Dân thị thành phải trải qua bao sóng gió thăng trầm của phong trào “Âu hoá, văn minh”. Hậu quả của làn sóng văn minh ấy là sự phân hoá giai tầng rõ rệt và sự đổi thay ghê gớm về đời sống, lối sống. Nạn đói kém, tệ tham nhũng, me Tây, gái đĩ, trộm cắp, cờ bạc xảy ra hàng ngày, hàng giờ làm băng hoại nghiêm trọng đạo đức xã hội,... Tất cả những đổi thay ấy được phản ánh chân thực trong văn học, báo chí nửa đầu thế kỷ. Hoà chung dòng chảy “đa” thể loại những năm 30 của thế kỷ XX, các nhà phóng sự đã chớp nhoáng đưa ống kính vào hiện thực và phản ánh hiện thực.
Chế độ thực dân nửa phong kiến đã tạo ra sự phân hoá giai tầng sâu sắc và ngày càng tô đậm thêm mâu thuẫn xã hội. Sự phân hoá giai cấp, những bất công trong xã hội đương thời; sự phân biệt đẳng cấp, sự khác biệt giữa cuộc sống hào nhoáng, tráng lệ của phố phường với khung cảnh bùn lầy nước đọng, tù túng, nghèo khổ của dân nghèo thành thị càng ngày càng diễn ra gay gắt đã được các nhà phóng sự Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Trọng Lang, Tam Lang, Nguyễn Đình Lạp… đưa vào trang viết với nhiều sự kiện chân thực, sống động.
Nếu như tác giả Nhất Linh, Khái Hưng của Tự lực văn đoàn luôn lạc quan, tin tưởng vào phong trào Âu hoá, văn minh qua các tiểu thuyết Gánh hàng hoa, Đoạn tuyệt, Nửa chừng xuân…, kêu gọi thanh niên vui vẻ, trẻ trung, giũ bỏ sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến thì các nhà phóng sự đã luồn lách ngòi bút của mình vào bản chất bên trong của cuộc sống xa hoa đô thị, sự thối nát, mục ruỗng của luân lý đạo đức truyền thống, sự sa đoạ, xuống cấp về đạo đức, lối sống và sự cùng khổ của dân nghèo lao động. Họ đã không ngần ngại bóc trần bản chất xấu xa của bọn chủ giàu có và tỏ thái độ thương cảm với kiếp người đi ở, nghèo hèn. Kẻ có tiền, kẻ bóc lột là những ông chủ giàu có nhưng độc ác, nhẫn tâm, keo kiệt, bủn xỉn… Chúng là nhân vật chính trong tấn trò phân hoá giàu - nghèo, đẳng cấp trong xã hội đô thị Việt Nam lúc bấy giờ.
Với Cơm thầy cơm cô, Vũ Trọng Phụng dụng ý viết về những người đi ở, nhưng tác phẩm lại là nơi thể hiện nhiều nhất, cụ thể nhất mối quan hệ chủ - tớ trong xã hội và cũng là tác phẩm phản ánh rõ rệt nhất sự phân biệt đối xử, sự phân hoá giai tầng trong xã hội. Bên cạnh việc ghi lại cảnh khốn khổ của những con người nghèo đói từ nông thôn phiêu bạt lên Hà Nội kiếm sống, Vũ Trọng Phụng đã rất thành công trong việc ghi lại sự đểu giả, độc ác của những ông chủ, bà chủ. Cuốn tiểu thuyết về cuộc đời của con sen Đũi và bức chân dung của các ông chủ, bà chủ được Vũ Trọng Phụng ghi lại thật sinh động. Bằng ngòi bút tả chân sắc sảo với cách khắc hoạ tính cách nhân vật qua miêu tả hành vi, ngôn ngữ, Vũ Trọng Phụng đã khẳng định bản chất xấu xa đê hèn của những người được coi là giàu sang. Họ tự cho mình là kẻ bề trên, có quyền đánh chửi người ở bất cứ lúc nào, mạng sống con người thật rẻ mạt dưới bàn tay của chúng. Qua hình ảnh những ông chủ, bà chủ, Vũ Trọng Phụng đã lên án xã hội thối nát, không kỷ cương phép tắc, coi trọng đồng tiền, một xã hội mà hố sâu ngăn cách, phân biệt đẳng cấp ngày một rõ rệt. Có thể lúc đó Vũ Trọng Phụng không ý thức được mâu thuẫn giai cấp trong xã hội mà ông đang sống, nhưng ý thức công dân của tác giả, ý thức sáng tạo của một nhà báo chân chính đã giúp ông bắt nhịp được với những vấn đề nổi cộm trong lòng xã hội đô thị. Càng ở những nơi phồn hoa đô hội thì sự phân biệt đối xử giữa con người với con người, khoảng cách giàu nghèo càng rõ nét. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của những trang viết Vũ Trọng Phụng nằm chính ở những cái tưởng chừng như bình thường nhất.
Khởi đầu cho lối viết “tả chân” trong làng báo chí Việt Nam, Tam Lang cũng có cái nhìn sắc sảo về sự phân hoá giai tầng trong xã hội đô thị đương thời. Một mặt ông tỏ thái độ cảm thông, bênh vực kẻ nghèo hèn, mặt khác ông không ngại ngùng sử dụng “mỹ từ” nói về bọn chủ với thái độ khinh ghét rõ rệt. Tôi kéo xe của Tam Lang là tập phóng sự nói về sự cùng cực của kiếp người chọn nghề kéo xe làm kế sinh nhai. Người phu xe phải lao động cật lực nhưng cùng cực hơn cả họ lại bị bọn cai xe đánh đập không thương tiếc. Hình ảnh kẻ có quyền trong phóng sự của Tam Lang hiện lên vừa xấu xí vừa hết sức thô lỗ: “Soạc rộng cái mồm đầy hai hàm răng cáu bựa như những múi na, anh cai T. nới một lỗ khuy chiếc thắt lưng da to- to ngang chiếc dây lưng đeo cát tút của người đi săn - tráo trợn hỏi như nhổ vào mặt người anh ta coi là lạ” ([1]). Cách so sánh rất gợi và chính xác của Tam Lang đã khắc hoạ hình tượng rất sống động, nhưng “sống” ở phương diện cái xấu, cái nghịch dị.
Bên cạnh Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang cũng tỏ ra sắc sảo khi đề cập vấn đề này. Với thái độ phê phán rõ ràng, Trọng Lang đã khắc hoạ đậm nét cảnh giàu sang và những kẻ giàu có. Giàu nghĩa là nhiều tiền, nhưng thiếu văn hoá và ngoại hình thì thật xấu xí: “... Ông Q. béo lắm và chẳng xinh xẻo chút nào. Nhưng cái biệt thự của ông thì thật đẹp…Trên tường, đầy ảnh những thiếu nữ uốn tóc kẻ lông mày chếch và cười bằng môi dưới…Và ảnh ông cưỡi một con ngựa bé hơn ông, thấp lách chách bằng một con dê. Và ảnh ông mặc áo tắm, phô cái bụng to hơn cả ông” ([2]).
Để tạo dựng hình ảnh một tay nhà giàu, Trọng Lang đã sử dụng triệt để thủ pháp đối lập. Cách miêu tả này giống với Nguyễn Công Hoan khi tả ngoại hình các viên quan béo đến mức dị dạng. Đó là cách tả đồng nhất ngoại hình và tính cách “những anh béo là những anh ăn bẩn” (Nguyễn Công Hoan- Đồng hào có ma). Hình ảnh ông Q. - kẻ có tiền, to béo, chuyên dùng tiền để mua vui, có bộ mặt nở nang với cái cằm, cái cổ bự mỡ sống trong một biệt thự xinh xẻo được Trọng Lang đặt bên cạnh bộ mặt phù thũng, thân hình gầy còm vì chuyên lấy rau cà làm món bổ dưỡng và vì thức đêm của các cô gái nhảy, cô đầu - những người vì miếng cơm manh áo mà phải chịu kiếp nô lệ trong Vợ lẽ nàng hầu là cách so sánh đắt giá nhất, thể hiện sâu sắc sự phân hoá trong xã hội đô thị Việt Nam đương thời.
Cùng với việc phơi bày bản chất phi nhân tính của kẻ giàu, phóng sự còn hướng đến thân phận của những người nghèo, kẻ bị trị, bị bóc lột. Đó là những dân nghèo ngoại ô, kiếp con sen, thằng ở, kiếp người bán dâm để sống, những phu xe... Cuộc sống của những con người “dưới đáy”(M.Gocki), nghèo khó này là bản chất thực bên trong, nét tương phản gay gắt của bộ mặt đô thị Việt Nam hào nhoáng, giả tạo thời đó.
Viết về cuộc sống vất vả, nghèo khổ của tầng lớp “dưới đáy”, văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1932-1945 đã có những nhà văn xuất sắc như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao. Người đọc không thể quên những hình tượng hết sức sống động của các nhân vật như Kép Tư Bền (Kép Tư Bền - Nguyễn Công Hoan), Con mẹ Nuôi (Đồng hào có ma - Nguyễn Công Hoan), Chị Dậu (Tắt đèn - Ngô Tất Tố),Chí Phèo (Chí Phèo - Nam Cao)... Những con người ấy để tồn tại trong xã hội thối nát, đúng hơn là tồn tại trong hoàn cảnh phi nhân tính, họ đã phải bán cả nhân hình, nhân tính. Phóng sự chưa có những hình tượng đặc sắc, độc đáo như trong truyện ngắn, truyện vừa hay tiểu thuyết nhưng đã vẽ nên được những bức tranh hết sức chân thực về cảnh sống tăm tối, nghèo nàn. Ở phương diện này, nhà phóng sự tả chân Nguyễn Đình Lạp đã cung cấp cho ta những tư liệu quí giá.
Trước Ngoại ô, Ngõ hẻm, Nguyễn Đình lạp đã thử sức và khẳng định vị trí trong làng phóng sự bởi các tác phẩm Những vụ ái tình, Chợ phiên đi tới đâu, Thanh niên truỵ lạc, Từ ái tình đến hôn nhân... Qua các phóng sự này, ngòi bút của Nguyễn Đình Lạp đã phơi bày bản chất giả dối của phong trào Âu hoá (Chợ phiên đi tới đâu), phê phán thái độ sống bàng quan, cá nhân chủ nghĩa, lối sống truỵ lạc của thanh niên (Thanh niên truỵ lạc, Từ ái tình đến hôn nhân) và lên án bạo lực của đồng tiền. Đồng tiền đã tạo ra đau khổ uất ức tới bao kiếp nghèo hèn. Với mong muốn viết về kiếp người nghèo hèn trong một không gian hiện thực rộng lớn hơn, Nguyễn Đình Lạp đã lựa chọn thể loại phóng sự tiểu thuyết. Và Ngoại ô, Ngõ hẻm đã thực sự là bức tranh xã hội rộng lớn phản ánh chân thực cuộc sống của những người dân nghèo ngoại ô. Họ là những người bán hàng rong, đồ tể, cô đầu, hàng nước, hàng phở... Cuộc sống của họ lay lắt, vì hàng họ ế ẩm, vì phải chịu sưu cao, thuế nặng. Những con người lam lũ được Nguyễn Đình Lạp miêu tả sống động không chỉ bởi cảnh sống bần hàn của họ mà ngòi bút phóng sự của tác giả đã khéo léo kết hợp với những yếu tố kể chuyện, xây dựng tính cách nhân vật của nghệ thuật tiểu thuyết nên trong phóng sự có nhiều trang viết thấm đượm tình người.
Ngoại ô, Ngõ hẻm đưa người đọc đến một môi trường sống tối tăm theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng: “Nó sâu, nó nhầy nhụa, nó bẩn thỉu vì thấy nước ngập lên gần đầu gối và một thứ bùn khăn khẳn nồng nặc đưa vào lỗ mũi” ([3]). Ở đây con người sống chung với loài chuột, muỗi... :Nhớn vẫn ngủ mê mệt, đàn chuột xúm xít đầy trên giuờng. Chúng cắn tai, cắn mũi, cắn ngón tay, ngón chân, rứt ra từng mảng tóc Nhớn. Bằng bút pháp tả chân, nhà phóng sự đã tái hiện nơi ở của dân nghèo Vạn Thái, vùng Bạch Mai, Hà Nội. Cuộc sống của gia đình bác Vuông, anh đồ tề Nhớn, bác phở Mỗ, bác Thịt trâu, cô đầu Huệ... hết sức bần hàn, điêu đứng. Nhưng sự kiện chính mang tính bước ngoặt của cuộc đời đã vô cùng điêu đứng của họ là chính sách tàn độc của nhà nước: cấm người dân đem giò chả, thịt vào bán trong nội thành. Không làm hàng thì không còn con đường sống, họ đành phải làm chui, lén lút, phải đối phó với cảnh khám xét, bắt bớ. Nhiều trang phóng sự của Nguyễn Đình Lạp đã vượt khỏi phong cách “tả chân” thông thường để đi vào lòng người. Đó là cảnh bác Vuông gái bị khám thịt lậu. Kẻ có quyền thì quát tháo, uy roi gân bò, cười khả ố trước một người đàn bà yếu đuối “mặt tái nhợt, mắt ướt nhoè” cùng tiếng khóc nấc vì quần áo bị cởi (để khám hàng). Cuối Ngoại ô là cảnh bác Vuông trai vì không chịu nổi những cảnh đau lòng trái ngang uất ức mà phát điên. Điệp khúc “cũng một kiếp người” được nhắc đi nhắc lại thật ai oán, xót xa.
Viết về những con người làm nô lệ cho thú vui xác thịt, nô lệ của bọn giàu có là các phóng sự của Trọng Lang, Nguyễn Đình Lạp, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam. Trong đó Trọng Lang là người tả nhiều nhất về hạng người này, với cái nhìn tương đối cảm thông qua hai phóng sự Hà Nội lầm thanvàVợ lẽ nàng hầu.
Đây là chân dung của một gái nhảy:
“Cô đánh phấn nhiều, vụng như một gái nhà chứa, vì không như các cô nhảy nhà cô Đốc, cô giấu không kín hết một vài chỗ da nho nhỏ hoen vàng xám, dấu hiệu của đói rét, thức đêm và nhục dục.
Trên môi, tuy đỏ choét, vẫn hở cái vành đen như thịt trâu ôi. Với bộ răng trắng còn mờ đen, đôi mắt lờ đờ, đục vẩn, thỉnh thoảng loáng một tia “thèm muốn”. Cô hoàn toàn là gái của... mọi người” ([4]).
Sau Hà Nội lầm than là Vợ lẽ nàng hầu. Ở phóng sự này, tác giả điều tra về thân phận những phụ nữ chịu kiếp lẽ mọn. Cuộc đời của họ đầy bất hạnh, khổ đau. Họ là nạn nhân của chế độ đa thê trong xã hội phong kiến nhưng thực chất cũng là nạn nhân của chế độ thuộc địa với sự phân hoá giai cấp sâu sắc. Họ là những “con ở”, là “máy đẻ” hoặc phục vụ thú vui nhục dục cho những ông chồng gia trưởng.
