có cách lựa chọn sự kiện, nhìn nhận sự kiện dưới góc nhìn khác nhau. Sự kiện trong phóng sự 1932-1945 là sự kiện trong một khoảnh khắc nhất định nào đó, nhưng cũng là sự kiện của cả cuộc đời một con người. Thông qua sự kiện để phản ánh hiện thực có bề dày và chiều sâu dưới dạng “một bức tranh nóng bỏng hơi thở của đời sống hiện thực với những con người và sự việc xác thực” ([35]). Sự kiện trong phóng sự là vấn đề nổi bật trong đời sống chứ không phải bê nguyên hiện thực vào trang viết. Trong phóng sự 1932-1945, sự kiện được lựa chọn là những thước phim hiện thực nóng hổi với những vấn đề nhức nhối như nạn mại dâm, tệ cờ bạc, hủ tục lạc hậu, hà khắc nơi thôn quê, cuộc sống khốn khó của người dân nghèo thành thị, sự lưu manh hoá của người dân quê... tất cả như là lời cảnh báo bởi một xã hội đang băng hoại về lối sống và đạo đức.
Phản ánh, tiếp cận sự kiện dưới hình thức một bức tranh nóng hổi với những con người xác thực, phóng sự 1932-1945 mong muốn giải quyết những câu hỏi mà hiện thực lúc bấy giờ đặt ra. Đó là hiện tượng cờ gian bạc bịp, đĩ điếm, sự biến chất của người lương thiện, hủ tục nặng nề của thôn quê... phải chăng tất cả đều là sản phẩm một thời của chính xã hội - thời điểm của những mâu thuẫn xã hội đã gần lên tới đỉnh điểm, thời điểm của phong trào Âu hoá nửa vời, là mối quan tâm của các nhà cải cách xã hội. Các tác giả phóng sự lách ngòi bút vào cả những chỗ ngóc ngách của sự kiện, phơi bày bản chất bên trong của sự kiện một cách công phu qua những luận cứ gây ấn tượng với những chi tiết sinh động đầy ắp tính thời sự mà chính tác giả quan sát, thu thập, điều tra, tổng kết, dẫn dắt độc giả. Lục xì của Vũ Trọng Phụng là kết quả của cả một quá trình lao tâm khổ tứ: yêu cầu viết bài của chủ báo... (bài đăng ở kỳ này lại lo ra tiếp kỳ sau); sự “xảo trá” trong nghề nghiệp để vào được nhà lục xì; sự học, đọc cần mẫn mớ tài liệu của bác sỹ Joyeux, sự tìm hiểu nguồn gốc “tổ tiên” của nghề mãi dâm; cách dạy vệ sinh phòng bệnh cho gái mại dâm của các phúc đường, số liệu nạn mại dâm..., nhà báo Vũ Trọng Phụng đã hầu như giở hết “các ngón nghề” báo chí của mình ra để viết thiên phóng sự. Viết Cạm bẫy người, Vũ Trọng Phụng phải đóng vai một con bạc - bạn của trùm bạc, bước chân vào làng “bạc bịp”. Viết Kỹ nghệ lấy Tây, tác giả trực tiếp dấn thân, chứng kiến sự việc, sự kiện và tổ chức toàn bộ nội dung tác phẩm. Cùng với Vũ Trọng Phụng là Nguyễn Đình Lạp, Ngô Tất Tố, Trọng Lang, Tú Mỡ, Trần Tiêu... họ đều là những nhà báo, chứng kiến sự kiện, lấy sự kiện làm trung tâm thể hiện của phóng sự. Sự khác nhau giữa các cây bút là ở sự lựa chọn góc cạnh của hiện thực. Nhưng điểm chung của các cây bút là ở góc độ, chỗ đứng của người viết (chứng kiến sự kiện) trong tác phẩm của mình. Thể hiện hơi thở của cuộc sống một cách hiện thực, nóng bỏng, khách quan, phóng sự 1932-1945 khác với thể loại báo chí cùng thời khác như điều tra, đưa tin, ghi nhanh... ở phương thức tiếp cận hiện thực, ở cách thức phản ánh hiện thực. Tính thâm nhập vào hiện thực của người viết đã đem lại chất lượng thông tin cho những vấn đề mà họ đưa ra trong phóng sự.
Với tư cách một tác phẩm báo chí, lấy hiện thực làm đối tượng phản ánh, nhưng khác với các thể loại báo chí khác (thuộc báo in), phóng sự có thế mạnh là lột tả bản chất của sự kiện thông qua những chi tiết sống động mà bản thân người viết đã quan sát, thu thập được để công chúng có thể hình dung về sự kiện một cách sống động như chính họ được trực tiếp chứng kiến. Điều này được thể hiện một loạt trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng như những trang viết về cách săn “mòng”, các mánh khoé đổi vận đỏ đen; gọi tên, miêu tả rõ những ngón bịp của xóc đĩa: “Nào là đòn bút lò xo, nào là đòn nam châm, nào là đòn thuỳ châu, thôi thì đủ thiên hình vạn trạng” ([36]); trong các tác phẩm của Ngô Tất Tố lại là cách mua ghế, chiếm chỗ, mua danh, bán chức sắc trong làng...
Khảo sát phóng sự 1932-1945 có thể thấy rõ rằng, bên cạnh khả năng khám phá, phơi bày hiện thực, phóng sự còn có khả năng đi sâu vào những vấn đề riêng tư trong đời sống cũng như trong tâm thức của các nhân chứng, dựng dậy chân dung các nhân chứng một cách rõ rệt (hình ảnh ông Ấm B., bà Kiểm Lâm, bọn cơm thầy cơm cô­­­­­­ trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng; hình ảnh lưu manh hoá của lớp người từ nông thôn ra thành thị do bị cuộc sống xô đẩy trong các tác phẩm của Trọng Lang, hình ảnh dân nghèo thị thành của Nguyễn Đình Lạp...).
Dù khám phá phơi bày hiện thực một cách rất riêng, rất “ưu thế”, nhưng được đăng thường nhật, công khai trên các báo ngày, báo tuần, dưới sự kiểm duyệt của thực dân Pháp, tác giả phóng sự lại là những trí thức Tây học sống bằng nghề viết báo chuyên nghiệp... cho nên hầu hết các phóng sự 1932-1945 được viết ra bởi cái nhìn khách quan của tác giả trước hiện thực; phóng sự định hướng cho xã hội, cho các nhà cầm quyền thấy được một số vấn đề nghiêm trọng trong xã hội, với mong muốn sâu xa cải tạo xã hội. Trong tác phẩm, tác giả không thể hiện trực diện thái độ yêu ghét sâu sắc, đậm nét trước hiện thực đó (ngoại trừ các phóng sự của các nhà chiến sỹ cách mạng). Yếu tố khách quan, xu hướng lấy những hình mẫu có thực ngoài đời, chỉ nói đến hiện thực xảy ra trong xã hội, lấy hơi thở của cuộc sống làm chất liệu là định hướng sáng tác chủ đạo trong các phóng sự 1932-1945.
Với tư cách một tác phẩm báo chí, phóng sự 1932-1945 mang đặc trưng của thể loại báo chí, nhưng nhân chứng (tác giả - trực tiếp chứng kiến sự kiện) trong phóng sự có bản sắc hơn, được tái hiện sinh động hơn. Điều kiện xã hội lúc bấy giờ, với lớp nhà báo chuyên nghiệp sống chết vì nghề và làm báo đạt đến trình độ cao đã để lại cho nền báo chí còn non trẻ Việt Nam lúc đó những phóng sự đầy giá trị.