Phải khẳng định rằng, phóng sự Việt Nam 1932-1945 đã hoàn thành bức chân dung của “những người khốn khổ” và phóng sự Tôi kéo xe của Tam Lang là một mảng màu đen đúa, xám xịt của bức chân dung đó. Nghề kéo xe tay xuất hiện ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX và đã được lấy làm đề tài của các nhà viết truyện ngắn như Phạm Duy Tốn với Câu chuyện thương tâm, Nguyễn Công Hoanvới Ngựa người, người ngựa..., nhưng phải đến Tam Lang thì hình ảnh người phu xe với tất cả nỗi cực nhọc, khổ sở được thể hiện đầy đủ và rõ nét bởi lối miêu tả chân thực, tỉ mỉ, đi sâu vào phương thức hành nghề, vào đời tư của nhân chứng (anh phu xe tên Tư), lách ngọn bút điều tra vào tận hang ổ của “nghề xe”, gặp gỡ chủ xe, chứng kiến sự biến chất vì miếng cơm manh áo, vì cuộc đời không lối thoát của phu xe... Đóng góp của Tam Lang đối với sự kiện “kéo xe” và với thể loại phóng sự là ở sự quan sát tinh tường, kỹ càng của một nhà báo đa tài. Viết Tôi kéo xe, Tam Lang đã thể hiện được khả năng lựa chọn đối tượng khám phá cũng như cách thức viết, lối diễn tả sự kiện tài năng của mình.
Sẽ là thiếu sót nếu chúng ta không đề cập đến loại người đi ở trong phóng sự Việt Nam 1932-1945. Nói theo Vũ Trọng Phụng: “... Muốn làm một nhà xã hội học, một nhà tâm lý học, một nhà triết học, thì trước hết hãy đăng vào nghề cơm thầy cơm cô! Người phu xe biết hết mọi sự độc ác của loài người hơn là một nhà học giả. Người bồi săm biết hết mọi sự dâm đãng của loài người hơn là một nhà giải phẫu học. Và một kẻ đi ở thì cũng biết rõ những tính tình của loài người hơn là một nhà văn sĩ tả chân” ([5]). Và quả như vậy, chỉ qua Cơm thầy cơm cô, thiên tài Vũ Trọng Phụng đã cho chúng ta thấy “tính tình” đểu giả của loài người. Cái đáng khâm phục của thiên tài họ Vũ có lẽ là ở chỗ ông đã thấy rõ “tình trạng phi nhân tính của xã hội” (cách nói của Nguyễn Đăng Mạnh). Tất nhiên, do cảm quan hiện thực mà ông không nhìn thấy tận cùng bản chất tình trạng phi nhân tính là do chế độ thực dân nửa phong kiến gây nên, hay do né tránh mũi kéo kiểm duyệt mà ông chỉ viết thế. Nhưng cho đến hôm nay, với cái nhìn cởi mở hơn, chúng ta càng thấy rõ hơn giá trị phổ quát của những trang văn “tả chân” Vũ Trọng Phụng. Tác phẩm không những phản ánh thực trạng cảnh nghèo khổ cùng quẫn bế tắc, cực nhọc của giới đi ởmà cao hơn, xa hơn là phê phán một xã hội đầy rẫy xấu xa, tàn ác bất công đã đẩy những đứa trẻ vô tội vào vòng tội lỗi và nguy hiểm hơn là trượt dài trên con đường tha hoá.
“...Hà thành không có sự tổ chức, đám dân hạ lưu chia nhau ra khắp các phố, thành thử những người lịch sự tưởng Hà thành lịch sự, mà các nhà xã hội học- cũng tưởng là Hà thành không có chuyện gì bi thương.
Chính ra, nó rất là thương tâm...
Nó đã cất tiếng gọi dân quê bỏ những nơi đồng khô héo đến đây để chết đói một lần thứ hai sau khi bỏ cửa bỏ nhà. Nó đã làm cho giá con người phải ngang hàng với giá loài vật; nó đã làm cho bọn trẻ đực vào nhà hoả lò và bọn trẻ cái làm nghề mãi dâm” ([6]).
Ngay mấy chữ tưởng như vô tình “Hà thành không có sự tổ chức”, nhưng lại là một làn roi quất thẳng vào mặt chế độ thực dân phong kiến chỉ biết bóc lột. Bên trong Hà thành ấy là thế giới của sự giàu có nhưng ti tiện, keo bẩn, độc ác và nạn nhân của tính cách đê tiện ấy là những người đi ở.
Có con ở bị đánh “mười hai cái bạt tai, mặc dầu nó chẳng đáng tội tình gì” ([7]). Có con ở từ nhà quê ra phơi quần áo bị vướng vào dây điện. Điện giật “bị bệnh động kinh rồi lại bị chủ thải ra”. Có con ở bị chủ vu cho ăn cắp rồi báo lính xích tay. Và tất nhiên con ở phải chịu cảnh lao dịch, kiệt sức…
Cùng với việc phản ánh sự phân hoá giai tầng trong xã hội, phóng sự 1932-1945 còn là nơi thể hiện đậm nét sự lai căng, đua đòi, sinh thói rởm của lối sống thành thị do ảnh hưởng của văn minh phương Tây.
Thực chất các tệ nạn đô thị Việt Nam lúc bấy giờ như cờ bạc, nghiện ngập, trộm cắp, mại dâm cũng là sản phẩm của một xã hội lai căng, đua đòi nhưng ngoại tình, lấy vợ lẽ, nàng hầu, trưởng giả học làm sang, đồng bóng, nhẩy đầm, hát cô đầu… lại là biểu hiện đặc trưng nhất của lối sống trên. Đây là chân dung “trưởng giả học làm sang” của kẻ giàu: “Khi ra tỉnh lần đầu, tôi đã được vào làm nhà một lão thầu khoán... Chỉ có việc dắt chó đi dong chơi ngoài đường. Lão mua ba con chó Nhật Bản, mỗi con đáng giá trăm bạc cả, cho ăn toàn là những thịt bò với súp. Tôi chỉ suốt ngày tắm rửa cho chó mà thôi. Chỉ khổ một nỗi là chủ có tính gàn, bắt mình lấy giấy bản chùi đít chó” ([8]). Chi tiết “lấy giấy bản chùi đít cho chó” thì có lẽ không một đứa ở nào có thế tưởng tượng được, để bịa đặt.
Cùng với việc khai thác sâu lối sống “trưởng giả học làm sang”, phóng sự 1932-1945 tập trung phản ánh cảnh vợ lẽ nàng hầu, ngoại tình. Các phóng sự Hà Nội lầm than, Vợ lẽ nàng hầu của Trọng Lang; Từ ái tình đến hôn nhân, Thanh niên truỵ lạc củaNguyễn Đình Lạp đã tỏ ra sắc sảo, già dặn trong cách thức lựa chọn sự kiện và phản ánh đối tượng này. “Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng” vốn là quan niệm của lễ giáo phong kiến, đã tồn tại lâu đời trong lòng xã hội Việt Nam, nhất là những vùng nông thôn, nơi tồn tại nhiều hủ tục lạc hậu - lấy vợ lẽ là thêm người làm, tậu một cái máy đẻ, vợ lẽ phải “ăn cơm nguội, nằm nhà ngoài”. Nhưng trong xã hội Âu hoá lem nhem, Âu hoá nửa chừng, lấy vợ lẽ đôi khi lại là “mốt” đối với một anh nhà giàu hoặc một công chức lương cao ở đô thị. Lấy vợ lẽ không nhằm thêm con, thêm của mà lấy vợ để thoả thú ăn chơi trác táng, để sĩ diện với đời. Vợ lẽ lại thường là những gái nhảy, cô đầu, hoa khôi đã hết duyên và rất thạo tiêu tiền. Không đâu lấy vợ lẽ lại dễ như xã hội này: “Muốn lấy vợ lẽ, chỉ cốt có đồng tiền. Có tiền mua tiên cũng được” ([9]). Cũng có khi “nàng hầu” là biến tướng của một kiểu bóc lột: “Tôi lấy làm thú các ông ạ! Nó thú như vầy: nó chịu thương chịu khó quá, gánh nước, bổ củi cả ngày. Nên cứ tối đến là nó ngủ rồi. Đứng ngủ, ngồi ngủ, đi cũng ngủ” ([10]).
Rồi tệ ngoại tình. Ngoại tình “có sự thoả thuận cả vợ lẫn chồng”. Như một nhà xã hội học, Nguyễn Đình Lạp trong Từ ái tình đến hôn nhân đã phanh phui nhiều lối ngoại tình: “Tôi muốn nói những vụ ngoại tình có tính toán hẳn hoi, có sự bằng lòng, thoả thuận cả vợ lẫn chồng. Ở đây, họ “tự để ngoại tình” là muốn được hưởng nhà cửa, tiền bạc, ô tô, danh giá...
Biết bao kẻ tai to, mặt lớn lặng lẽ dắt vợ mình vào cổng hậu một nhà quyền quý để mong chóng được thăng trật, tăng lương hay được phẩm hàm, chức tước...
Biết bao nhiêu thằng đàn ông vô liêm sỉ tự đàn áp lương tâm, giập tắt lửa ghen để tự hạ mình xuống làm thằng bồi xách “bô” hầu hạ “người ta” nô đùa, ríu rít với vợ mình trên giường...
Biết bao nhiêu con đàn bà ma quái dắt bạn về nhà, để mặc cho chồng phụng sự vật tính chỉ vì người bạn nó giàu, lại khờ, lại dại...
Ở những trường hợp này sự ngoại tình đã thành một “tổ chức”, một sự buôn bán” ([11]).
Nguyễn Công Hoan trong truyện ngắn Xuất giá tòng phu kể chuyện một người chồng đánh vợ vì vợ không chịu đi “tết” quan trên bằng cách hiến thân mình. Ông chồng vừa đánh vừa quát vợ: “Luân lý để đâu! giáo dục để đâu”. Thì ra “giáo dục, luân lý” của bọn người này là vợ phải nghe lời chồng “đi” với quan trên. Đúng là giáo dục, luân lý ngược đời ! Nguyễn Đình Lạp đã bổ sung thêm tư liệu cho sự đốn mạt, ghê tởm này.
Cùng với lấy vợ lẽ là nhảy đầm, hát cô đầu, đi nhà thổ… Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang, Nguyễn Đình Lạp đã không ngại ngùng đưa ngòi bút phóng sự điều tra hiện tượng này. Các phóng sự của các ông đã dựng lên một Hà Nội nhớp nhúa, nhầy nhụa trong sự ăn chơi vô độ của kẻ lắm tiền.
Tiêu biểu cho thói dởm giữa Hà Nội phồn hoa đương thời là hiện tượng đồng bóng, quàng xiên. Tiểu thuyết phóng sự Hầu thánh của Lộng Chương đã dành một dung lượng lớn (96 trang) để miêu tả tỉ mỉ hiện tượng này với thái độ phê phán nghiêm khắc. Bà Hàn Sính - nhân vật chính của tác phẩm là vợ ông Hàn giàu có, có cửa hiệu buôn bán ở phố lớn và đồn điền rộng ở Bắc Ninh. Gia sản của ông bà đáng vài ba mươi vạn. Ham mê đồng bóng, Bà Hàn Sính đã phó mặc công việc buôn bán cho chồng, phó mặc công việc gia đình cho kẻ ăn, người ở. Sự giàu sang được bà đưa cả vào khăn chầu áo ngự và tạo dựng cơ cánh đồng bóng: “… Cái hòm khăn chầu áo ngự của Bà Hàn đã là đầu đề cho những buổi họp chuyện ở nhà các bà đồng. Nó được người ta nói đến là vì nó sang lắm. Bà Hàn đã cung phụng vào đấy gần ba ngàn đồng… Nguyên cái áo chầu phượng đã là cả một kỳ công. Bà đã phải cử một người thợ may cực giỏi ở một hiệu may có tiếng nhất, đi tìm mẫu thật hệt kiểu y phục người Mán để may cho bà: một cái xiêm bằng gấm lam thêu kim tuyến thắt vòng ra đằng sau, và một cái “phá” phủ thân trên người giát bạc, thêm vào một cái khăn đầu dìu buộc chéo ra sau gáy nạm vạng và có dính một viên ngọc thạch ở giữa trán… Còn những cốc chén, đĩa và những ống cắm, và hương tuyền bằng bạc trạm trổ thực cầu kỳ” ([12]). Đồng bóng, đàn đúm, chẳng bao lâu bà Hàn đã trở thành tín đồ của cờ bạc và “kiêm bà đồng nhà nghề”. Tiếng tăm cùng sự ăn chơi của bà ngày càng lừng lẫy ở chốn nhà thánh, ở chiếu bạc và để cuối tác phẩm là cảnh gia đình tan nát. Nhà văn Lộng Chương đã rất thành công khi phân tích thói dởm đồng bóng, bói toán cũng như tác hại của chúng. Giá trị của tác phẩm còn được thể hiện ở nhiều trang viết miêu tả cặn kẽ trang phục, cảnh lên đồng, hầu đồng, múa đồng- tập quán cũ mà hiện nay trong dân gian không còn nhiều và đây đó đang dần khôi phục.
Sự phân hoá giàu nghèo, sự lai căng đua đòi, sinh thói dởm là hệ quả tất yếu của xã hội thực dân nửa phong kiến. Thực trạng này đã được phản ánh rõ nét trong tác phẩm của các nhà văn tiến bộ. Các nhà phóng sự 1932-1945 đã rất nhạy cảm trước vấn đề này. Tác phẩm của họ không những là những tư liệu lịch sử quý giá mà còn là những trang văn thấm đẫm tính chiến đấu, sâu sắc tính nhân văn.
Nạn khủng hoảng kinh tế 1929 -1933 đã dẫn tới sự phân hoá một cách trầm trọng trong xã hội Việt Nam: các nhà buôn lớn phá sản, dẫn đến sự thất nghiệp của thợ thuyền, công chức; nông thôn đất chật, người đông, xơ xác, tiêu điều ngày càng có nhiều người đổ ra thành phố xung vào đội quân thất nghiệp. Và chính nạn thất nghiệp đã sản sinh ra vô số các tệ nạn: mại dâm, nghiện hút, cờ bạc, trộm cắp… Những tệ nạn ấy là “quốc nạn”, hoành hành tàn phá gốc rễ của đạo đức xã hội. Các cây bút phóng sự tiêu biểu đã hăm hở nhập cuộc và phơi bày bản chất xấu xa, nhơ nhớp của xã hội đô thị Việt Nam những năm 30. Một xã hội mà quan lại thì tham nhũng, đàn bà thì hư hỏng, đàn ông thì dâm bôn, một tụi văn sỹ thì đầu cơ, xảo quyệt.… Góp phần tạo dựng nên bức tranh xã hội toàn cảnh với sự xấu xa đó trước tiên phải nói đến các cây bút viết về nạn cờ bạc.
Khai thác sâu tệ nạn cờ bạc với nghệ thuật miêu tả cảnh đánh bạc, cảnh thua bạc cùng những thủ đoạn, không ai vượt qua Vũ Trọng Phụng. Cạm bẫy người là tác phẩm xuất sắc viết về chuyện đánh bạc. Cả một hệ thống ngôn từ của giới cờ bạc đã được đưa vào tác phẩm như “mòng”, “người đi săn”, “người hướng đạo”, “rồng xanh”, “cản”, “ba đạo binh”, “đánh kiện”, “nhị cập nhất”, “văn”, “sách”, “vạn”, “lộ tẩy”, “chang” , “phu”, “lưng”, “nọc”, “chầu rìa”, “đỏ”, “đen”, “quých”, “,... rồi “siệng” “láng”, “giác mùi”, “giác bóng”… Chưa nói đến các “ngón nghề”, ngay lượng ngôn từ này được Vũ Trọng Phụng đưa vào Cạm bẫy người cũng đủ chứng minh ông là bậc cao thủ viết về “nghề bạc bịp”. Những cách đánh bạc tiêu biểu mà thực chất là những thủ đoạn được Vũ Trọng Phụng miêu tả rất có nghề.Theo khảo sát của chúng tôi, có tới 29 thủ đoạn đánh bạc được Vũ Trọng Phụng đưa vào Cạm bẫy người. Có thủ đoạn đánh bạc trên chiếu bạc thì cũng có thủ đoạn triệt hạ con bạc ở ngoài đời. Cũng đủ cả, nào là “siêu hình học, thần linh học, tinh thần học...”, và có cả “cách cầu cứu đến...khoa học” ([13]). Có một cách mà người giàu tưởng tượng nhất cũng chịu thua là “cắm đinh vào bát nhang nhà nó” (tức con bạc đối thủ).