b. Phóng sự với tư cách là tác phẩm văn chương
Như đã nói ở phần trên, sự thật là đối tượng, cũng là mục đích phản ánh của tất cả thể loại báo chí. Sự khác nhau giữa các thể loại báo chí chính là ở phương thức chiếm lĩnh, phương diện phản ánh hiện thực, từ những góc nhìn khác nhau của các tác giả. Là một trong những thể loại hạt nhân, cơ bản của thể báo chí, phóng sự 1932-1945 mang đầy đủ đặc điểm của báo chí, nhưng với phương thức chiếm lĩnh hiện thực, diễn tả hiện thực một cách vừa chi tiết, sinh động vừa khái quát (đề cập đến những vấn đề lớn mang tính chất xã hội học), vừa có chỗ đứng cho vai trò người dẫn chuyện (sự xuất hiện trực tiếp của tác giả), phóng sự đã đem luồng sinh khí mới cho thông tin thời sự khô khan bằng cách viết linh hoạt, việc sử dụng ngôn ngữ sinh động, giàu hình ảnh. Ngôn từ trong một số phóng sự 1932-1945 mang yếu tố hàm ẩn, đa nghĩa. Chính với phương thức chiếm lĩnh hiện thực này, phóng sự 1932-1945 đã phá vỡ khuôn khổ của thể loại báo chí.
Nếu so với các thể loại báo chí đương thời lúc đó như tin nhanh, tin, các dạng bút ký chính luận, bình luận về thời cuộc, các bài viết chân dung về các ông thống sứ... thì phóng sự 1932-1945 có dung lượng lớn hơn hẳn. Một bài báo mô tả về một hội chợ (Hội chợ Hà Nội 1936 của Thạch Lam in trên báo Ngày nay ra ngày chủ nhật 6/9/1936); hay những mẩu thông tin về các mặt hàng được thiếu nữ tân thời ưa chuộng trong các báo Ngày nay, Phong hoá… đều có dung lượng ngắn vài chục từ hoặc một cột báo. Nhưng phóng sự thời kỳ này thường có dung lượng nhiều nghìn từ (Lục xì của Vũ Trọng Phụng dài tới 106 trang in; Ngoại ô của Nguyễn Đình Lạp dày dặn trên 140 trang...). Cùng với đó, ngôn ngữ trong phóng sự 1932-1945 tuy là ngôn ngữ của đời thường nhưng được sử dụng trau chuốt với giọng điệu mềm mại, sinh động, câu văn dài mượt mà khác hẳn với câu văn ngắn gọn; cách dùng từ gọi đúng tên sự kiện như tin và các thể loại báo chí khác. Điều này thể hiện rõ trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Đình Lạp, và nhiều phóng sự miêu tả phong cảnh, tập quán phong tục đất nước... Tác phẩm phóng sự có thể bố cục 3 phần rõ ràng như các thể loại báo chí khác, nhưng vấn đề phóng sự đưa đến ở mức khái quát cao hơn, có tính chất xã hội cao hơn và có thể ẩn vào một hệ tư tưởng nào đó. Thể loại tin, đưa tin về những sự việc xảy ra một cách tức thì, cơ động, tác động ngay vào nhận thức lý tính của độc giả. Phóng sự phản ánh sự kiện hiện thực đó bằng cách tìm hiểu nguyên nhân phát sinh sự kiện, diễn tả sự kiện với vô vàn mâu thuẫn ở bên trong (thời điểm đỉnh cao trong quá trình phát triển của sự kiện) và cuối cùng là những giải pháp, kiến nghị của chính tác giả đối với hiện tượng xã hội đó.
Với đặc trưng phản ánh hiện thực dưới dạng một bức tranh toàn cảnh, phóng sự được phép mở rộng tầm quan sát đời sống một cách sinh động, nhưng phải trong khuôn khổ người thực, việc thực, không thể tuỳ tiện xây dựng nhân vật với những chi tiết hư cấu như trong văn học. Vì vậy để có những tác phẩm hay, thuyết phục người đọc, người viết phóng sự không chỉ đưa ra những con số điều tra, trần trụi khô cứng mà phải phản ánh hiện thực qua cách viết giàu hình ảnh. Phóng sự không được phép hư cấu, tưởng tượng ra hình ảnh, sự kiện mà buộc phải phản ánh hiện thực qua những biến cố điển hình chọn lọc, kể cả những suy nghĩ nội tâm của nhân vật. Những tác phẩm có giá trị là những tác phẩm lựa chọn được những sự kiện có tính chất điển hình, với cách viết giàu cảm xúc thẩm mỹ của tác giả. Kinh nghiệm, quan điểm của chủ thể sáng tạo giữ vai trò tạo ra những tác phẩm có giá trị. Sự việc, sự kiện trong phóng sự được diễn tả từ quá trình phát sinh, phát triển, đến việc đưa ra những giải pháp cho những vấn đề nổi trội cần giải quyết. Vì vậy trong phóng sự, sự kiện được đề cập một cách kịp thời, đa diện (yếu tố của ghi nhanh), nhưng nhân vật lại có thật với những tính cách, hình mẫu nguyên bản (yếu tố của ký chân dung).
Trong phóng sự 1932-1945, sự kiện, hiện thực xót xa của xã hội không đi vào phóng sự một cách thờ ơ, lạnh nhạt đúng với hình thức bên ngoài của nó mà ẩn bên trong đó là yếu tố cảm xúc chủ quan của tác giả chi phối kết cục tác phẩm. Nhãn quan tình cảm, nhận thức thẩm mỹ của tác giả chi phối đến giá trị tác phẩm phóng sự; chi phối mục đích viết phóng sự, viết cho ai? viết để làm gì...? Đôi lúc yếu tố cảm xúc chủ quan của tác giả lấn lướt yếu tố khách quan đã sản sinh ra nhiều đoạn phóng sự hay đầy triết lý nhân sinh của chính tác giả: “Ấy thế rồi tôi đâm ra khinh tất cả loài người, vì tôi tin rằng không một ai trong bọn chúng ta lại trông rõ được thực trạng cuộc đời. Thật vậy, không bao nhiêu sách vở của loài người, cốt để dạy cho nhau biết mà thôi, vậy mà vẫn công toi cả... văn chương là một sự, sự đời là một sự khác. Rồi tôi cảm thấy muốn làm một nhà xã hội học, một nhà tâm lý... và một kẻ đi ở thì cũng biết rõ những tính tình của loài người hơn là một nhà văn sĩ tả chân”([37]). Chính yếu tố cảm xúc đã khiến Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đình Lạp... xây dựng được những hình tuợng nhân vật điển hình cho tác phẩm. Chân dung ông ấm B. trong Cạm bẫy người của Vũ Trọng Phụng đã trở thành hình tượng nghệ thuật điển hình với những tính cách điển hình tốt - xấu. Theo chân gia đình bác Vuông trong Ngoại ô, Ngõ hẻm, tác giả Nguyễn Đình Lạp buồn vui cùng số phận nhân vật, để rồi cuối tác phẩm là sự ngậm ngùi, xót xa cho thân phận con ong, cái kiến, nhọc nhằn của dân nghèo ngoại ô. Tác phẩm được viết bằng giọng điệu đầy chất văn chương.