Điều đáng nói trong Cạm bẫy người là cờ bạc không còn là thú vui tiêu khiển nữa mà đã trở thành một nghề có tổ chức và có ông trùm hẳn hoi. Con bạc trong phóng sự không xuất hiện đơn lẻ mà có cả một lực lượng hùng hậu, sẵn sàng giăng bẫy. Cờ bạc trở thành quốc nạn, hành hoành khắp nơi. Chúng không những làm khuynh gia bại sản bao gia đình mà còn khiến bao kẻ tha hoá, biến chất, ham mê đỏ đen bỏ mặc con ốm chờ thuốc, bạn chờ áo, người chết chờ cỗ hậu. Tổ chức bạc bịp ấy hoành hành đã lâu trong xã hội nhưng vẫn được các nhà chức trách làm ngơ và hơn thế nữa các viên chức, công chức, những người bảo vệ pháp luật cũng tham gia vào tổ chức ma quỷ ấy làm nhiệm vụ “săn mòng”. Với Cạm bẫy người, Vũ Trọng Phụng không những nhìn hiện tượng cờ bạc từ bản chất của nó mà qua đó tác giả dựng lại một phần thực trạng xã hội và tình trạng lưu manh hoá của một bộ phận người trong xã hội. Vũ Trọng Phụng giống như một nhà xã hội học đi tìm bản chất vấn đề, nguyên nhân sâu xa của vấn đề và tỏ thái độ phẫn uất cực điểm đối với hiện tượng xã hội đó.
Đi liền với tệ cờ bạc là nạn nghiện hút. Khó biết nạn nghiện hút có từ bao giờ, chỉ chắc một điều là nó đã trở thành một tệ nạn xã hội mang tính băng hoại đạo đức nghiêm trọng, khi thực dân Pháp dùng chính sách “ngu dân” bằng “rượu và thuốc phiện”. Trong làng phóng sự Việt Nam lúc bấy giờ, viết về cảnh hút thuốc phiện, không ai viết hay hơn Nguyễn Tuân qua Ngọn đèn dầu lạc, Tàn đèn dầu lạc. Ngay tiêu đề phóng sự đã gợi về cảnh đám người là đệ tử của “nàng tiên nâu” đang say sưa cùng Ngọn đèn dầu lạc. Phong cách Nguyễn Tuân vẫn nhất quán một “cái tôi” trải đời. Trong phóng sự này, Nguyễn xưng “tôi” như muốn nói với bạn đọc rằng: “tôi” chứ không phải ai khác. Có thể là Nguyễn và cũng có thể là người trần thuật trực tiếp chứng kiến và trực tiếp hút, trực tiếp say. Nhờ cái tôi này mà chất phóng sự đậm đặc hơn, bản chất sự thật như phơi bày trước độc giả. Là nhà văn ưa con số cụ thể, trong Tàn đèn dầu lạc, Nguyễn Tuân đưa ra con số gây ngạc nhiên: từ tiệm hai bàn đèn đến tiệm hai chục bàn đèn, riêng Hà Nội lúc bấy giờ có tới “370 cái tiệm”. Chương đầu tiên của Ngọn đèn dầu lạc là “Vua tiệm băng hà” và chương cuối là “Chính hắn đấy”, viết về cái chết của một chủ tiệm và tác hại của việc hút “chơi”, “hút thử” thuốc phiện cũng là lời lên án của tác giả về sự xâm hại của thuốc phiện. Ngọn đèn dầu lạc và Tàn đèn dầu lạc là những ghi chép khách quan, thậm chí là lời tự thuật của tác giả cho nên khá chân thực và sinh động. Đọc tác phẩm của Nguyễn Tuân, ta không chỉ cảm nhận được sự day dứt vì trót sa ngã của những văn sỹ trẻ tuổi mà còn bắt gặp ở đây tâm trạng khủng hoảng cực độ vì bất mãn của thanh niên trí thức đối với xã hội. Một sự bất mãn không lối thoát mà đành lao vào nghiện hút, sống buông thả, sa đoạ, lừa dối, ganh ghét nhau... “Cái tôi” trải đời của Nguyễn Tuân cùng giọng văn vừa kiêu bạc vừa hài hước đã khẳng định nỗi đau bế tắc cuộc đời của tuổi trẻ thị thành.
Bằng giác quan của nhà xã hội học, Nguyễn Đình Lạp trong Thanh niên truỵ lạc, sau khi đưa ra con số “300 tiệm hút” đã nghiên cứu và phân tích sự phức tạp trong tâm lý thanh niên, chỉ ra những dục vọng thấp hèn của con người. Vì ham muốn, vị kỷ mà họ chìm sâu trong lỗi lầm và tội ác. Thanh niên truỵ lạc như một lời cảnh tỉnh lương tri về quan niệm sống. Viết về vấn đề này, mặc dù các tác giả không phải là các nhà chính trị nhưng người đọc vẫn cảm nhận được bản tính nhân đạo của các cây bút hiện thực, lo toan cho sinh mệnh đất nước, muốn bài trừ sự xấu xa.
Hệ quả của tệ cờ bạc và nghiện ngập là nạn trộm cắp. Cờ bạc, thua, dễ dẫn đến trộm cắp. Nghiện ngập, hết tiền, dễ sinh ra trộm cắp. Cuộc sống khốn khó cũng sinh ra trộm cắp. Càng nhiều tụ điểm cờ bạc, càng nhiều tiệm hút càng có nhiều trộm cắp… Viết về tệ nạn này cùng thời đã có tiểu thuyết Bỉ vỏ của Nguyên Hồng và một vài truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan như Thằng ăn cắp, Đồng hào có ma… Nhưng trong phóng sự, sự xông xáo năng động tiếp cận trực tiếp hiện thực của tác giả đã tạo nên giá trị của thể loại. Bàn về “dân làng chạy”, Trọng Lang là người có những trang phóng sự sắc sảo nhất. Điều đáng ghi nhận ở tác giả Trọng Lang là ông viết về những đứa trẻ tội nghiệp phải vào nghề ăn cắp với một tấm lòng nhân hậu. Ngay mở đầu phóng sự Trong làng chạy, bằng lối viết giản dị nhưng tràn đầy tình cảm, tác giả đã khiến người đọc cảm thông với những đứa trẻ “ma cà bông” không bố mẹ, không gia đình, không người bênh vực. Sống trong xã hội đầy cạm bẫy, những đứa trẻ luôn nghi ngờ lòng tốt của mọi người. Người trần thuật xưng “tôi” cho hai đứa trẻ đang đói “một hào bạc”. Thật lạ! chúng không lấy vì cho rằng “Bác đùa làm gì thế?”. Thì ra chúng sợ , “Sợ đến cả tấm lòng tử tế của loài người”. Bằng cái nhìn biện chứng, tiến bộ đầy nhân tính, nhà báo, nhà văn đã lý giải nguyên nhân sâu xa dẫn đến tệ nạn trộm cắp đương thời là do môi trường xã hội thiếu tình người.
Tác giả đã miêu tả các thủ thuật ăn cắp, làm trò ăn cắp với một kho từ ngữ phong phú của “dân làng chạy”: “ chạy”( ăn cắp), “yêu vỏ quạnh” (kiếm từ con cá lá rau), “cản” (che mắt), “chấm phố” (ăn hớt), “phích” (lỗi), “cớm cốc” (đội xếp ta), “bi tởm” (bà có của), “hiếc” (lấy), “đượi” (gái đĩ), “moi cá” (móc ví), “khai”(rạch túi), “nảy”(cắt khuy), “thăn”(nhét vào người).... Để nhấn mạnh sự xuống cấp trầm trọng về đạo đức, cũng như trật tự trong xã hội, bên cạnh một nghề quái gở “lấy Tây” của Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang viết Trong làng chạy kể về một nghề với đủ các mánh khoé. Với các chương như “Yêu vỏ quạnh’, “Một chợ ăn cắp”, “Bán áo”, “Ma cô”, “Một đảng chạy gia truyền”, “Một cụ đồ”, “Một tay ảo thuật”..., ông đã vẽ lên trước mắt ta một khung cảnh đô thị khốn khổ đầy ắp bọn ma cà bông, bọn ăn cắp, móc túi…:“Hai đứa trẻ đánh nhau. Một bà… sắp sửa can thiệp. Hai đứa xô nhau chạy vào bà. Cuộc đấu tan. Bà bước đi vài bước, bỗng kêu lên một tiếng: mười tám đồng trong túi, kẻ cắp đã moi mất lúc nào cũng không biết” ([14]). Trọng Lang cho rằng nguyên nhân của nạn trộm cắp là do sự bất công của xã hội. Cũng như Vợ lẽ nàng hầu, Trong làng chạy là tác phẩm để Trọng Lang gửi gắm sự thương cảm đối với những con người bơ vơ, không nơi nương tựa, bị xã hội xô đẩy, cùng đường nên phải chọn cái nghề hèn kém, nhưng đồng thời tác giả cũng thể hiện thái độ phê phán trước sự biến chất của họ. Họ trơ tráo hành nghề, lại còn “mở cả trường dạy nghề” và ăn cắp từ thượng vàng hạ cám. Trộm cắp hoành hành khắp nơi bất chấp cả phép tắc xã hội. Bên cạnh Trọng Lang, cũng viết về hiện tượng ăn cắp vặt, Hoàng Đạo đã dùng cái cười hài hước để phê phán sự bất công của công lý trong Trước vành móng ngựa.
Chú ý và quan tâm tới tệ mại dâm, một tệ nạn tràn lan trong xã hội như một bệnh dịch phá hoại thuần phong mỹ tục của dân tộc, nổi lên có các tác giả Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đình Lạp, Trọng Lang, Thạch Lam, Tam Lang.... Trong Thanh niên truỵ lạc, tác giả Nguyễn Đình Lạp đã cho chúng ta mấy con số giật mình:
Nhà cô đầu: 270 nhà, 1400 cô đầu
Tiệm nhẩy: 20 cái, 200 vũ nữ
Nhà thổ: 15 nhà, 200 gái
Nhà xăm : gần 100 cái...
Đi kèm đó là lời bình luận:
“- 5000 người làm nghề mãi dâm !
5000 cuộc đời vứt bỏ, bị giày xéo giữa những trận cười ! 5000 tấm linh hồn vất vưởng như ngọn đèn trước gió, sống không một lời an ủi, chết không một lời khóc than” ([15]).
5000 gái mại dâm trên tổng dân số 18 vạn người ở Hà Nội. Con số này đủ nói lên hệ quả của phong trào Âu hoá, của chiến tranh thuộc địa kéo dài, sự thối nát của xã hội thực dân nửa phong kiến. Người tiêu biểu viết về nạn mại dâm phải kể đến Tam Lang - tác giả của Đêm sông Hương (1938). Với cái nhìn sát thực, tác giả đã phanh phui sự thật của nghề “bán hoa” giả dạng trên sông Hương. Cách “sài sang” là ở các cô gái tưởng như khuê các, sống những nơi phong lưu đài các (nhưng thực chất đó chỉ là những lầu xanh) và chỉ những bậc vương giả mới đủ sức hái loại hoa này. Cách mạt hạng, rẻ rúng hơn là ở những cô gái điếm hạ lưu có hai nghề “ngỏ” và nghề “kín”. Nghề ngỏ là bán quà vặt, hàng rong làm vào ban ngày và tranh thủ tìm mối khách. Nghề kín là nghề “bán hoa” khi đêm xuống. Đêm sông Hương đã lên tiếng cảnh tỉnh với xã hội về một tệ nạn đang trá hình dưới mọi hình thức.
Cùng với Tam Lang là Trọng Lang. Tác giả của Hà Nội lầm than (1937) đã không ngần ngại lên tiếng phê phán thói dâm dục ở xã hội đương thời. Nhưng với một điểm nhìn khác, Trọng Lang không đi miêu tả cảnh mua bán hoa mà đi sâu khai thác đời tư với tất cả sự cực nhọc, ê chề, đớn đau của “một hạng phụ nữ nô lệ tạm thời trong những đêm mua vui”. Trọng Lang coi đây là một lớp người rất đáng quan tâm và viết về họ trong không gian hành nghề đầy sự ăn chơi sa đoạ, tanh tưởi bốc mùi xác thịt. Họ là nô lệ của đồng tiền, của miếng cơm manh áo, bị thiên hạ hành hạ xác thịt vì vui thú: “Đêm nào cũng như đêm nào, bạ với ai cũng phải nằm, bạ với ai cũng phải tình với nghĩa.” ([16]).Đi đôi với lối miêu tả tình trạng khốn khó của các cô gái giang hồ, ngòi bút tả chân của Trọng Lang cũng lột tả sự tàn bạo của các ông chủ, bà chủ cũng như tất cả những gì dơ bẩn nhất của xã hội. Đó chính là tình con người, tình đồng loại bị chà đạp. Có tiền, khách làng chơi có quyền hành hạ và coi gái giang hồ như đồ vật. Toàn bộ Hà Nội lầm than bộc lộ dụng ý phê phán xã hội sâu sắc.
Bằng tấm lòng cảm thông, Tam Lang và Trọng Lang cho rằng hầu hết gái bán dâm phải hành cái “nghề” mạt hạng này là do túng đói, thất nghiệp. Nhưng theo điều tra của Thạch Lam trong Hà Nội ban đêm (1933) thì không hẳn như vậy. Vẫn có những cô xinh như mộng nhưng lười biếng mà lại cần tiền nên bán dâm. Lại có những mụ nạ dòng, chồng con đàng hoàng tử tế mà vẫn đi “kiếm khách” để trả nợ cờ bạc. Lại có những gái tân thời lãng mạn đầy ắp yêu đương vì quá đà, đến nỗi phải đi “đứng đường”... Tìm các nẻo đường vào nghề mại dâm, Hà Nội ban đêm của Thạch Lam gián tiếp khắc hoạ bức tranh xã hội thực dân nửa phong kiến Việt Nam - một xã hội mà đồng tiền có sức mạnh vạn năng, thui chột những giá trị đẹp đẽ của con người.