Trong nhiều tác phẩm, hiện thực cuộc sống đi vào các trang sách qua cảm xúc của người sáng tác đã trở thành những kiệt tác phóng sự với khả năng bao quát, phản ánh sự kiện thông qua nhân vật được khái quát thành hình tượng. Đọc Cạm bẫy người của Vũ Trọng Phụng, người đọc được dẫn dắt và chú ý ngay tới ông ấm B., cảm nhận sự lừa lọc đã trở thành một “ngón nghề” điêu luyện để rồi ngay lập tức lại trở về với vấn đề “nhức nhối”- tệ nạn cờ bạc đã tràn lan ngoài xã hội. Những lời bình phẩm, thái độ của tác giả đối với hiện thực thể hiện trong tác phẩm lại là triết lý sống ở đời. Cũng trong phóng sự 1932-1945, đôi khi tác giả lại thể hiện tư tưởng nhân văn trước thế thái tình đời.
 Chỉ cần xét đến dung lượng tác phẩm, phương thức phản ánh hiện thực, với khả năng lôi cuốn người đọc bằng bút pháp ngôn từ và sự hành trình đầy cảm hứng của cái tôi giàu lý tính, giàu cảm xúc trong phóng sự thì cũng thấy được sự phá vỡ khuôn khổ thể loại báo chí của phóng sự 1932-1945 và thêm vào đó là tư cách một tác phẩm văn chương.
c. Phóng sự - sản phẩm giao duyên giữa báo chí và văn học đầu thế kỷ XX
Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX được coi là mốc quan trọng đánh dấu sự xuất hiện, phát triển của báo chí và văn học Việt Nam hiện đại. Sự tin dùng chữ quốc ngữ của các trí thức Việt Nam đã khiến các sản phẩm tinh thần của họ là báo chí, văn học phát triển và cũng chính từ sự phát triển của nền báo chí, văn học mới đã giúp vốn từ vựng, phong cách ngữ pháp, văn phong tiếng Việt ngày càng phong phú, sinh động hơn. Tầng lớp trí thức cuối thế kỷ XIX như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của... đã sử dụng chữ quốc ngữ trong các sáng tác báo chí, văn học. Trương Vĩnh Ký là người chủ trương đưa chữ quốc ngữ lên mặt báo với tờ Gia Định báo (số đầu tiên xuất bản ngày 15/ 4/ 1865). Tiếp sức cho các ông là những cây bút như Phan Khôi, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Hoàng Tích Chu... Nhưng phải đến những năm 20 của thế kỷ XX, với sự thâm nhập mạnh mẽ của báo chí phương Tây vào Việt Nam, với sự “thừa hưởng” thành quả của khoa học công nghệ ở chính quốc - công nghệ in ấn, thì chữ quốc ngữ mới được dùng nhiều trong sáng tác báo chí, văn chương. Sự xuất hiện của công nghệ in ấn cùng với việc chữ quốc ngữ được truyền bá rộng rãi khiến báo chí phát triển. Trong giai đoạn này, bên cạnh việc đăng tải các bản tin thường nhật, báo chí còn đóng vai trò “bà đỡ” cho văn học phát triển. Hầu hết các tác phẩm văn học như tiểu thuyết, thơ, truyện ngắn, tản văn... đều được đăng trên các tờ Ngày nay, Phong hoá, Đông dương tạp chí, Hà Nội báo... Và sau này, khi các nhà xuất bản ra đời, tác phẩm văn học mới được tập hợp lại in thành sách. Cùng công nghệ in là hoạt động của mạng lưới bưu điện, hiệu sách, toà soạn báo, nhà xuất bản... tất cả là những tác nhân quan trọng làm diễn đàn báo chí, văn học từ những năm 1932 trở về sau phát triển. Thời kỳ Mặt trận Dân chủ 1936-1939, dân chủ hoá đời sống báo chí, văn học được thực hiện, báo chí tiến bộ cùng với báo chí cách mạng phát triển rầm rộ khắp Bắc Trung Nam. Theo thống kê của Pháp thì ở Việt Nam:
“- Năm 1937 có 110 tờ nhật báo, 159 kỷ yếu và tạp chí
- Năm 1938 có 128 tờ nhật báo, 160 kỷ yếu và tạp chí
- Năm 1939 có 128 tờ nhật báo, 170 kỷ yếu và tạp chí” ([38]).  
Báo chí phát triển trở thành hàng hoá bày bán ở các hiệu sách báo, sạp báo ngoài đường, làm xuất hiện một lớp người chuyên sống bằng nghề viết lách - nhà văn, nhà báo. Tầng lớp này ngày càng đông đảo. Họ là những người học tiếng Pháp, biết chữ quốc ngữ, hoặc từ bỏ “ bút lông” tung hoành “ bút sắt”. Họ sáng tác bằng tất cả tâm lực và trí lực trên mọi lĩnh vực báo chí, văn học, dịch thuật, khảo cứu... Họ vừa là nhà văn, vừa là nhà báo. Chính mối quan hệ đặc biệt giữa nhà văn, nhà báo giữa văn học và báo chí ngay từ khi ra đời đã tạo nên tình trạng giao thoa, thâm nhập mạnh mẽ trên phương diện sáng tạo, nhất là trên lĩnh vực ngôn ngữ và các thủ pháp nghệ thuật giữa “văn” và “báo”. Xuất hiện trong hoàn cảnh như thế, với tư cách của một thể báo chí đặc sắc, phóng sự 1932-1945 là nơi thể hiện tập trung nhất, bản chất nhất sự giao duyên giữa văn học và báo chí.
Giai đoạn 1932-1945, phóng sự phát triển mạnh với nhiều nội dung bởi các yếu tố: phong trào cách mạng phát triển mạnh; sự dồn nén lâu ngày của các mâu thuẫn trong xã hội thực dân nửa phong kiến; sự tha hoá về lối sống; sự xuống cấp của đạo đức xã hội bởi phong trào Âu hoá ồ ạt; sự giao lưu văn hoá; sự phát triển của chữ quốc ngữ... Tất cả tác động vào thế giới quan nhà văn - nhà báo. Bám sát những đề tài đa dạng và rất đời thường, sự kiện trong các phóng sự của Vũ Trọng Phụng có tính chất điển hình, tiêu biểu cho nạn cờ bạc, tệ đĩ điếm, một nghề mà chưa ở đâu công nhận là “nghề lấy Tây”, rồi chuyện người nông dân bỏ ruộng vườn, làng mạc kéo nhau ra thành phố để “tìm đến một cái chết khác”... Tính thời sự của hiện thực tràn vào trong trang sách của Vũ Trọng Phụng thật sống động. Cả xã hội thành thị hiện lên nhốn nháo trong tác phẩm với những con người bằng xương, bằng thịt và bước ra khỏi tác phẩm để rồi trở thành điển hình cho một lớp người tồn tại thực ngoài xã hội. Tính định hướng trực tiếp của tác giả trong các thiên phóng sự  Cạm bẫy người, Một huyện ăn tết, Kỹ nghệ lấy Tây (cảnh tỉnh xã hội, đánh thức thiên lương còn sót lại...), qua những trang viết đầy cảm xúc, qua sự phân trần, bộc bạch của “cái tôi” tác giả cùng những hình ảnh nhân vật đạt đến trình độ hình tượng đã day dứt độc giả có lương tâm, có trách nhiệm. Đây là kiểu kết thúc rất văn chương của tác phẩm phóng sự. Bên cạnh đó, đời sống riêng tư, lẽ sống của những con người, những nhân vật trong phóng sự mà Vũ Trọng Phụng muốn dùng để “tô điểm” cho sự kiện chính trong tác phẩm cũng đã đưa phóng sự của Vũ Trọng Phụng bước sang lĩnh vực phát triển cao của nghệ thuật văn chương - tiểu thuyết, với các phóng sự tiểu thuyết nổi tiếng như Cạm bẫy người, Cơm thầy