Viết kỹ và gây ấn tượng sâu về tệ nạn mại dâm cũng là Vũ Trọng Phụng. Họ Vũ đã làm một cuộc “khảo cứu” về mại dâm, coi mại dâm là “cái xấu của thành phố”. Trong Vài con số và một ít lịch sử, tác giả đã đi tìm lịch sử của cái nghề bất đắc dĩ này: “Trước năm 1900, hình như nhà nước đặt nó ở phố Hàng Cân, nghĩa là mới chỉ có, nói theo ngôn ngữ bây giờ là “một tụ điểm...” ([17]). Lục xì của Vũ Trọng Phụng không những truyền dạy bài học vệ sinh cho nghề bán xác thịt mà còn chỉ ra nguyên nhân của nghề hoặc do thất tình, hoặc do khủng hoảng kinh tế. Dù cho là gái quê hay gái thị thành, dù hư hỏng hay đói khát khi đã bỏ nhà ra đi giữa chốn thành thị cũng đều mắc vào lưới nhện của bọn chủ tiệm thuốc, bồi săm… đưa về làm việc có môn bài ở 400 cái phòng cho thuê rải rác khắp Hà Nội. Người viết phóng sự “tôi” đi sâu vào tận cùng các ngõ ngách củanhà Lục xì, tìm hiểu về hoàn cảnh của gái bán dâm với bao cảnh ngộ đáng thương: nghèo, đói, thức đêm, lao lực... và nhất là bệnh giang mai. Công lao của Vũ Trọng Phụng và các nhà phóng sự là cảnh tỉnh mọi người, kêu gọi mọi người cùng nhau ngăn ngừa, phòng tránh tệ nạn mãi dâm, khôi phục lại thuần phong mỹ tục vốn có của dân tộc với ý tưởng cải tạo: “Hiện giờ, phủ toàn quyền còn đương nghiên cứu về những đạo luật đàn áp bọn người sống vì nghề “nguyệt hoa ong bướm” và những nghị định đặt thêm bệnh viện, nam nữ học đường... Đến ngày ấy, trong xã hội Việt Nam sẽ có nhiều sự thay đổi...” ([18]). Trong phóng sự, Vũ Trọng Phụng cũng đã nêu bật sự băng hoại về đạo đức, lối sống của những cô đầu, gái nhảy, đầm thật, đầm lai, me Tây, gái đĩ có giấy… Họ đều coi đây là một nghề.
Nghề “lấy Tây”, theo Vũ Trọng Phụng đây cũng là một nghề mại dâm, nhưng mại dâm dài hạn, mại dâm có lá bùa chắn là các đức ông chồng đủ loại Tây. Trong phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây, bằng lối xâu chuỗi các sự kiện đời tư của các me Tây ở Thị Cầu, cùng cánh “cự môn thê thiếp”, Vũ Trọng Phụng đã cho người đọc thấy những cuộc hôn nhân không có tình nghĩa. Các “me” lấy chồng, cũng thật đơn giản vì muốn kiếm một “nghề” có thu nhập tương đối ổn định. Mỗi lần lấy chồng là một lần có “công ăn việc làm” tạm thời. Tác giả đã coi mối quan hệ ấy chỉ là mối quan hệ dựa trên cơ sở trao đổi khi “người đàn bà cần tiền và người đàn ông chỉ cần đến nhục dục”.
Nhìn tệ nạn xã hội đô thị dưới góc độ đạo đức học, các nhà phóng sự Việt Nam 1932-1945 thấy ở đó sự băng hoại đạo đức và sự tha hoá nhân cách của một bộ phận người trong xã hội. Sự khủng hoảng kinh tế của đất nước, sự du nhập của lối sống phương Tây, lối sống vị kỷ, hưởng lạc, nhu cầu tồn tại trước xã hội lang sói là những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự trượt dài xuống dốc sâu của sự băng hoại.
Tuy không phải là nhà đạo đức học nhưng Vũ Trọng Phụng tỏ ra rất sắc sảo khi đề cập vấn đề này. Trong Cạm bẫy người, tác giả không chỉ đơn thuần nói đến hiện tượng cờ gian bạc lậu, tác hại của cờ bạc đối với xã hội mà xa hơn tác giả muốn lên tiếng cảnh tỉnh lối sống vì đồng tiền. Đồng tiền, món lợi trước mắt đã khiến bọn ham đánh bạc trở nên lừa lọc, ám hại nhau. Chúng chăng lưới nhện khắp nơi, săn bắt “ mòng”, chúng tính toán chi ly từng nước bài, thậm chí làm giả cả quân bài. Ngay trong làng bịp, những người cùng chí hướng cũng không còn tin tưởng nhau mà luôn tìm cách sát phạt nhau, triệt hạ nhau. Cờ bạc đã len lỏi vào nhiều gia đình, làm lung lay mối quan hệ huyết thống bền chắc. Một đứa con được ăn học tử tế đã không ngần ngại biến bố mình thành “mòng” chỉ vì ông bố luôn sẵn lòng đánh bạc nhưng lại rất chi ly với con. Ông cháu quý tử bồi An sẵn lòng cho ông chú máu me cờ bạc vào “chòng” bạc, mặc chú đem những đồng tiền cuối cùng ra Hà Nội cân sâm cho đứa con đang hấp hối. Lột đến đồng bạc cuối cùng, bọn bạc bịp còn triết lý “Mình không xơi thì cũng đến lượt thằng khác chúng nó xơi”. Tham Ngọc một tay cờ bạc có cỡ, xuất thân là người ở của ông Phán nhưng thông minh, có năng khiếu cờ bạc đã trở thành một tay bịp có cỡ, một tay lưu manh sẵn sàng lừa thầy, phản bạn và lòng dạ ti tiện. Ba Mỹ ký vốn là tay chế tác vàng bạc lành nghề, vì cờ bạc sinh lười, làm môn đồ chuyên chế tác con bạc giả cho bọn ấm B.. Những môn đồ của bạc như ông Nguyễn Đình Mầu, những công chức lương tháng 200 đồng… đều tự nguyện lao vào chiếu bạc. Bằng con mắt sắc sảo, cẩn trọng, Vũ Trọng Phụng đã lật tẩy tất cả sự tinh vi của cờ bạc cũng như ý nghĩa phi đạo đức của hành vi ấy. Làng cờ bạc đã trở thành làng bịp với đầy đủ ý nghĩa của nó. Qua hiện tượng cờ bạc, Vũ Trọng Phụng đã dựng lại thực trạng tệ nạn xã hội và quan trọng hơn nữa là tình trạng lưu manh hoá, sự lụi tàn về nhân cách của một số người.
Phóng sự 1932-1945 còn đề cập sự băng hoại về đạo đức của giới chủ nhà. Đây là lớp người có cuộc sống phong lưu, đài các nhưng bản tính lại vô cùng thấp hèn. Qua lời kể của bọn cơm thầy cơm cô, thế giới chủ nhà hiện lên thật tầm thường. Đối với họ, miếng ăn, tiền là trên hết, quan hệ máu mủ chỉ là thứ yếu: một gia đình nọ có 6 người. Đến bữa, họ ăn cùng mâm với nhau nhưng mỗi người đều có niêu cơm và thức ăn riêng. Một hôm, người bố vô tình ăn “nhầm” một miếng chả rươi, người con (ông phán) đi làm về thấy thiếu đã gắt ầm lên, gọi bố là thằng nọ, thằng kia: “Thằng thuê gác ngoài, thằng thuê gác trong mà… nhầm, kể cũng lạ.” ([19]). Lại có một ông chủ nuôi chó thì tử tế nhưng nuôi bố thì vô đạo đức. Chó thì suốt ngày ăn thịt với súp còn bố thì áo nâu, quần vá, làm lụng cả ngày. Ông bố đánh chó (vì trúng kế đứa ở), thế là ông con chửi tiên sư bố. Quan hệ gia đình trong giới chủ cũng thực buồn cười. Rất nhiều cảnh vợ và chồng cùng ngoại tình, hoặc đối xử với nhau thô bỉ. Lại có những chủ nhà có quan hệ dâm bôn với đứa ở… Sự băng hoại về đạo đức, nhân cách của bọn người có quyền, có tiền được chính những người đi ở nhận xét: “Càng những quân giàu có, thì lại càng keo bẩn, chó đểu, không ra loài người”.
Đi sâu vào làng me Tây, gặp gỡ các nhân chứng, tác giả phát hiện ra nhiều nguyên nhân vào nghề lấy Tây. Dù có vì nguyên nhân nào thì các me cũng chỉ coi các ông chồng là cái “tủ bạc”. Mối quan hệ vợ chồng ở làng me Tây dựa trên giá trị của đồng tiền.Giá trị của tác phẩm không phải dừng lại ở tình thương le lói của tác giả đối với thân phận thấp hèn của người phụ nữ, nạn nhân của cuộc chiến tranh thuộc địa, mà ý nghĩa sâu sắc hơn là lời cảnh tỉnh toàn xã hội về sự tha hoá lương tâm, đạo đức của lớp người này. Bộ mặt trơ lì của bà Kiểm Lâm trong đêm tân hôn là một trong những dẫn chứng đắt giá biểu thị sự xuống cấp về nhân phẩm: “Cái mặt thản nhiên đến nỗi tôi thấy nó cứ trơ như đá, vững như đồng... cứ gan lì tướng quân như mặt Từ Hải lúc chết đứng... Tôi chợt thấy trong trí nhớ lại hiện ra cái cảnh tượng bà Kiểm Lâm bị anh chồng Đức đánh đập. Cái mặt ấy với cái mặt bây giờ của bà cũng thản nhiên như vậy mà thôi.” ([20]). Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng đã dóng lên một hồi chuông cảnh tỉnh về sự băng hoại của lối sống, của phẩm giá con người, góp phần đánh thức những thiên lương vốn bị cuộc sống mưu sinh làm chìm lấp.
Những me Tây, những tay cự phách trong làng bạc bịp chỉ vì dục vọng cá nhân, vì cuộc sống an nhàn của bản thân mà trượt dài trên con đường băng hoại về nhân tính là những mảng tối sẫm trong bức tranh ảm đạm đô thị Việt Nam. Sự băng hoại ấy đi ngược lại thuần phong mỹ tục của dân tộc. Nó là hệ quả tất yếu của lối sống lai căng, đua đòi. Bằng cách viết phóng sự có duyên, dí dỏm, Thạch Lam trong Hà Nội ban đêm cũng đã góp một góc nhìn về tệ nạn mãi dâm trong xã hội. Thạch Lam qua phóng sự đã cho ta gặp gỡ các cô gái quê xinh đẹp: cô Nam, cô V.. Họ hiền thục, lương thiện, nhưng cũng không thoát khỏi vòng quay ma quái của đồng tiền. Vì miếng cơm, manh áo các cô đã đánh đổi giá trị tinh thần đẹp đẽ nhất của mình. Nhiều mệnh phụ phu nhân xinh đẹp, quý phái vì cờ bạc mà lừa chồng lao vào vòng dâm bôn. Qua Hà Nội ban đêm ta thấy ở Thạch Lam một nỗi buồn man mác, bàng bạc. Dù còn ít, nhưng tác phẩm mang tính dự báo về quá trình biến đổi nhân cách của con người do tác động của hoàn cảnh, của đồng tiền.
Vấn đề tha hoá của lớp người cùng khổ cũng đã được đề cập nhiều trong văn học Việt Nam 1932-1945. Nhân vật Chí Phèo của Nam Cao là điển hình của người nông dân bị bóc lột cùng cực đến nỗi phải bán cả nhân hình đến nhân tính. Các nhà phóng sự cự phách như Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Trọng Lang, Nguyễn Đình Lạp qua thực trạng xã hội cũng đã xoáy sâu vào vấn đề tha hoá của lớp người “dưới đáy”, nêu bật tình cảnh tha hoá, chỉ ra nguyên nhân tha hoá là do sự bất công tàn bạo của giới chủ, do cuộc sống mưu sinh khốn khó, do hoàn cảnh xã hội không tìm thấy lối đi. Qua đó đòi hỏi xã hội phải đổi thay căn bản để cứu lấy con người. Nhân vật cái Đũi trong Cơm thầy cơm cô bị thằng Tây hãm hiếp và những nghĩ suy, hành động của nó sau sự kiện hãm hiếp là một ví dụ chứng minh cho sự tha hoá về mặt nhân cách. Cái đáng khâm phục ở Vũ Trọng Phụng là ông thẳng thắn phanh phui tình trạng tha hoá đang làm xói mòn nhân tính con người. Và đó mới là điều đáng lên án gấp ngàn lần tội ác bóc lột con người. Tội ác làm cho con người tha hoá là tội ác ghê tởm nhất: “Thì ra, sau khi bị cái tai hoạ của chú oẳn, con bé lại được lợi trông thấy vì hiểu biết “sự đời” đến nỗi một cô gái quê hiền lành mà trở lên một ả thiện nghệ trong việc khiêu dâm và mãi dâm. Than ôi! Ta đi hiếp dâm người ta là một tội ác đấy ư? Thưa không ạ! Ta hiếp dâm người... Ấy thế mà có khi đã dậy cho người một bài học về “thực nghiệp” rất hữu ích và rất chóng có kết quả nữa” ([21]). Sau sự kiện bị hiếp dâm ấy, cái Đũi luôn mong muốn thành cô đào, bà ký, bà phán để được bước chân vào giới thượng lưu, để được sống cuộc đời trác táng.
Bên cạnh cái Đũi, trong Cơm thầy cơm cô, Vũ Trọng Phụng còn nói đến số phận, tâm tính của nhiều đứa trẻ khác. Những đứa trẻ nhà quê vốn hiền lành, chất phác, chịu thương chịu khó, bỗng dưng trở thành tay anh chị trong giới cơm thầy cơm cô, lừa dối chủ nhà thiện nghệ, nói xấu chủ nhà như điên, bởi chúng thường xuyên bị lăng nhục, bị đối xử tàn bạo. Hành vi tự vệ bản thân đã khiến chúng trở nên lưu manh, côn đồ:
“Có những con sen được ông chủ quý hơn vợ.
Có những thằng nhỏ bỏ thuốc độc định giết cả nhà bà chủ.
Có những anh bếp nhổ đờm vào nồi cá kho.
Có những thằng xe được ngủ giường Hồng Kông với bà chủ.
Có những quân đốt nhà của chủ…” ([22]).
Nhìn thấy sự bất công, tàn nhẫn của xã hội, Tam Lang đã tỏ thái độ thương cảm chân thành đối với những người phu xe. Trong Tôi kéo xe, Tam Lang đã nhiều lần lên tiếng bênh vực cho hành vi của anh phu xe. Vì thiếu tiền đóng thuế xe, anh Tư bị bọn cai xe đánh đập dã man. Sau trận đó, anh nhận thấy xung quanh anh là một xã hội chó đểu, tất cả vì đồng tiền: “Ngoài đồng tiền không còn có cái gì hơn. Nhân đức lễ nghĩa… vứt đi, vứt đi hết” ([23]). Mất hút trong lối sâu tha hoá anh trở thành ma cô, dẫn gái vào nhà săm và khi có tiền thì lao vào vòng truỵ lạc: “Một đêm vớ được hai đám là mình đã phè phỡn, say sưa, rượu nốc hàng chai, phiện hút thả cửa” ([24]). Có thể hạn chế của Tôi kéo xe là Tam Lang đã tỏ ra bênh vực người lao động một cách quá lộ liễu ngay cả những thói hư, tật xấu của họ, nhưng đằng sau thái độ ấy là lời cảnh báo đối với xã hội. Chính xã hội bất nhân, lối sống đua đòi, hưởng lạc đã biến nguời lao động thật thà, chất phác, thành kẻ lưu manh. Phóng sự Làm tiền của Trọng Lang cũng là lời cảnh báo cho sự băng hoại về lối sống của thanh niên thị thành. Họ ăn chơi, hưởng thụ và sẵn sàng làm mọi công việc môi giới miễn là có tiền. Sự tha hoá, biến chất của những người trẻ tuổi, của lớp văn sỹ còn được thể hiện qua Thanh niên truỵ lạc của Nguyễn Đình Lạp, Ngọn đèn dầu lạc, Tàn đèn dầu lạc của Nguyễn Tuân. Lớp người trẻ tuổi này sống không mục đích, không lý tưởng, chạy đua đi tìm khoái lạc ở những dục vọng tầm thường. Họ tha hoá bởi chính họ muốn thế, bởi họ không tìm ra lối thoát cho chính cuộc đời.
Hãy cứu lấy những con người cùng khổ khỏi tình trạng tha hoá! Giá trị nhân văn của phóng sự Việt Nam 1932-1945 là ở chỗ ấy. Nó góp phần làm thức tỉnh lương tri con người, kêu gọi mỗi người hãy vì giá trị của con người mà hành động.
Với số dân hơn 90% sống ở nông thôn, trước cách mạng, làng quê Việt Nam là tâm điểm quan tâm của nhiều tầng lớp trong xã hội. Cùng với chính sách khai thác thuộc địa, mở rộng thị thành, thực dân Pháp cùng bọn phong kiến chủ trương “bảo tồn quốc tuý”, để dễ bề thực hiện chính sách ngu dân, dễ bề cai trị. Chúng đã dùng bọn bồi bút tư sản như Bùi Đình Tá (tác giả của Một làng An Nam, viết năm 1937), Đỗ Hữu Thịnh… viết sách ca ngợi chính sách cai trị của chúng ở nông thôn đồng thời hô hào giữ lấy thuần phong mỹ tục, cổ hủ có từ hàng ngàn năm nay ở làng quê. Nhiều trí thức tiến bộ đã lên tiếng phản đối, bởi hơn ai hết họ hiểu rằng giữ lấy lề thói cũ là thêm nhiều tầng áp bức cho đôi vai gầy xơ xác của người nông dân. Bên trong luỹ tre xanh gầy guộc, những mái nhà tranh xiêu vẹo, trống không kia là cuộc sống nghèo nàn, cực khổ, bởi sưu cao thuế nặng, bởi những phong tục tập quán cổ hủ. Nhiều người trong số họ đã mạnh dạn lên tiếng trước văn đàn, báo giới về bộ mặt thật của nông thôn. Cùng với hoạt động của hội Hướng đạo, hội Ánh sáng của Tự lực văn đoàn ra đời (năm 1937) có ý định thay dần nhà ổ chuột lụp xụp, tối tăm của nông dân bằng ngôi nhà cao ráo đầy ánh sáng. Ông chủ tịch hội - Nhất Linh đã từng khẳng định: Đoàn Ánh sáng sẽ là đạo quân tiên phong đi phá huỷ các thành trì của sự chênh lệch hạnh phúc trái đạo lý, nó giam cầm anh chị em vào một cuộc đời truỵ lạc, tối tăm, buồn tẻ. Đoàn Ánh sáng sẽ là bậc thang thứ nhất giúp anh chị em thoát ly ra khỏi các mức sống hiện tại, mức sống của cầm thú. Hội Ánh sáng ngoài việc quyên tiền để xây nhà “ánh sáng” còn tham gia các hoạt động cứu tế, phát chẩn cho nông thôn, vùng bị lũ lụt. Mặc dù đây là hội từ thiện có tính chất cải lương tư sản nhưng những gì họ làm được cũng bớt phần tối tăm cho cuộc sống lam lũ. Trên tuần báo Phong hoá, Ngày nay của họ liên tục đăng tải các tiểu thuyết có nội dung cải cách xã hội nông thôn như Gia đình của Khái Hưng, Con đường sáng của Hoàng Đạo hoặc chống đối lại sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến như Đoạn tuyệt, Lứa đôi… Đặc biệt những thiên phóng sự của Trọng Lang như Làm dân (1938); Xôi thịt (1945) và của nhiều cây bút khác viết về cuộc sống ngột ngạt, tối tăm sau luỹ tre làng được đăng trên Phong hoá, Ngày nay đã gợi niềm trắc ẩn sâu xa trong lòng người đọc. Cùng Tự lực văn đoàn với cái nhìn cảm thông về cuộc sống lam lũ của dân quê là cảm quan tiến bộ của các nhà văn hiện thực.
Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy, so với các phóng sự 1932-1945 viết về đô thị, số lượng phóng sự viết về thôn quê chiếm số lượng ít, nhưng vấn đề mà các phóng sự đề cập lại có giá trị quan trọng, đánh vào thành trì của chủ nghĩa thực dân phong kiến.
Viết về cảnh bùn lầy nước đọng và cuộc sống khổ cực ở thôn quê không ai vượt qua được Ngô Tất Tố và chỉ có Ngô Tất Tố mới là người am tường nhất, sâu sắc nhất về “địa hạt này”. Bên cạnh Ngô Tất Tố là Hoàng Đạo, Nguyễn Đình Lạp, Trọng Lang... Làng quê Việt Nam trong con mắt của các nhà phóng sự hiện lên vô cùng tiêu điều, xơ xác. Bên trong mái đình cong cong, sừng sững giữa làng ấy không phải chỉ có những đêm hội làng, những cuộc đình đám tháng giêng, tháng hai mà chính chốn đình trung ấy là nơi bọn cường hào, quan lại tranh giành nhau từng miếng ăn, từng chỗ ngồi, rồi tệ cờ bạc, hút sách…, tiếng tù và thúc thuế thay cho tiếng trống chèo. Hủ tục làng quê cùng cảnh sưu cao thuế nặng đã đè đầu, cưỡi cổ người nông dân, khiến họ quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” mà đói khổ, túng bấn vẫn hoàn cùng quẫn.
Mặc dù viết về nhiều hạng người trong xã hội, nhưng bằng cảm quan nhanh nhạy của một nhà báo, một nhà xã hội học, khi viết về nông thôn Việt Nam, Trọng Lang đã có những phóng sự đầy giá trị. Làm dân và Xôi thịt là hai tác phẩm điều tra về cuộc sống tù túng, cực khổ của người thôn quê. Trong phóng sự của Trọng Lang, làng quê hiện lên là những mái nhà dột nát, xiêu vẹo: “… Tôi tìm vào xem mấy túp lều tranh, “mọc” quanh làng ẩm thấp, hôi hám như nấm độc, những chỗ đi về đã gần một thế kỷ của cái nghèo xơ xác, nhưng kín đáo” ([25]). Trú ngụ trong ngôi nhà hôi hám đó là những con người nghèo đói, rách mướp “Ngay cổng giữa hai đầu gối “tầm dại” đầy mốc và ghét trắng, khô như ướp muối, tôi thấy nhô lên một cái đầu bạc… vì cái đầu và đôi gối là của ông cụ chủ nhà đó, ăn vận theo lối ăn mày nhà quê, nghĩa là lưng phủ khố tải, dưới đeo khố bao”. Làm dân là những điều tra về cuộc sống của những dân đen. Họ sống trong đói nghèo, rách nát, trẻ con không có tuổi thơ; người già đau ốm không thuốc men; người lớn, cơm không có ăn, khoai không đủ ấm bụng, rồi thói quen uống rượu, tệ ăn cắp vặt, hút thuốc phiện… Bên cạnh đólà những điều tra về những việc xảy ra ở chốn quan trường với thói ăn chơi, ăn đút lót của các quan lớn, bé… Xét về cấu trúc, tác phẩm là tập hợp những điều tra về những sự việc không mấy liên quan đến nhau nhưng nhìn tổng thể, bằng giọng kể hài hước nhẹ nhàng, Trọng Lang bộc lộ niềm cảm thông tới cuộc sống cực khổ của người thôn quê. Mặc dù khi truy tìm cội nguồn của cái khổ ấy, tác giả lại cho rằng dân khổ vì ngu muội, thấp hèn. Sau Làm dân là Vợ lẽ nàng hầu, Xôi thịt cũng viết về cuộc sống tù đọng ở thôn quê với những hủ tục lạc hậu. Những tác phẩm này không phụ hoạ theo xu hướng “phục cổ” đang lan tràn trong xã hội khi đó mà phần nào đã phơi bày được mặt trái của xã hội nông thôn sau luỹ tre, trong sân đình.
Nhìn dân quê bằng con mắt trân trọng, cảm thông sâu sắc, công đầu thuộc về Ngô Tất Tố, Nguyễn Đình Lạp. Bằng cảm quan tiến bộ của một nhà nho yêu nước, sinh ra và lớn lên ở nông thôn, hàng ngày, hàng giờ chứng kiến bao cảnh bất công ngang trái ở chốn đình trung, cảnh “đầu tắt mặt tối mà cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc” của người nông dân, ngay từ năm 1931, trên báo Đông phương của chủ bút Mai Du Lân, với bút danh Lộc Hà, Ngô Tất Tố đã tiến hành “cuộc điều tra về phong tục các làng, về việc đình trung ở thôn quê”. Cuộc điều tra xoay quanh bốn vấn đề chính: “Phong tục đồi bại ở thôn quê; những đám kiện cáo, ẩu đả vì tranh giành ngôi thứ trong đình mà ra; tư tưởng quyến luyến quê hương của người nhà quê; thần tích hoang đường của các đình làng”. Cuộc điều tra này là cơ sở đầu tiên để 8 năm sau (năm 1939) trên báo Con ong, ông cho đăng dần Tập án cái đình và tiếp năm sau trên Hà Nội tân văn lại xuất hiện Việc làng.
Hưởng ứng phong trào hướng về nông thôn do Tự lực văn đoàn khởi xướng, năm 1938, Trọng Lang có phóng sự Làm dân đăng trên báo Ngày nay, thì cùng năm đó trên Thời vụ báo, Ngô Tất Tố có phóng sự Làm no hay cái ăn trong những ngày nước ngập. Trong phóng sự, kiếp sống lầm than, đói khổ của người nông dân được phác thảo một cách chân thực, khách quan. Tác giả chọn ngày ngập nước đến thăm gia đình bác Ba Tuy để trực tiếp đối thoại với nhân vật. Hình ảnh bác Ba Tuy cùng ngôi nhà ngập nước hiện lên thật thương cảm: “Nhìn vào bên trong có ba gian nhà tranh xiêu lật lại đằng sau. Trước nhà, biệt ra một khu vuông vắn như cái ao, tôi đoán chừng đó là cái sân. Trước sân đóng bốn cái cọc tre, trên bắc cái chõng, chiếc rổ đeo lủng lẳng một bên, chiếc sào nó ghệch lên thành chõng. Phía dưới là một cái mảng ghép bằng bốn cây chuối. Từ cái chõng đi vào trong nhà có một cái cầu tre vắt ngang” ([26]). Trong cái cảnh điêu tàn ấy, trú ngụ những con người: “Một người đàn ông vóc rạc hom hem, đầu trọc tếu, ngồi thu hình trong chiếc bành tô rách mướp, nét mặt đăm đăm nhìn xuống tăm nước đục lờ… Mấy đứa trẻ lau nhau, nghe tiếng người lạ chen chúc nhau thò cổ ra trước mái tranh mà nhìn. Những cái bộ mặt gầy còm hốc hác ấy như thiếp một màu vàng lợt, làm nổi những cặp mắt tròn lờ đờ, đần độn”([27]). Từ đầu đến cuối tác phẩm chỉ là những đối thoại giữa tác giả và nhân vật. Phải chăng tác giả muốn là người đưa tin khách quan để người đọc tự cảm nhận hiện thực, tỏ thái độ trước cuộc sống không chỉ khổ sở vì những luật tục vô lý nơi góc chiếu sân đình mà còn khốn khổ vì những chuỗi ngày cực nhọc lần hồi kiếm ăn. Cái đói trong những ngày giáp hạt, trong những ngày ngập nước vì vỡ đê cũng là cái đói thường trực quanh năm, triền miên từ năm này qua năm khác. Ở Làm no, mặc dù tác giả chỉ đóng vai là một thư ký trung thành của thời đại, điều tra và ghi chép khách quan, nhưng bên trong đó là thái độ thương cảm đến khôn cùng.
Tập án cái đình và Việc làng của Ngô Tất Tố là hai tập phóng sự đặc sắc nhất nói về cuộc sống tù túng, bùn lầy nước đọng và khổ cực của người dân thôn quê.
Tập án cái đình là tập hồ sơ về các ông Thành Hoàng làng trong các làng Việt cổ. Theo điều tra của tác giả thì những ông Thành Hoàng làng này lại là những ông có lai lịch không rõ ràng hoặc ngang ngược, hoặc chết đường, thậm chí cả ông “Toóng” bốn chân. Phóng sự đã lột tẩy bộ mặt thật của thực dân phong kiến, chúng đã lợi dụng sự mê muội của dân chúng mà bày đặt các trò mê tín, buộc họ phải thờ cúng, cung phụng khiến cuộc sống vốn đã khốn khó lại càng trở nên khốn khổ. Việc làng là lời cảnh báo về những luật tục vô lý ở làng quê mà bọn thực dân phong kiến muốn khôi phục và duy trì. Trong hai tập phóng sự nói trên, Ngô Tất Tố đã sử dụng âm thanh như một nghệ thuật hiển thị cho cuộc sống tù túng, chật hẹp, khổ cực của người nông dân.
“Cánh đồng trước đình bỗng nghe có tiếng ầm ầm...”
“Tiếng cái trong đình thúc mau như trống hộ đê. Tù và thổi liên thanh bất chỉ”.
“Đuốc, gậy, tù và, trống cái nhất tề chạy theo với người tiếng reo rầm rầm” (Mỗi năm một lần đánh đuổi Thành Hoàng).
“Tiếng trống cái và tiếng trống con ầm ầm thúc ở các ngõ”.
“Tiếng reo đồng thời nổi lên ồn ồn với những tiếng ti-u của cái hiệu sừng, hiệu ốc” (Cuộc thi giết lợn).
“Trống ngũ liên càng thúc dữ dội, tù và vẫn kế tiếp nhau rúc từng hồi dài... Những tiếng thét đánh, thét trói vang một góc trời” (Đuổi giặc cho thần)...
Âm thanh chủ đạo trong phóng sự Ngô Tất Tố là âm thanh của tiếng trống, những hiệu tù và. Đó có thể là tiếng trống báo hội lễ vào mùa, tiếng trống mời gọi mọi người ra đình hội họp và cũng có thể là tiếng trống, tiếng tù và thúc sưu thuế... Trong phóng sự Ngô Tất Tố, tiếng trống có đủ mọi ý nghĩa, nhưng chủ yếu là mang ý nghĩa biểu tượng cho quyền lực và là quyền lực của sự độc đoán, gia trưởng, thúc ép...
Đọc Tắt đèn, chúng ta bị ám ảnh bởi âm thanh của tiếng chó sủa. Những tiếng “chó sủa vang khắp xóm”, “tiếng chó sủa xô xát”... Tiếng chó sủa như cộng hưởng cùng với tiếng thét đánh, thét trói của bọn lý dịch, cường hào quát nạt người thiếu sưu càng làm cho không khí thêm náo loạn, căng thẳng, ngột ngạt. Tiếng chó sủa không chỉ vang động trong Tắt đèn, mà trong những trang phóng sự của nhà văn, nó là biểu tượng của quyền lực đen tối, biểu hiện cho không khí nặng nề của cảnh bùn lầy nước đọng như đã có từ ngàn năm. Nhưng khác với Tắt đèn, âm thanh chủ đạo trong phóng sự Ngô Tất Tố là tiếng lợn.