cơm cô, Một huyện ăn tết. Cùng với Vũ Trọng Phụng là các nhà báo cự phách trong làng báo như Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố, Lộng Chương, Thiếu Sơn, Nguyễn Đình Lạp, Thạch Lam... Sản nghiệp văn chương, báo chí của họ giai đoạn này đều có hiện tượng “văn báo bất phân”. Trong số những nhà văn, nhà báo viết phóng sự, tác phẩm phóng sự của Ngô Tất Tố là những bằng chứng sinh động cho kết quả của sự giao duyên giữa văn học và báo chí. Năm 1935, Ngô Tất Tố viết hai truyện lịch sử là Lịch sử Đề Thám, Những trận đổ máu thì cũng cuối năm đó ông cho ra đời phóng sự Dao cầu thuyền tán. Trong quá trình sáng tác, khi thì ông làm việc của nhà biên khảo, khảo cứu, khi viết tiểu thuyết, truyện lịch sử, chen lẫn viết phóng sự. Vì thế, trong sáng tác của ông, từ tạp văn, tiểu phẩm, phóng sự đến tiểu thuyết... vừa có giá trị báo chí, vừa có giá trị văn học. Đó là những sự việc, những con người dưới bút pháp nghệ thuật phong phú, linh hoạt, châm biếm sắc sảo đã trở nên điển hình hoá. Các phóng sự của ông đề cập đến các vấn đề điển hình của xã hội thực dân nửa phong kiến.
Bên cạnh những phóng sự tập trung ngòi bút vào mặt trái của xã hội, các phóng sự có nội dung ngợi ca phong tục tập quán văn hoá - xã hội của dân tộc, ghi chép về những danh thắng lịch sử- văn hoá của đất nước cũng đều là những trang viết tả cảnh, tả tình, chất chứa lòng tự hào dân tộc và thấm đẫm tính văn chương bởi cách viết mượt mà, bay bổng giàu cảm xúc: “Những ánh nắng vàng yếu ớt mới đây còn rung rinh rỡn đùa trên những vòm cây nội cỏ đã tắt dần để nhường chỗ cho bóng tối phủ dần cảnh vật. Thành phố đã lên đèn... Đà Lạt thật là một nơi thần tiên” ([39]).
Ranh giới mỏng manh giữa báo chí và văn học, giữa phóng sự với tiểu thuyết, tiểu thuyết với phóng sự đã tạo sức hấp dẫn mãnh liệt cho phóng sự Việt Nam 1932-1945. Đến nay, những tác phẩm đó vẫn là thước phim nóng hổi về sự biến chuyển của xã hội Việt Nam trong buổi giao thời trên các lĩnh vực chính trị - văn hoá - xã hội.
Tính chất thâm nhập, đan xen vào nhau của báo chí và văn học trong một tác phẩm phóng sự là sản phẩm của sự giao duyên giữa văn học và báo chí giai đoạn 1932-1945, là kết quả tất nhiên của qui luật xuất hiện và phát triển song tồn nhưng còn non trẻ của báo chí và văn học Việt Nam hiện đại đầu thế kỷ XX.
Theo các nhà nghiên cứu lý luận văn học thì sự thâm nhập, giao thoa này không chỉ có riêng ở phóng sự mà xảy ra trên tất cả các thể tài văn học và báo chí lúc bấy giờ. Đương thời cả nhà văn, nhà báo, độc giả đều không có ý niệm về những đặc trưng của từng thể loại, chưa thấy được sự giống và khác nhau của hai hình thái ý thức - xã hội đặc thù này và đôi khi chủ quan của họ cũng chưa cần tới sự phân biệt này. Bên cạnh đó, ngành lí luận phê bình lúc đó lại quá non trẻ, chưa phân định được rạch ròi các thể loại. Trên hầu hết các tờ báo Ngày nay, Phong hoá, Phụ nữ tân văn, Đông dương tạp chí, Nam phong tạp chí..., tỷ lệ bài về thể tài văn học lại nhiều hơn bài viết về chính trị - xã hội. Giữa các tác phẩm văn chương và tác phẩm báo chí chưa có sự phân định rạch ròi nên ở những thể loại ráp ranh giữa văn và báo của ký tự sự thì sự mập mờ ở trong những tiểu thể loại như phóng sự, ký sự, hồi ký... là điều không tránh khỏi. Sự không phân định rạch ròi này thể hiện ở phương diện đề tài, phương diện thể loại và cả trên phương diện ngôn ngữ. “Ông vua phóng sự đất Bắc” lấy đề tài về mặt trái của xã hội đô thị đương thời cho tác phẩm phóng sự thì đồng thời cũng lấy đó làm tài liệu sống cho các tiểu thuyết Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê... cho nên chất văn trong tiểu thuyết cũng ùa vào phóng sự. Trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, người ta cũng nhận ra các con số điều tra, sự kiện, năm tháng cụ thể, những “cứ liệu” biết nói của phóng sự. Do vậy, quá nửa số phóng sự của Vũ Trọng Phụng được xếp vào diện phóng sự tiểu thuyết. Ngô Tất Tố, Nguyễn Đình Lạp... cũng vậy. Chất liệu về đời sống thôn quê khổ cực cùng với những hủ tục lạc hậu đến với tiểu thuyết Tắt đèn, cũng vào cả phóng sự Tập án cái đình, Việc làng... Về phương diện ngôn ngữ, trong các tác phẩm phóng sự cũng có sự nhập nhằng, giao thoa, giữa ngôn ngữ của báo chí và ngôn ngữ văn học. Thứ ngôn ngữ giàu tính hình tượng, giàu khả năng gợi cảm, biểu cảm với thứ ngôn ngữ mang tính định lượng, cụ thể, rõ ràng và khuôn mẫu... Không riêng gì phóng sự mà trong các thể loại thuộc lĩnh vực báo chí - văn học đều có sự giao duyên giữa ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ báo chí. Trong phóng sự Tập án cái đình, Việc làng, Non nước Cao Bằng... của Ngô Tất Tố có sự kết hợp giữa ngôn ngữ chính xác, giàu tính chất luận lý với thứ ngôn ngữ giàu tính hình tượng, sinh động của văn chương.
 Chất báo trong phóng sự 1932-1945 kín đáo núp vào hình thức văn chương đã thu hút được số đông độc giả, kể cả những người say mê các câu chuyện văn chương ly kỳ, mượt mà và những người thích các vấn đề thời sự nóng bỏng. 
d. Phóng sự có mối liên hệ mật thiết với các thể ký
 Mối quan hệ mật thiết giữa phóng sự 1932-1945 với thể ký sự trong văn xuôi trung đại Việt Nam và các thể ký trong văn xuôi hiện đại Việt Nam xuất phát từ bản chất bên trong của đối tượng phản ánh, nội dung tư tưởng, phương thức, nghệ thuật phản ánh.