“Sau đình có tiếng eng éc…” (Được một trai, mất ba lợn - Tập án cái đình)
“Tiếng hô vừa dứt, luôn đến tiếng kêu eng éc!” (Lợn anh, lợn em - Tập án cái đình)
…
Xét ở phương diện hình ảnh, để biểu hiện cảnh bùn lầy nước đọng tù túng, ngột ngạt, Ngô Tất Tố luôn cho xuất hiện nhân vật đám đông. Nhân vật trong phóng sự Ngô Tất Tố hầu như không bộc lộ thế giới nội tâm mà là nhân vật của hành động, luôn sống với thế giới bên ngoài. Đó là một đám đông “hành lễ”: “Đám người cầm đuốc tức thì rẽ ra hai hàng và đứng thẳng băng trước đình như hai dẫy cột đèn, làm cho sân đình thành một đoạn đường cái. Mấy trăm gậy tre nhất tề vừa múa vừa theo đoạn đường giữa hai hàng đuốc nhẩy vào cửa đình” ([28]). Đó là những toán rước: “Một toán, hai toán, ba toán, bốn toán. Hai phía đầu đình cả bấy nhiêu toán lần lượt tiến vào” ([29]). Đó là một đám người ăn vạ: “Bốn người một cỗ, tám người hai cỗ” ([30]). Đó là một đám người “đuổi giặc cho thần”: “Hùng dũng như đám đánh cướp, các ông ấy nhất tề đuổi theo hai người đang bưng hai mâm xôi, sỏ mà bỏ chạy” ([31]). Rồi một đám ma (lớp người bị bỏ sót - Việc làng), một đám vào ngôi (Một đám vào ngôi - Việc làng), một vụ án mạng (Cái án ông cụ - Việc làng)... Tính chất cơ giới của đám đông trong phóng sự của Ngô Tất Tố đã góp phầnthể hiện rất đạt cái khung cảnh tù túng, ngột ngạt, oi nồng của làng quê Việt Nam.
Ứng với điều trên, ta thấy không gian trong phóng sự Ngô Tất Tố thường là không gian chật hẹp, là không gian của sân đình hay không gian của mấy gian nhà tranh luôn chứa những “đám đông”. Không gian của Ngô Tất Tố luôn gây cảm giác bức bối, hình như cũng là một thế lực dồn ép con người. Trong phóng sự của Ngô Tất Tố không gian cũng là phương tiện nghệ thuật để nhà văn miêu tả thành công cảnh bùn lầy nước đọng, tù túng, ngột ngạt ở thôn quê. Ngô Tất Tố có cái nhìn tiến bộ hơn hẳn các văn sĩ cùng thời về người nông dân và cuộc sống tối tăm của họ. Ông tỏ thái độ thương yêu, trân trọng khi nói về họ và hơn ai hết, hiểu được ngọn nguồn nỗi khổ của họ. Ông phê phán những ham muốn chức tước, bổng lộc, hiếu danh nhưng không coi đó là bản chất của người nông dân mà ông cho đó là do họ bị giai cấp thống trị kích động. Chính những ảnh hưởng xấu này đã làm lụi tàn dần sức sống của nông thôn Việt Nam thời đó.
Có thể nói, Tập án cái đình và Việc làng là hai phóng sự xuất sắc nhất của phóng sự Việt Nam viết về cuộc sống của người dân thôn quê. Không gian chật chội, với những âm thanh chói tai được ngòi bút tài tình của tác giả sử dụng một cách triệt để, hợp lý nhằm thể hiện cuộc sống khổ cực không lối thoát bởi bao ách tròng cổ: sự tàn nhẫn, vô tâm của bọn cường hào, những tục lệ với những nghi thức quái gở, vô nghĩa lý. Giá trị nhân đạo, sức chiến đấu của hai phóng sự là ở chỗ tác giả không những cảm thông sâu sắc với nỗi khổ mà còn chỉ ra được nguyên nhân đưa đến sự bần cùng của người nông dân.
Hình ảnh thôn quê Việt Nam còn hiện lên trong phóng sự tiểu thuyết Ngoại ô, Ngõ hẻm của Nguyễn Đình Lạp, Bùn lầy nước đọng của Hoàng Đạo và một số tác phẩm khác…Trong Ngoại ô, Ngõ hẻm, Nguyễn Đình Lạp kể lại cuộc sống của những người nông dân vì miếng cơm, manh áo phải phiêu bạt đi khắp nơi. Họ cũng có nhà cửa ruộng vườn ở quê - nơi họ có thể trở về sau quãng đời làm ăn vất vả. Nhưng ở đó cũng có những tập tục vô lối và bọn lý dịch cường hào cũng ti tiện, độc ác vô cùng. Phóng sự Một huyện ăn tết của Vũ Trọng Phụng lại đề cập một khía cạnh khác của bọn cầm quyền ở chốn thôn quê. Cứ mỗi năm tết đến, bọn lính lệ, lính cơ lại được cấp giấy về làng quê “moi” tiền dân chúng và: “Làng nào trù phú thì năm đồng, làng nào xơ xác thì ba đồng”… Cứ mỗi lần thanh tra kiểu ấy, lính sẽ “phát tài”, rồi trích nộp một nửa lên ông Quản cơ. Ông Quản cơ sẽ dùng số tiền đó mua lễ vật biếu quan trên… Tất cả số tiền mà chúng có được đều do những người dân lương thiện, hiền lành, lam lũ cực khổ góp nên.
Có thể ở những phóng sự viết về làng quê này, góc nhìn và cách tiếp cận hiện thực có khác nhau nhưng tất cả đều tập trung thể hiện một nông thôn rên xiết trong đói nghèo, lam lũ trong tù túng. Một nông thôn đầy những bất công, vô nghĩa lý. Giá trị sâu sắc của các phóng sự là ở chỗ cung cấp những tư liệu phong phú, thấu đáo về cuộc sống của người dân thôn quê thời thuộc Pháp và ẩn bên trong đó là mong muốn có sự thay đổi tận trong bản chất của thôn quê, là một tình thương yêu thôn quê sâu nặng đến tận cùng của tác giả.
Ở phương diện này, chúng tôi thấy nổi lên các phóng sự của hai nhà phóng sự Ngô Tất Tố ở miền Bắc và Phi Vân ở miền Nam. Mỗi người mỗi vẻ nhưng qua các tập phóng sự của họ, phong tục và những sinh hoạt văn hoá ở mỗi miền quê hiện lên đặc sắc và sinh động.
Phóng sự Ngô Tất Tố đưa ta trở về với những nghi lễ cổ truyền của làng xã Việt Nam. Với cái nhìn khách quan của một người xuất thân Hán học, am tường các nghi lễ cổ truyền nhưng lại có tư tưởng hiện đại, canh tân, Ngô Tất Tố đã có những trang phóng sự vừa sinh động, trung thực vừa mới mẻ, lạ lẫm và pha chút hài hước. Đây là cảnh lễ “đánh đuổi thành hoàng” của làng V.L: “Trong đình nổi một hồi trống cái, xen với hồi chuông, ông thủ từ xúng xính mũ áo thụng xuống lòng đình lễ đủ bốn lễ, rồi thụt vào trong hậu cung. Tám, chín ông khác đứng ngoài đồng thời lạy vào. Kẻ đã ngay lưng đứng lên, người mới cúi đầu gục xuống, cảnh tượng giống như là phu bổ củi” ([32]).Ngô Tất Tố miêu tả rất sinh động một phong tục “thi giết lợn” ở làng Th. L, tỉnh Phúc An: “Bây giờ công việc mới càng túi bụi! Tiết ở cổ lợn cứ việc chảy ra lòng sanh, nước ở trong gáo cứ việc đổ vào mông lợn, người bưng cái sanh, người cầm cái gáo, người kiêng cái nồi nước sôi cũng như những người túm bốn chân lợn, đều chạy như bắn. Ra khỏi đầu đình, bốn tốp chia ra bốn ngả, tốp nào về nhà chủ lợn tốp ấy. Sao mà tài quá đi mất! Cả đám đều chạy như thế, mà không người nào dầy xéo lên chân người nào, tiết lợn cũng không vung vãi ra đất một giọt”([33]).Rồi tục nuôi lợn thờ. Tục cúng tế và cả tục cách chức Thành Hoàng. Tục “đuổi giặc cho thần”...
Đọc phóng sự Ngô Tất Tố, ta tìm lại được ít nhiều những nghi thức văn hoá cổ truyền mà khó có thể tìm ở một lĩnh vực nghệ thuật, ở một tác phẩm văn học nào khác. Đó là cảnh tế lễ đậm chất dân gian, truyền thống, từ trang phục đến cách tế lễ, khí cụ tế lễ: “…Trong tiền tế bắt đầu nổi hồi trống cái. Với bộ mũ áo xúng xính, ông tá chủ phủ phục trước chiếc hương án giữa sân. Sau khi lễ hết bốn lễ, ông ấy giơ cao đôi tay áo thụng che miệng và đọc những tiếng lâm râm.
Chừng một hồi dài, ông ấy lạy thêm bốn lạy rồi mới khúm núm đi lùi trở ra. Giữa những tiếng tùng cắc xen nhau rối rít, các ông hương trưởng lần lượt kế chân ông chủ tế khấu đầu trước cái hương án, coi bộ rất kính cẩn.
Nén hương cháy vừa đến chân, ông tế chủ lại vào phía trước hương án chắp tay vái luôn ba vái: trong đình bỗng có hồi trống ngũ liên. Quanh đình, tù và thổi lên inh ỏi. Giũa lúc ấy, hai đầu hương án thấy có hai người lực lưỡng sấn vào, một người bưng mâm xôi, một người bưng mâm sỏ lợn, đùng đùng chạy thẳng lên phía đầu làng...” ([34]).
Nếu như Ngô Tất Tố là người am tường phong tục cổ truyền đồng bằng Bắc bộ, thì ở phía Nam chúng ta có Phi Vân, tác giả của Đồng quê, Dưới đồng sâu, Dân quê, Tình quê, Cô gái quê… Nét đặc sắc trong phóng sự của Phi Vân là miêu tả phong tục cưới xin và sinh hoạt văn nghệ của người dân vùng đất cực nam Tổ quốc... Đám cưới đi bằng ghe thuyền và thường “Đàng trai lai rước dâu vào lúc 10 giờ tối. Lễ xong chúng tôi cùng nhau xuống ghe lườn. Đàng trai đi hai ghe, đàng gái theo hai ghe, một ghe ông già bà cả, một ghe thanh niên” ([35]). Kênh rạch chằng chịt, đất đai bao la, có khi đám cưới phải đi 5, 6 bữa (ngày). Nếu ngoài Bắc chọn giờ tốt đón dâu thì ở đây người ta cần giờ con nước lên xuống, đám cưới vẫn mang đậm dấu ấn phong tục cưới xin dân gian là “chọn giờ tốt” nhưng được “bản địa hoá”.
Đặc biệt, phóng sự của Phi Vân còn cho chúng ta thấy rõ hơn chất nghệ sĩ và tâm hồn nghệ sĩ của người dân miệt vườn Nam bộ. Họ ham mê và nhiệt tình thưởng thức nghệ thuật: “Nhưng, thiên hạ ai cũng để hết tinh thần vào lóp “cụp” ấy, ông Chánh Bái có làm gì, con nít có la bao nhiêu, cũng không ai màng tới.
Có vài chị đàn bà bồng con, tay vạch áo đưa vú cho con bú mà mắt chăm lên ngay sân khấu, hồn gởi trọn cho Điêu Thuyền. Đứa con ngậm vú không được vùng khóc ré lên. Chị ta không kể đến, cứ đứng sững giơ tay đánh chan chát vào đít đứa con. Đứa bé khóc ngất.
Đang hát “cụp” quá mà trời lại vần vũ kéo mây, và trong giây lát mưa nhểu hột lâm râm.
Đám người vẫn không thấy nhúc nhích.” ([36]).Và chính họ vừa là người thưởng thức nghệ thuật vừa là chủ thể sáng tạo nghệ thuật. Một ngón đàn tài tử, một giọng “hò khoan”, tuy là dân dã nhưng thật êm đềm:
“Bên ngoài, các anh chèo vừa nhịp mái ăn rập vừa “hò khoan” vang dậy.
Bên trong, ngồi đối diện với mấy cô áo màu xanh đỏ, thằng năm cảm hứng lên dây Tố lan đờn một bản vọng cổ rặt mùi...” ([37]).
Đồng quê của Phi Vân là một bức tranh tuyệt đẹp về phong tục, lối sống của người dân miệt vườn Nam bộ. Dù muôn vàn vất vả, cực nhọc nhưng họ luôn lạc quan và sáng tác, biểu diễn, thưởng thức nghệ thuật với một tinh thần vô tư hết mình. Mỗi phần của phóng sự giống như một truyện ngắn có cốt truyện khác nhau và mỗi truyện đều có lối hóm hỉnh, giễu cợt riêng từ tên chương phần (Trao thân… con khỉ mốc, Đổng Trác biết sập giàn, Cành tre cũ cặp giò xưa, v.v) đến kết thúc câu chuyện. Cùng với Đồng quê, Phi Vân còn là tác giả của Dưới đồng sâu. Dưới đồng sâu là phóng sự giàu chất văn chương kể về phong cảnh, phong cách, lối sống của người dân làng quê Nam bộ với một tình cảm hết sức sâu nặng.
Một số phóng sự viết về những miền đất lạ, về cảnh đẹp của quê hương đất nước cũng thể hiện niềm tự hào sâu sắc về phong tục đẹp của làng quê Việt Nam như tác phẩm của Vân Đài (Bốn năm trên đảo Các Bà), Nguyễn Văn Kiêm (Cảnh vật Hà Tiên), Ngọc Ước (Miền thượng du Bắc kỳ)…
Mặt trái của những phong tục, tập quán là những hủ tục. Có thể nói hủ tục như là một thứ bột màu đen được nhà văn dùng để tô đậm thêm bức tranh xã hội vốn xám xịt, đen tối ở làng quê Việt Nam do sự bóc lột tàn bạo của thực dân phong kiến. Những hủ tục phong kiến nặng nề này đã tồn tại hàng nghìn năm nay, nó gây nên bao cảnh nheo nhóc, nó đẩy con người rời xa làng quê lên thành phố tìm cái chết thứ hai, nó bất chấp ảnh hưởng từ phương Tây chuyển tới, nó dửng dưng trước sự biến đổi của cuộc sống thị thành, nó được thực dân phong kiến nâng đỡ, nuôi dưỡng làm lá bùa che chắn cho hành động bóc lột phi nhân tính của chúng. Viết về những hủ tục làng quê, không ai viết hay, viết kỹ, viết đủ, viết nhiều, viết sâu như Ngô Tất Tố. Bên cạnh Ngô Tất Tố là Trọng Lang, Nguyễn Đình Lạp…
Ở Tập án cái đình và Việc làng, Ngô Tất Tố tập trung viết về những hủ tục ở chốn đình trung (nơi diễn ra mọi sinh hoạt văn hoá, sinh hoạt cộng đồng của làng quê). Đó là thủ tục thờ cúng, những nghi thức phiền toái khi làng có việc, bộ mặt của những thói tục nơi góc chiếu, sân đình, những luật tục “quái gở”, “mọi rợ” khi vi phạm lệ làng… Trước những hủ tục, Ngô Tất Tố đã phẫn nộ kêu lên: “Hủ tục không phải là một thứ thiên kinh địa nghĩa, nó vẫn có thể thay đổi… Vậy mà nó vẫn được coi như vị thần thiêng, không ai được đả động đến nó… lạ thay!” ([38]).