Phóng sự và ký sự đều thuộc thể loại ký tự sự. Ký sự dùng để ghi lại sự việc, hiện tượng một cách khách quan, trung thực và ít có sự bình luận, phân tích sự kiện của tác giả. Có nhiều cách viết ký: có thể là cách ghi chép tỷ mỉ, cụ thể sự kiện trong một khoảng thời gian nhất định, nhưng cũng có thể là ghi chép lại những nét lớn của sự việc mà chính tác giả tự coi đó là những sự việc có sức khái quát lớn, có ý nghĩa xã hội. Phôi thai từ văn học chức năng, đến thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, ký sự trung đại Việt Nam phát triển và được coi là một thể loại văn học. Mở đầu cho cách ghi chép xác thực này là tác giả Vũ Phương Đề với Công dư tiệp ký (năm 1755). Tiếp sau tác giả họ Vũ là Ngô Thì Sĩ (1726-1780), Lê Quí Đôn (1726-1784), Lê Hữu Trác. Qua cách ghi chép những cái “quan sát rất thực”, Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác (1782) thể hiện đậm nét “cái tôi” tác giả - con người giàu lòng vị tha nhưng thờ ơ với danh lợi. Sau Lê Hữu Trác, nổi lên ký ghi chép của Phạm Đình Hổ: Vũ trung tuỳ bút Tang thương ngẫu lục (viết chung với Nguyễn Án). Đây là những ghi chép, hồi ức về thuở chưa loạn lạc, có giá trị nghệ thuật cao. Công thần Nguyễn Án Phủ sử truyện (1792) của Nguyễn Bá Xuyến ghi chép “người thực, việc thực” nhưng lại dựng được khá trung thực, rõ nét tình trạng rối ren của xã hội Bắc Hà cuối thế kỷ XVIII và những cuộc giao tranh cuối cùng giữa Nguyễn Ánh với Tây Sơn. Ở những tác phẩm viết về thiên nhiên, con người và xã hội, ngòi bút của tác giả đậm chất văn chương và tính chất “sự thực việc thực”, nên ngoài giá trị mở rộng kiến thức cho người đọc còn gợi cho họ những cảm xúc thẩm mỹ (Thượng kinh ký sự, Vũ trung tuỳ bút…) về những con người nguyên mẫu trong lịch sử, với những địa danh, mốc thời gian và không gian lịch sử. Mặc dù yếu tố sử chiếm vị trí chủ đạo nhưng đã mang trong đó yếu tố văn.
Đối tượng phản ánh của ký trung đại là hiện thực khách quan, là những sự kiện lịch sử, những sự việc gặp trên đường đi và càng về sau nội dung tư tưởng càng thể hiện rõ trong tác phẩm. Đó có thể là tâm trạng buồn chán trước thế sự hay lòng tự hào dân tộc. Điều này rất gần phóng sự. Nhưng ở phóng sự, sự kiện là những vấn đề văn hoá, xã hội được chọn lọc, mang ý nghĩa xã hội rộng lớn và thẳm sâu bên trong đó là mong muốn đổi thay thực tế của người viết. Ghi chép một cách chân thực sự kiện, ký sự trung đại tuy luôn tôn trọng yếu tố thời gian và không gian của các sự kiện, các cuộc chính biến trong các triều đại cũng như tên tuổi của các nhân vật lịch sử, các địa danh lịch sử… nhưng những nhân vật lịch sử này có tính cách, diện mạo sinh động chứ không thô cứng và kết cấu tác phẩm chặt chẽ với nhiều tình tiết hấp dẫn. Trong các tác phẩm ký trung đại, nhân vật xuất hiện với tư cách là một con người bình thường (không mang tính hùng tráng như trong sử thi), con người cá nhân có tính cách và đời sống riêng. Điểm này đã khẳng định ký trung đại là chiếc cầu nối, là họ hàng gần gũi với các thể văn xuôi hiện đại đầu thế kỷ XX, mà gần nhất là phóng sự 1932-1945.
Lấy mạch nguồn từ ký sự trung đại, phóng sự Việt nam 1932-1945 chịu ảnh hưởng sâu sắc của ký sự trung đại về đối tượng phản ánh, phương thức phản ánh.... nhưng ở phóng sự 1932-1945 những yếu tố trên lại được bồi đắp bằng những “tinh hoa” của yếu tố ngoại nhập, cùng với một đội ngũ sáng tác đông đảo về số lượng, dồi dào về năng lực. Những yếu tố này đã đưa phóng sự đạt tới trình độ cao của tác phẩm văn chương tự sự.
Trong quá trình phát triển, vận động của thể loại, phóng sự cũng nhận được sự thâm nhập, đan xen, ảnh hưởng của những yếu tố cùng loại. Sự ảnh hưởng có tính “phẩm chất” này đã khiến phóng sự có mối quan hệ mật thiết với các thể loại ký trong văn học hiện đại.
Theo các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại thì ký văn học:“Bao gồm nhiều thể ký khác nhau như ký sự, phóng sự, tuỳ bút, bút ký, nhật ký...” ([40])và “phóng sự, hồi ký, ký sự, bút ký”  thuộc thể ký tự sự.
Ký văn học là một thể loại văn học phản ánh người thật, việc thật. Mặc dù sự tái hiện này không đòi hỏi cao tính “thời sự” của hiện thực như ký báo chí nhưng hiện thực ở đây phải được chọn lọc qua lăng kính chủ quan của tác giả. Trong một chừng mực nào đó, các thể ký văn học cũng phản ánh hiện thực bằng hình tượng. Trong các tác phẩm ký, người viết bằng trí tưởng tượng trên cơ sở sự kiện, nguyên mẫu nhân vật ngoài đời được phép sử dụng hư cấu nghệ thuật. Sự hư cấu giống như những thao tác kỹ thuật khiến hình tượng nhân vật trong tác phẩm sinh động hơn. Điểm nổi bật trong các tác phẩm ký văn học là sự xuất hiện đậm đà của “cái tôi”trần thuật. Sự thật cuộc sống được thể hiện trực tiếp qua sự cảm nhận của tác giả. Tác giả chứng kiến trực tiếp hiện thực, lựa chọn và trình bày sự kiện. Tác giả đóng vai trò “nhân chứng” trực tiếp dẫn dắt độc giả, giúp độc giả tin tưởng vào những điều người viết trình bày, vì vậy mà vốn sống, kinh nghiệm và tài năng của tác giả ký quyết định giá trị của tác phẩm. Bàn về vấn đề này, GS. Hà Minh Đức đã viết: “Tuỳ theo hình thức khác nhau của đối tượng miêu tả, nghệ thuật ký có cách xử lý và tái hiện riêng cho phù hợp... thừa nhận nhiều hình thức và nhiều phong cách sáng tạo” ([41]). Đọc tác phẩm ký, người đọc dễ dàng nhận diện “chỗ đứng”, “điểm nhìn” của nhà văn. Điều này lý giải vì sao những tác phẩm ký viết về chiến tranh cách mạng thường là những tác phẩm thu hút được đông đảo độc giả. Bàn về vấn đề này, GS. Hà Minh Đức đã khẳng định: “Ký văn học là nơi gặp gỡ của hai nhân tố quan trọng: sự thật của đời sống và giá trị nghệ thuật. Sự thật của đời sống ở những nét chắt lọc và tính chất tự nó cũng mang giá trị thẩm mỹ độc đáo và đặc biệt là phần đóng góp của người viết với những suy nghĩ, liên tưởng, tưởng tượng phong phú và giàu tính nghệ thuật” ([42]). Các ý kiến của các nhà nghiên cứu cũng nêu tính chất điển hình hoá của ký văn học và khẳng định: ký văn học qua những con người thật thường chú ý đến đời sống cá nhân chứ không xây dựng hình tượng khái quát; ký có tính chất xác thực, phản ánh nhanh nhạy cuộc sống, tác giả có vai trò quan trọng trong việc lựa chọn sự kiện và xây dựng hình tượng.