Tục thờ thần Hoàng làng là một phong tục đẹp. Thành Hoàng làng thường là những người có công với làng với nước, nhưng không phải tất cả các Thành Hoàng làng đều như thế. Trong Tập án cái đình, Ngô Tất Tố đã thực sự hứng thú lật tẩy bộ mặt thật của các Thành Hoàng. Thủ tục phiền toái, mỗi năm một lần sắp cỗ, nuôi lợn thật to, thi giết lợn, tổ chức nghi lễ đánh đuổi Thành Hoàng… để mong muốn mùa màng bội thu chẳng qua chỉ là vô nghĩa lý. Đi liền với những nghi lễ thờ cúng là những đám người được cắt cử coi sóc việc thờ cúng, coi sóc việc làng, là những “lệ làng” trói buộc, ai trái lệ làng người đó phải chịu phạt. Ở hai phóng sự Tập án cái đình và Việc làng, hầu như ở trang nào cũng có hình ảnh “lợn” : lăm lợn, sỏ lợn, mũi lợn, móng chân lợn, khấu đuôi lợn, lòng lợn... Ngay tên chương cũng đều “thấp thoáng” hình bóng “chú ỉn” như Cuộc thi giết lợn (Tập án cái đình), Được một trai, mất ba lợn (Tập án cái đình), Lợn anh, lợn em (Tập án cái đình), Một tiệc ăn vạ (Việc làng), Xâu lòng thờ (Việc làng)...
Trong phóng sự của Ngô Tất Tố, hình ảnh con lợn gợi lên hai phương diện ý nghĩa: ý nghĩa phong tục và ý nghĩa hủ tục. Phong tục đẹp tế thần lợn biểu hiện ý nghĩa nhân văn, yêu quý gia súc. Nhưng biểu hiện của hủ tục thì quá nhiều. Có nhà nọ đẻ thêm một con trai ngoài lệ làng, thế là bị phạt “mất ba lợn”. Rồi giết lợn để khao làng, để làng ăn vạ… Vi phạm lệ làng, làng bắt vạ đã đành, còn những “tiệc ăn vạ” do kẻ khác gieo “vạ”. Hủ tục này khiến kẻ bị nạn đến mức khánh kiệt: lão Sửu “hiền lành biết điều, thật thà như đếm” bị kẻ xấu “gắp lửa bỏ vào bàn tay...”, nên bị làng phạt “hơn trăm bạc”, lão ức quá tự tử, lão đã chết oan vì lệ làng (Một tiệc ăn vạ - Việc làng); quan đám Phức để xảy ra một chuyện tày đình là... vợ chửa…, thế là làng bắt vạ. Không những làm khuynh gia bại sản, hủ tục ăn vạ còn làm tổn thương lòng tự trọng của kẻ tội vạ: “Như một đám tằm ăn rỗi, cả làng vừa ăn vừa hạch tội khổ chủ cho sướng mồm và khổ chủ với bộ quần khăn đen áo dài, luôn luôn đi cạnh các mâm, vái từ người già đến người trẻ”([39]). Người trẻ ở đây là cả “những cậu còn ẵm ngửa”. Đó là hủ tục “vào ngôi”... mất trăm rưởi bạc (Một đám vào ngôi- Việc làng). Đó là hủ tục “mua chức”, đến hai trăm bạc để mua và khao làng (Góc chiếu giữa đình- Việc làng). Đó là hủ tục “mua cỗ”. Rồi hủ tục “sóc”, “vọng” nghĩa là “sửa oản chuối cúng thần trong hai ngày rằm và mùng một của mỗi tháng” (Cỗ oản tuần sóc- Việc làng)...
Từng chương, từng phần của Tập án cái đình và Việc làng là từng tấn thảm kịch ngắn, là những cảnh ngộ thương tâm, nực cười xảy ra hàng ngày trong cái làng quê nhỏ bé tiêu điều. Hủ tục mà Ngô Tất Tố nói nhiều nhất nơi góc chiếu, sân đình là hủ tục mua danh, bán tước. Bọn lý dịch trong làng lợi dụng tâm lý “Một miếng giữa đàng bằng một sàng xó bếp”, tâm lý hiếu danh của người nông dân để đặt ra một số chức tước, ép người có máu mặt trong làng mua cái danh hão ấy, bù vào đó chúng được ăn uống no say và có tiền bỏ túi. Vì hư danh ngôi thứ mà bao gia đình phải mất trâu, mất ruộng vườn, vợ chồng tan tác (Góc chiếu sân đình), anh em đánh nhau (Một chiếc lăm lợn); dỡ nhà đi bán để lấy tiền sửa lễ “cỗ oản tuần sóc”…. Bóc trần những hủ tục, Tập án cái đình và Việc làng của Ngô Tất Tố đã lên án sự thâm hiểm, độc ác của bọn quan lại, cường hào. Chúng không những trực tiếp bóc lột người dân bằng thuế má mà còn gián tiếp biến những quan hệ cộng đồng làng xã thành gánh nặng đè lên cuộc sống vật chất, tinh thần của họ. “Phép vua thua lệ làng”, làng là thứ quyền uy tối cao buộc thân phận bé mọn của người dân phải tuân theo, ai chống lại, bị cả làng tẩy chay, bị “cách” không được ngồi sân đình. Nhưng thực chất, “lệ làng” chỉ là cái vô hình dưới sự điều khiển của bốn ông trùm. Làng nào có lệ riêng của làng ấy. Trên cơ sở những cái truyền lại từ nhiều đời, chúng sáng tạo thêm “lệ làng”, nghĩ ra nhiều chức danh hão và mua đi bán lại để kiếm lời. Nhân danh “lệ làng”, nhân danh “hương ước”, nhân danh “làng”, bọn cường hào thẳng tay ức hiếp dân chúng. Thái độ của Ngô Tất Tố là thái độ của người trong cuộc, nhìn thẳng vào bản chất của hủ tục. Tuy không phải là nhà xã hội học, khi đó cũng chưa được giác ngộ lý tưởng cách mạng, nhưng trong tâm thức nhà văn tiến bộ của quần chúng nhân dân, Ngô Tất Tố đã chĩa mũi nhọn lên án bọn thực dân phong kiến.
Bên cạnh Ngô Tất Tố là Trọng Lang và Nguyễn Đình Lạp. Nguyễn Đình Lạp, Trọng Lang lên án thủ đoạn ăn chơi, hối lộ bẩn thỉu của bọn quan lại, thông phán toà sứ, lính lệ, chánh tổng, lý trưởng, phó lý… Theo Trọng Lang, lệ làng được đặt ra từ tổ con chuồn chuồn mà “Cái tổ chuồn chuồn lại chứa một bộ ba: chánh, phó tổng và lý trưởng, mỗi ông trong bụng lại chứa thêm một cái không phải là một ông quan, mà là một nồi rượu, thịt, xôi và ở cạp quần, một cẩm nang để thi hành hủ tục” ([40]). Đây là sở thích của tên phó tổng: “Không một hủ tục nào là hắn không duy trì, nếu hủ tục ấy thoáng có mùi xôi thịt. Hắn có tài tìm ra xôi thịt… quanh một xác chết, sau một đám cưới, giữa một nhà quanh năm chỉ ăn rau”. Hủ tục xôi thịt sẵn sàng ập xuống bất cứ ai, làm bao người phải khốn khó, khiến một người dân phải thốt lên: “Không lẽ mà tôi lại ra làng” ([41]). Bọn chánh tổng, lý trưởng trong sáng tác của Nguyễn Đình Lạp cũng chỉ chờ gia đình người nông dân gặp nạn để đến ra oai và ăn bẩn…
Những cứ liệu trên đã chứng tỏ phóng sự 1932-1945 phản ánh một cách trung thực và khá sinh động bức tranh thôn quê Việt Nam ở cả hai phương diện tốt và xấu, tươi sáng và đen tối. Tốt, tươi sáng ở phương diện phong tục và những sinh hoạt văn hoá với những người nông dân hiền lành, chăm chỉ; xấu, đen tối ở phương diện hủ tục, ở những cảnh bùn lầy nước đọng nặng nề, cổ hủ. Các tác giả viết về đề tài này đã dám nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật và thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm của người cầm bút trước cuộc đời. Bên cạnh việc ca ngợi những phong tục và những tập quán sinh họat văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc ở vùng quê, các tác giả đã không ngần ngại lên án những hủ tục đồi bại, lạc hậu đè lên cuộc sống của người dân, đây là thứ thuế trá hình mà bọn thực dân phong kiến lợi dụng sự mê muội quàng lên cổ họ. Tuy các tác giả chưa đưa ra được giải pháp hữu hiệu nhằm loại bỏ triệt để những hủ tục ấy, nhưng việc đặt ra vấn đề phải gấp rút giải phóng những người nông dân ra khỏi vũng bùn của ý thức hệ phong kiến, phải cải tạo làng phong kiến Việt Nam là những tư tưởng tiến bộ, canh tân mà họ đóng góp cho xã hội. Các phóng sự còn cung cấp cho ta nhiều tài liệu quý về xã hội học, văn hoá học, đặc biệt là phóng sự của Ngô Tất Tố. Những nhà Việt Nam học và Đông phương học hôm nay đã và sẽ tìm được nhiều tư liệu quý báu qua các tác phẩm của ông.
Ngoài mảng đề tài đề cập những vấn đề gay gắt, nóng bỏng ở thành thị Âu hoá nửa chừng, về cuộc sống lầm than, không lối thoát ở nông thôn, phóng sự 1932-1945 còn có mảng hiện thực cách mạng với những cảnh lao tù, khổ sai nhưng đầy ý chí cách mạng được chính các chiến sỹ cách mạng viết và phát hành công khai, nhằm bóc trần bản chất tàn bạo, dã man của chính sách thuộc địa thực dân Pháp trước nhân dân thế giới và trong nước, ca ngợi ý chí cách mạng của những người yêu nước, đồng thời tuyên truyền, vận động, chỉ đạo cách mạng.
Nổi bật nhất trong nhóm phóng sự viết về đề tài này là Ngục Kon Tum của Lê Văn Hiến (Sơn Trà xuất bản 1938). Tác phẩm được Đặng Thai Mai dịch ra tiếng Pháp, đăng trên báo Le Travail (Lao động). Ngay khi ra đời, cuốn sách bị chính quyền thực dân cấm lưu hành. Xét về mặt nội dung, tác phẩm như một bản cáo trạng, tố cáo đanh thép sự tàn bạo, dã man của thực dân Pháp đối với những người tù chính trị nhưng đồng thời cũng là một bản anh hùng ca, ngợi ca ý chí cách mạng kiên cường bất khuất của người cộng sản. Tác phẩm là một bức tranh hùng vĩ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng đồng thời cũng là một thông điệp về lòng quả cảm, yêu nước chân chính mà cách mạng Việt Nam muốn gửi tới chủ nghĩa thực dân.
Ngục Kon Tum của Lê Văn Hiến là phóng sự phản ánh khá đầy đủ các thủ đoạn tàn bạo, sự vô nhân đạo, sự hà khắc đến mức vô nhân tính của chế độ nhà tù thực dân. Đồng thời ca ngợi lòng dũng cảm vô song, tinh thần tử sinh tuyệt đối của anh em tù chính trị. Ngục Kon Tum có gía trị bởi trước hết đó là hồi ký của một tù nhân ghi lại một cách trung thực nhất câu chuyện lao tù của 295 tù nhân, trong đó phần nhiều là chính trị phạm trên đường từ nhà lao Vinh đến ngục Kom Tum để làm con đường 14, phục vụ chủ trương khai thác tài nguyên vùng Tây Nguyên của Pháp, với một nghệ thuật phóng sự khá già dặn. Ngục Kon Tum của Lê Văn Hiến đã hội tụ những điểm cần và đủ cho sự ra đời một tác phẩm phóng sự: cảm hứng sôi trào, vốn sống thực tế tươi nguyên, nghệ thuật trình bày giản dị, chân thực... Hai nguồn cảm hứng chủ đạo chi phối nội dung 58 trang tác phẩm là cảm hứng tố cáo, lên án mãnh liệt chế độ nhà tù thực dân và cảm hứng yêu thương, kính trọng đồng chí, đồng đội sâu sắc.
Tố cáo mưu mô hiểm ác của chính quyền thực dân Pháp là khủng bố, đàn áp tù chính trị để hòng dập tắt ý chí đấu tranh của cách mạng đang dâng cao, phóng sự đã thành công khi chọn những chi tiết điển hình lên án tội ác “Giết được chừng nào hay chừng ấy” của bọn cai ngục:
“Đi bộ mấy ngày đường, nhọc mệt dơ bẩn, trong lòng mình đã lấy làm khó chịu, nay được bữa tắm rửa, ai nấy đều vui mừng, sung sướng, đua nhau cởi áo quần chạy xuống khe lặn lội. Mới vừa ngâm mình một lát thì nghe tên quan Một hô một tiếng “lên”, tức thì mấy mươi lính, sắp đặt luyện tập từ bao giờ, như một bộ máy, đùng đùng xông tới, miệng thì hô “lên”, tay thì đánh vào nhà phạt như mưa. Thương hại anh em nhà phạt, mình trần thân trụi, vừa ngâm nước mới lên, da thịt nở nang, bị hèo gậy xát vào, thật là đau đớn, tê tái không còn chỗ nói; anh em xô lẫn nhau mà chạy về lao, khi chạy qua đường hẻm lại bị hèo gậy của hai hàng lính giáp xuống”([42]).
Trên đường đến Kon Tum, họ phải chịu đựng đủ mọi nhục hình đòn, hèo, báng súng..., nhưng đến nhà giam thì đó là “địa ngục trần gian”:
“149 chính trị phạm đến Dakpao thì đã có sẵn sàng hai gian nhà tranh làm giữa rừng, chung quanh rào dây thép gai. Bốn phía lao trống lổng, không có phên dậu, mỗi lao dựng bốn dãy cùm. Giường nằm bằng chõng tre, kê cách đất độ ba tấc. Cái lao trông không lấy gì làm kín đáo và kiên cố, chỉ nhờ có mấy hàng rào sắt và mấy dãy cùm. Nhà phạt về lao, bất kỳ ngày hay đêm, đều đút cẳng vào cùm, nêm chặt lại, thế là không trốn tránh đâu được nữa. Mỗi người được lãnh một cái ống tre để luôn bên mình mà phóng uế”([43]).
Ăn uống thiếu thốn, ốm đau không được chăm sóc, thời gian làm việc mỗi ngày 10 tiếng khiến tù nhân kiệt sức. Đã thế lính canh lại thường xuyên nghĩ ra các trò độc ác hành hạ tù chính trị, nên chỉ trong sáu tháng, 170 người tù đã bị chết, số còn lại kiệt cùng sức lực, nhiều người trong số họ bị bắn chết trong những trận khủng bố công khai.