Trong thể loại ký văn học có các thể như bút ký, tuỳ bút, ký sự, phóng sự văn học, nhật ký, tản văn... Nằm trong những đặc điểm chung của ký văn học, các thể trên cũng có ảnh hưởng, thâm nhập, tác động, đan xen lẫn nhau. Thể bút ký trong văn học hiện đại phản ánh sự thật với những con người và số liệu cụ thể, chính xác đồng thời tác phẩm bút ký còn biểu lộ cảm xúc trữ tình một cách mạnh mẽ. Ở thể bút ký, sự kiện với những số liệu cụ thể là ngọn nguồn cho cảm xúc bộc lộ. Còn ở tuỳ bút thì sức cảm, sức nghĩ, mức độ cảm xúc và cá tính sáng tạo của nhà văn là chất liệu quan trọng làm nên giá trị tác phẩm. Trong khi đó thì ở ký sự, sự việc, sự kiện với những biến cố là nội dung chủ yếu. Từ điển thuật ngữ văn học coi ký sự “có những đặc điểm chung với bút ký như: viết về người thật việc thật mà tác giả trực tiếp chứng kiến; cốt truyện không chặt chẽ như trong truyện; sử dụng nhiều biện pháp và phương tiện biểu đạt nghệ thuật, v.v. Song ở ký sự, phần bộc lộ cảm nghĩ của tác giả và những yếu tố liên tưởng, nghị luận thường ít hơn ở bút ký, tuỳ bút” ([43]). Ký sự đề cập đến những sự kiện, tình huống, con người, hoàn cảnh nổi bật trong cuộc sống. Trong ký sự, sự kiện là cái nền để xuất hiện nhiều nhân vật nhưng tính cách, diện mạo lại không thật rõ nét. Ký sự có dung lượng mở rộng có thể từ những sự việc có liên quan đến một cuộc đời cho đến những sự kiện làm rung chuyển cả một dân tộc, một đất nước. Ký sự thường xuất hiện trong những thời kỳ lịch sử có những chuyển biến quan trọng với những sự kiện có thể tạo ra sự thay đổi nhanh chóng và mạnh mẽ. Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác gắn với sự suy vong của nhà Trịnh; Trận phố Ràng của Trần Đăng, Ký sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng và một số ký sự của Nam Cao, Tô Hoài... đều gắn với chiến dịch biên giới...; Trận đánh cuối cùng của Hữu Mai, Xuân Lộc- Sài Gòn của Nam Hà... gắn với ngày, tháng hào hùng của chiến dịch Hồ Chí Minh....
Bên cạnh các thể ký trên còn có nhật ký văn học, hồi ký văn học, chân dung văn học, tạp văn - tiểu phẩm. Nhưng con người và sự kiện mà các thể ký này đề cập đến thì thường đã diễn ra trong quá khứ, không mang tính chất nóng bỏng đang xảy ra, mới xảy ra như bút ký hay ký sự. GS. Hà Minh Đức đã nhận xét về bản chất của các thể ký này: “Ký sự nghiêm nhặt tái hiện những sự kiện phong phú của đời sống; hồi ký ghi lại những diễn biến của câu chuyện theo bước đi của thời gian, qua sự hồi tưởng; buý ký, tuỳ bút thể hiện một cách linh hoạt việc phản ánh cuộc sống khách quan và bộc lộ những suy tưởng chủ quan” ([44]).
 Có nguồn gốc từ văn học dân tộc (ký sự trung đại), ảnh hưởng sâu sắc lối viết của báo chí phương Tây, giữa thời buổi rối ren, Tây- Ta lẫn lộn, phóng sự Việt Nam 1932-1945 lấy những sự kiện tươi rói từ hiện thực làm nguồn sống, nguồn sáng tạo. Bằng những con số, số liệu cụ thể, bằng những nguồn cảm hứng được chi phối bởi góc nhìn hiện thực của tầng lớp trí thức “Tây học” trước thực tại xã hội, phóng sự Việt Nam 1932-1945 đã có nhiều tác phẩm có giá trị. Qua các phóng sự Tập án cái đình, Một huyện ăn tết, Lục xì... ta bắt gặp tính chất của ký sự hiện đại. Qua Cơm thầy cơm cô, các tác phẩm phóng sự về cảnh đẹp quê hương đất nước..., ta bắt gặp phẩm chất của tuỳ bút, hồi ký... Phần nhiều tác phẩm phóng sự của văn học giai đoạn 1932-1945 mang phẩm chất của bút ký hiện đại...
Từ những luận cứ trên, ta có thể khẳng định phóng sự 1932-1945 có quan hệ mật thiết với các thể ký văn học. Kế thừa phẩm chất của phóng sự 1932-1945, bằng tài năng và sức sáng tạo, các nhà văn hiện đại mặc sức tung hoành trong các thể ký văn học. Lấy mạch nguồn từ ký trung đại, đến lượt mình phóng sự 1932-1945 cũng trở thành nguồn mạch tiếp sức để các thể ký văn học hiện đại, ngày càng phát triển.
Nói chung: Phóng sự là thể loại tân văn xuất hiện trên thế giới từ thế kỷ XIX, khi mà báo chí phương Tây đã phát triển rầm rộ. Lúc đầu, phóng sự chỉ là những bài viết về những đám cháy, những trận lụt một cách giản đơn, tiếp sau đó là những bài viết về quá trình điều tra của phóng viên đối với sự kiện vừa xảy ra trong hiện thực. Trải qua một thời kỳ phát triển, nó dần trở thành một thể loại có nội dung phong phú, hình thức tương đối ổn định. Phóng sự phản ánh chân thực, khách quan hiện thực xã hội - một hiện thực phức tạp, liên tục phát triển và đầy biến động. Một hiện thực xã hội mà trong đó có những sự kiện nổi bật chứa đựng những mâu thuẫn cần phải giải quyết. Giá trị của phóng sự chính là ở chỗ thông qua việc miêu tả chi tiết những sự kiện sẽ đề cập đến những vấn đề có sức khái quát cao, mang ý nghĩa xã hội rộng lớn, để từ đó giải quyết được những câu hỏi đặt ra từ hiện thực. Với bút pháp trữ tình giàu chất văn học và cái tôi “trần thuật” vừa xúc cảm, vừa trí tuệ, phóng sự không chỉ miêu tả hiện thực mà còn phát hiện và lý giải những vấn đề liên quan đến hiện thực.
Kế thừa truyền thống quý báu của văn học dân tộc thời kỳ trung đại, tiếp thu tinh hoa của những yếu tố ngoại nhập, thể loại phóng sự Việt Nam đã hình thành và phát triển nhanh từ sau cái mốc quan trọng 1932, với nhiều tác phẩm có giá trị của Tam Lang, Trọng Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Đình Lạp… Điều đáng nói là ngay từ khi mới xuất hiện, phóng sự Việt Nam 1932-1945 đã có phóng sự văn học và nhiều tác phẩm là phóng sự - tiểu thuyết. Có nguồn gốc từ văn hoá, văn học dân tộc, tiếp thu các thành tựu báo chí và văn học phương Tây, phóng sự Việt Nam 1932-1945 đã phát triển mạnh mẽ cả chất lượng, số lượng và phản ánh thực trạng xã hội Việt Nam trên diện rộng ở tất cả các mảng hiện thực của cuộc sống. Nhận diện bốn đặc điểm của thể loại phóng sự trong văn học Vệt Nam giai đoạn 1932-1945, chúng tôi hy vọng sẽ góp thêm một góc nhìn sâu sắc về giá trị của phóng sự.
 

([1]). Theo Hoài Thanh, Khảo sát những đặc điểm thể loại phóng sự của Vũ Trọng Phụng, luận án tiến sĩ ngữ văn, Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 1999, tr. 26- 27.
 
([2]). Đức Dũng, Các th ký báo chí, Nxb. Văn hoá thông tin, H. 1996, tr. 61 
([3]). Theo Hoài Thanh, Kho sát nhng đặc đim th loi phóng s ca Vũ Trng Phng, lun án tiến sĩ ng văn, Đại hc quc gia Tp. H Chí Minh, 1999, tr. 29
([4]). Theo Hoài Thanh, Khảo sát những đặc điểm thể loại phóng sự của Vũ Trọng Phụng, luận án tiến sĩ ngữ văn, Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 1999, tr. 29.
 
([5]). Đức Dũng, Các thể ký báo chí, Nxb Văn hoá thông tin, H. 1996, tr. 213.
 
([6]). Vit Nam tđin, Khai trí tiến đức xut bn năm 1931, tr. 441. 
([7]). (Nguyễn Hoành Khung và Lại Nguyên Ân, Vũ Trọng Phụng, con người và tác phẩm- Thư gửi vợ chồng người bạn là bà Đồng Thị Bích Khuê và ông Nguyễn Văn Đạm, đề ngày 31 tháng 12 năm 1935, Nxb Hội nhà văn, H.1994, tr. 126.
 
([8]). Vũ Ngc Phan, Nhà văn hin đại, tp 1, Nxb KHXH, 1989, tr. 504-505.
 
([9]). Bch Liên - sưu tm, tp hp, Nguyn Đình Lp tác phm, Nxb Văn hoá thông tin, H. 2003, tr. 795-796
([10]). Bch Liên - sưu tm, tp hp, Nguyn Đình Lp tác phm, Nxb Văn hoá thông tin, H. 2003, tr. 792.
 
([11]). Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III, Quốc học tùng thư, Sài gòn 1965, tr. 512.
 
([12]). Hà Minh Đức, Lê Bá Hán, Cơ s lý lun văn hc, tp 2, Nxb Đại hc và trung hc chuyên nghip, H. 1985, tr. 357.
([13]). Nguyn Đức Dũng, Các th ký báo chí, Nxb Văn hoá thông tin, H. 1996, tr. 83
([14]). Phan Trng Thưởng, Nguyn C, Nguyn Hu Sơn, Phóng s Vit Nam 1932 - 1945, tp 1, Nxb Văn hc, H. 2002, tr. 5 - 6.
 
([15]). Lê Bá Hán, Trn Đình S, Nguyn Khc Phi, Tđin thut ng văn hc, Nxb Giáo dc, H. 1992, tr. 171.
([16]).  Bạch Liên - sưu tm, tp hp, Nguyn Đình Lp tác phm, Nxb Văn hoá thông tin, H. 2003, tr. 811.
([17]). Bạch Liên - sưu tm, tp hp, Nguyn Đình Lp tác phm, Nxb Văn hoá thông tin, H. 2003, tr. 171
([18]). Nguyễn Đức Dũng, Viết báo như thế nào, Nxb Văn hoá thông tin, H. 2000, tr. 175
([19]). Bạch Liên - sưu tm, tp hp, Nguyn Đình Lp tác phm, Nxb Văn hoá thông tin, H. 2003, tr. 881
([20]). Vũ Ngc Phan, Nhà văn hin đại, tp 1, Nxb Khoa hc xã hi, H. 1989, Tr. 560.
([21]). Tđin văn hc, II, Nxb. Khoa hc xã hi, H. 1984, tr. 220
([22]). Bch Liên - sưu tm, tp hp, Nguyn Đình Lp tác phm, Nxb Văn hoá thông tin, H. 2003, tr. 812
([23]). Phan CĐệ, Trn Đình Hượu, Nguyn Trác, Lê Trí Dũng... , Văn hc Vit Nam (1930 – 1945), Nxb Giáo dc, H. 2003, tr. 12.
([24]). Thế Phong - sưu son, Cuc đời viết văn làm báo Tam Lang - Tôi kéo xe, Nxb Tng hp Đồng Nai, 2004, tr. 67.
([25]). Phan Trng Thưởng, Nguyn C, Nguyn Hu Sơn - sưu tm, biên son, Phóng s Vit Nam 1932 - 1945, 1, Nxb Văn hc, H. 2000, tr. 6.
([26]). Thế Phong - sưu son, Cuc đời viết văn làm báo Tam Lang - Tôi kéo xe, Nxb Tng hp Đồng Nai, 2004, tr. 67.
([27]) Phan Trng Thưởng, Nguyn C, Nguyn Hu Sơn - sưu tm, biên son, Phóng s Vit Nam 1932 - 1945, 1, Nxb Văn hc, H. 2000, tr. 18
([28]). Nguyn Đăng Na - gii thiu và tuyn son, Văn xuôi t s Vit Nam thi trung đại, tp 2, Nxb Giáo dc, H. 2001, tr. 20.
([29]). Nguyn Đăng Na - gii thiu và tuyn son, Văn xuôi t s Vit Nam thi trung đại, tp 2, Nxb Giáo dc, H. 2001, tr. 50
([30]).  Phan Trọng Thưởng, Nguyn C, Nguyn Hu Sơn - sưu tm, biên son, Phóng s Vit Nam 1932 - 1945, tp1, Nxb Văn hc, H. 2000, tr. 65
([31]). Trn Th Trâm, Trng Lang cây bút phóng s tiên phong, Tp chí Báo chí và tuyên truyn, s 2/ 2002, tr.55.
([32]). Phan Trng Thưởng, Phóng s Vit Nam (1932 – 1945) - mt thành tu đặc bit ca ca tiến trình văn hc Vit Nam, Tp chí Văn hc s 5/ 2000, tr. 27.
([33]). Nguyn Đức Dũng, Viết báo như thế nào, Nxb Văn hoá thông tin, H. 2000, tr. 161.
([34]).  Phan Trọng Thưởng, Nguyn C, Nguyn Hu Sơn - sưu tm, biên son, Phóng s Vit Nam 1932 - 1945, tp 1, Nxb Văn hc, H. 2000, tr. 17.
 
([35]). Nguyễn Đức Dũng, Viết báo như thế nào, Nxb Văn hoá thông tin, H. 2000, tr. 162.
([36]). Phan Trọng Thưởng, Nguyn C, Nguyn Hu Sơn - sưu tm, biên son, Phóng s Vit Nam 1932 - 1945, tp 3, Nxb. Văn hc, H. 2000, tr. 661- 662.
([37]). Phan Trọng Thưởng, Nguyn C, Nguyn Hu Sơn - sưu tm, biên son, Phóng s Vit Nam 1932 - 1945, tp 3, Nxb Văn hc, H. 2000, tr. 766.
([38]). Nguyn Trác, Hoàng Dung, Nguyn Đăng Mnh, Giáo trình lch s văn hc Vit Nam 1930, 1945, tp V, Nxb Giáo dc, H. 1962, tr. 122.
([39]). Phan Trọng Thưởng, Nguyn C, Nguyn Hu Sơn - sưu tm, biên son, Phóng s Vit Nam 1932 - 1945, tp 3, Nxb Văn hc, H. 2000, tr. 1076.
([40]). Hà Minh Đức, Lê Bá Hán, Cơ s lý lun văn hc, tp 2, Nxb Đại hc và trung hc chuyên nghip, H. 1985, tr. 283. 
([41]). Hà Minh Đức, Lê Bá Hán, Cơ s lý lun văn hc, tp 2, Nxb Đại hc và trung hc chuyên nghip, H. 1985, tr. 324.
([42]) Hà Minh Đức, Lê Bá Hán, Cơ s lý lun văn hc, tp 2, Nxb Đại hc và trung hc chuyên nghip, H. 1985, tr. 325.
 
([43]). Lê Bá Hán, Trn Đình S, Tđin thut ng văn hc, Nxb Giáo dc, H. 1992, tr. 114.
([44]). Hà Minh Đức, Lê Bá Hán, Cơ s lý lun văn hc, tp 2, Nxb Đại hc và trung hc chuyên nghip, H. 1985, tr. 323.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114561741

Hôm nay

2169

Hôm qua

2334

Tuần này

2854

Tháng này

229284

Tháng qua

122920

Tất cả

114561741