Ngục Kon Tum không chỉ tố cáo sự tàn bạo của chế độ nhà tù thực dân Pháp, miêu tả chi tiết cuộc sống khổ cực của tù nhân mà phóng sự còn thể hiện tinh thần đoàn kết, ý chí dũng cảm, kiên cường, hi sinh quên mình của các chiến sỹ cách mạng. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh lưu huyết ngày12. 12. 1931 và cuộc biểu tình tuyệt thực từ ngày12 đến 16 tháng chạp năm 1931. Qua các cuộc đấu tranh này tác giả đã khắc hoạ được rõ nét chân dung một số chiến sĩ cách mạng với tên tuổi, quê quán cụ thể: “Trên đường đời chúng ta không phải là không hi vọng sống, nhưng vì đã tiến bước đường cùng, ta cần phải hi sinh ít nhiều người để mưu sự sống cho toàn thể anh em. Trước cái chết, ta không nhường lại cho ai được nữa, ta phải nhận lấy, vui lòng nhận lấy để cho sau khi ta chết rồi, hoạ may mấy trăm anh em mới còn phương sống” ([44]). Họ là những người như anh Trương Quang Trọng sẵn sàng chết thay cho bạn, như anh Đặng Thái Thuyến (con đẻ Đặng Thái Thân) quyết hi sinh để giành sự sống cho đồng đội, đồng chí. Trong nhà lao, vũ khí duy nhất của họ là tinh thần dũng cảm, là ý chí cách mạng. Tinh thần ấy, ý chí ấy đã kết thành một khối vững chắc trong cuộc đấu tranh sinh tử. Đó là bài học được viết bằng xương máu để thế hệ mai sau noi gương, phấn đấu.
Ngục Kon Tum là bản cáo trạng đanh thép tố cáo sự hà khắc của nhà tù thực dân, là bản anh hùng ca ngợi ca ý chí cách mạng của những chiến sĩ cộng sản, là tác phẩm tiêu biểu của dòng văn học cách mạng giai đoạn 1932-1945. Ngoài giá trị văn học, tác phẩm còn là một tài liệu lịch sử quí báu.
Đối tượng phản ánh của văn học là cuộc sống, trong đó cái đẹp, cái có ý nghĩa lịch sử vĩnh hằng luôn được văn học hướng tới, coi đó là một trong những nguồn sáng tạo đặc biệt. Phóng sự Việt Nam 1932-1945 có nhiều tác phẩm viết về chủ đề này nhằm ca ngợi vẻ đẹp của danh lam thắng cảnh hay vẻ vĩnh hằng, trường tồn cùng thời gian của các di tích lịch sử - văn hoá.
Nhiều nhà phóng sự Việt Nam 1932-1945 thể hiện lòng tự hào dân tộc của mình bằng cách hướng ngòi bút về cội nguồn lịch sử, cho ra đời những áng văn hay như Nam Du đến Ngũ Hành sơn, Thăm lăng Sĩ Vương của Nguyễn Trọng Thuật; Một cuộc hành hương (Đi thăm Tức Mạc- quê cũ nhà Trần) của Lê Thanh và Trúc Khê; Dâng hương đền Kiếp của Hoa Bằng và Cách Chi; Cuộc đi chơi Huế của Phục Ba; Qua đền Trấn Vũ của Ngọc Nhơn; Trên Lái Thán của Trần Cư; Bài kí chơi Cổ Loa của Tùng Vân, Thăm chùa Bà Đanh của Vân Thạch; Một vài kiến văn trong dịp đi thăm làng Bối Khê của Vu Ngã…
Đặc điểm đầu tiên dễ thấy là viết về đề tài này các nhà phóng sự rất am tường về lịch sử, về địa danh và con người lịch sử. Họ tái hiện lại lịch sử bằng những trang văn giàu hình tượng, mang sức truyền cảm mạnh mẽ, với lối viết mượt mà, giàu cảm xúc của một người có tấm lòng yêu quê hương sâu sắc:
“Bấy giờ nước Việt ta đang thuộc Tàu cuối đời nhà Hán. Sĩ Vương vào học kinh đô Hán, đỗ Hiếu Liêm, cử làm thái thú bản chân, bên Tàu bị loạn Tam quốc nhiễu nhương, Vương bèn giữ lấy bản châu tự trị, 40 năm dân giàu nước thịnh, văn hoá phát đạt. Viên Vy là người Tàu sang ở đây đưa thư về nói với Tuân Quắc lúc ấy có câu: “Anh em hùng trưởng toàn bộ, uy phục được cả các rợ Mường, Triệu Đà cũng không hơn”. Thì biết bấy giờ tiếng là ngoại phiên mà trong thực là độc lập. Cho nên dân ta tôn mà gọi là “Vương”. Hán mất, Ngô lên gần với ta, Vương lại chịu phong chức của vua Ngô, đó cũng là cách ngoại giao của nước nhỏ” ([45]). Các tên gọi trong tác phẩm như Hán, Ngô, Sĩ Vương (tức Sĩ Nhiếp), Tam quốc, Viên Vy, Tuân Quắc... đều đúng với chính sử. Nhân chuyến về thăm lăng Sĩ Nhiếp, Nguyễn Trọng Thuật đã kể về gia đình Sĩ Vương (Sĩ Nhiếp), nhưng qua câu chuyện về Sĩ Vương, bạn đọc lại thấy được cả những sự kiện lịch sử của đất nước thời xa xưa.
“Vừa đi đường, vừa gợi chuyện”, các nhà phóng sự thuộc nhóm đề tài này, nhân lúc đi thăm một địa danh nào đó, lại có dịp nhắc đến những nhân vật lịch sử, những danh nhân văn võ song toàn. Những trang phóng sự này chất đầy lòng tự hào, đồng thời hàm chứa ý nghĩa giáo dục sâu sắc: “Nguyễn Trực có khiếu thông minh, bé mà chăm chỉ, 12 tuổi đã biết làm văn, 18 tuổi đỗ hương tiến thứ nhì ở Tây Sơn. 26 tuổi (1442), đỗ đầu đệ nhất giáp tiến sĩ, tức trạng nguyên khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Bảo Đại thứ 3. Năm Nhân Tôn Thái Hoà (1443- 1454) làm hàn lâm học sĩ đô kỵ uý rồi được phong làm An Phủ sứ ở Nam Sách, thăng Hàn lâm viện thị giảng kiêm Ngự tiền học sinh…Năm Hồng Đức thứ tư (1473) thăng Gia hạnh Đại phu, Hàn lâm viện thừa chỉ, kiêm Quốc tử giám Tế tửu…”([46]).
Nhiều khi các sự kiện lịch sử được các nhà phóng sự “hình tượng hoá”, trở nên sinh động và gần gũi: “Theo lời người làng thuật lại, nguyên vua Trần Thái Tôn khi xưa đương khi làm vua cùng với An sinh vương Trần Liễu có mối hiềm khích. Trần Liễu khởi loạn. Nhưng số người theo ít, đánh đâu thua đấy. Đến bước đường cùng, Trần Liễu vứt gươm nhảy xuống thuyền của Trần Thái Tôn. Trần Thủ Độ giơ gươm ra chém, Trần Thái Tôn đưa mình ra đỡ.
Hai anh em ôm nhau khóc” ([47]).
Tác giả của Một cuộc hành hương đãdựa theo “lời người làng thuật lại” và chọn những nhân vật trọng yếu nhất của triều đại nhà Trần như vua Trần Thái Tôn, Thái sư Trần Thủ Độ và An sinh vương Trần Liễu đồng thời chọn những hành động có ý nghĩa nhất như “giơ gươm ra chém”, “đưa mình ra đỡ”, “ôm nhau mà khóc”, để nói về một huyền thoại lịch sử. Bằng cách thể hiện khéo léo này, lịch sử hiện lên thật sinh động.
Viết về những di tích lịch sử, phóng sự 1932-1945 còn dùng ngôn ngữ cổ xưa đưa người đọc trở về với quá khứ lịch sử: “Chùa Phổ Minh dựng trên một khu đất cao ráo, rộng rãi, quy chế của chùa là quy chế thông thường của các ngôi chùa cổ nước ta, không có gì đặc biệt. Duy trong chùa có pho tượng nằm cởi trần là đáng chú ý; đó là tượng của vua Nhân Tôn triều Trần. Vua Trần Nhân Tôn sau khi nhường ngôi cho Thái tử; ngài xuất gia đầu Phật, tu trì đắc đạo, tức là vị Tổ thứ nhất trong Trúc lâm tam tổ về Phật giáo ở nước ta. Những nơi ngài trác tích rất nhiều, nhưng chùa Phổ Minh ở phủ Thiên Trường này là một. Đến khi ngài viên tịch, thi hài do sư Pháp Loa đem thiêu hoá.” ([48]). Các từ “xuất gia”, “tu trì đắc đạo”, “trúc lâm tam tổ”, “trác tích”, “viên tịch”, “thiêu hoá” là ngôn ngữ nhà Phật cổ kính. Giả sử tước bỏ những từ này thay thế bằng các từ đồng nghĩa khác thì chắc chắn sắc thái biểu cảm sẽ thay đổi và đoạn văn sẽ trở nên vô hồn.
Diễn tả niềm tự hào về những di tích lịch sử của quê hương đất nước, các phóng sự đã sử dụng lời văn rất giàu yếu tố biểu cảm. Cái “tôi trữ tình” nổi lên lấn át cái “tôi thế sự” làm cho lời văn gần với thơ hơn là văn xuôi: “Ra đến ngoài miếu, tôi đứng ở trước “Chính nam môn”, trong lòng lúc này bỗng cảm động bồi hồi vô hạn. Nhìn từng một ngọn cây, một bờ cỏ, một đợt sóng ở trên ao nước, cái gì tôi cũng tưởng tượng như nó đã từng được thân thấy những lúc võng giá rộn ràng, xiêm đai lộng lẫy của các đế hậu, vương công. Cái gì hằn trên mặt đường kia, phải chăng là dấu vết của bánh xe loan? Cái gì loang loáng trên nước kia, phải chăng là phấn vãi hương thừa của các bà tần phi còn lại? Ngây nhìn một lúc rồi tôi bất giác phải thở dài một tiếng. Nghĩ lại cái phồn hoa của một nơi cung phủ, cái oanh liệt của một triều đế vương thời xưa ở đây, tới nay còn tìm đâu thấy nữa? Nay người qua viếng chỉ còn đấy mấy gian đền mốc, tiêu điều ở giữa chốn đồng hoang cỏ rậm, lá rụng trong sương sớm; quạ kêu dưới bóng chiều;
Công hầu đế bá trăm năm trắng
Phú quí công danh một giấc vàng.
Đứng trước cảnh ấy, lại nghĩ đến hai câu thơ này, niềm xúc cảm của tôi tới đây, còn lấy bút nào mà tả được” ([49]). Tác phẩm Một cuộc hành hương của Lê Thanh và Trúc Khê (1941) là phóng sự giàu cảm xúc, tuy cách viết còn ảnh hưởng của lối văn biền ngẫu đăng đối nhịp nhàng, nhưng đó là sự cố ý của tác giả khi diễn tả tâm trạng hoài cổ của mình. Tác phẩm là sự hồi tưởng về quá khứ, thông qua lăng kính tâm trạng hiện tại: “bồi hồi vô hạn” xen lẫn luyến tiếc, xót xa “thở dài một tiếng”, “còn tìm đâu nữa”.
Nhìn chung, các phóng sự thuộc nhóm đề tài này đều được viết theo lối “tức cảnh sinh tình”. Tác phẩm là sự hồi tưởng về quá khứ thông qua lăng kính tâm trạng hiện tại “bồi hồi vô hạn”, xen lẫn luyến tiếc. Phải chăng ngoài giá trị tư tưởng là thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, các phóng sự về di tích lịch sử còn ẩn giấu tâm trạng buồn nản, hoài cổ trước thực tại chưa tìm thấy đường đi của một số văn sĩ.
Phóng sự về danh lam thắng cảnh, có thể kể đến Một buổi đi thăm làng dừa của Đinh Gia Thuyết, Bốn năm trên đảo Các Bà của Vân Đài, Tết Đà Lạt của Trịnh Như Nghê, Bà Nà du ký của Huỳnh Bảo Hoà, Cuộc đi chơi Huế của Phục Ba, Cảnh vật Hà Tiên của Đông Hồ, Nguyễn Văn Kiêm, Đêm cuối cùng ở Hà Tiên của Trường Sơn Chí, Qua đền Trấn Vũ của Ngọc Nhơn, Thăm chùa Bà Đanh của Vân Thạch, Hà Tiên du ngoạn của Hồ Biểu Chánh, Một cuộc hành hương ở Hà Tiên của Huỳnh Văn Chính, Thuỵ Anh du ký của Đặng Xuân Viện...
Viết về danh lam thắng cảnh với niềm tự hào sâu sắc, các phóng sự miêu tả cảnh vật theo nguyên tắc không gian tuyến tính từ xa đến gần nghĩa là cảnh vật hiện lên cùng với bước đi, sự quan sát của nhà phóng sự. Bốn năm trên đảo Các bà là ví dụ. Bài phóng sự này đăng ở tạp chí Tri ân, năm 1944, do cách miêu tả của tác giả đã đạt tới trình độ hiện đại (miêu tả theo không gian tuyến tính) nên người đọc hôm nay vẫn thấy một Các Bà hoang sơ, thơ mộng mà hiện đại không khác thực tại.
“ Cửa bể con con của Các Bà đã hở cho ta một trời yên lặng. Bến Các Bà bệ vệ như một chiếc ngai vàng, mở rộng bàn tay để che chở những con thuyền phiêu bạc. Bao bọc chung quanh những giải núi xan, Các Bà đã lọt vào giữa lòng khu đất ấy. Tất cả trông như một cái vòng tròn. Trước vòng tròn mở ra một cửa đón thuyền ra vào… (người Khách đã cho đây là một nơi rất đắc địa…)
Rải rác dưới chân núi, những ngôi nhà lớp ngói đỏ tươi, những lô cốt cao phấp phới lá cờ ba sắc. Chạy dài hai bên tay ngai, hai dày nhà vừa lợp lá, vừa lợp ngói liền san sát do những dân chài người khách cư trú. Nhà nào cũng quay lưng ra bể, mặt trông vào phố, một phố độc nhất của Các Bà” ([50]).
Tuân thủ nguyên tắc miêu tả theo không gian tuyến tính, các nhà phóng sự còn rất tôn trọng đối tượng miêu tả, các chi tiết của đối tượng được đưa ra với các số liệu cụ thể, chính vì thế mà nó có sức thuyết phục lớn: “Đình ở phía ngoại đê, dựng trên một khu đất có những cây rậm rạp như một cái rừng con bao bọc xung quanh, rộng ước 50 mẫu ruộng. Đình làm lối “nội công ngoại quốc” có ba toà: đình trong, đình giữa và đình ngoài liền theo thứ tự. Toà trong ba gian, còn hai toà đều năm gian. Chỗ mái ngói toà giữa và toà ngoài giáp nhau, có một cái máng hứng nước bằng đồng đen, dài 20 m, chạy suốt 5 gian đình. Hai bên lại có 2 cái tiểu đình, bên tả là nhà bia, có 6 tấm bia, cái lâu nhất từ đời Cảnh Trị nhà Lê (1663-1674); bên hữu là nhà ngựa thờ sơn phấn trắng, chân cao 1,50, cổ cao 0 mét 80, thân dài 2 mét…Chúng tôi ngắm kỹ chỗ lỗ thủng ở khấu đuôi con ngựa là chỗ không quang phấn, thấy da đen và dày dặn, rõ là một thứ kim khí cùng một sức với máng, có thể tin là đồng đen được” ([51]).
Nhờ cách miêu tả cụ thể như vậy mà con ngựa thờ như hiện ra trước mắt người đọc, có thể “sờ nắn” được.
Yêu quê hương đất nước, tâm hồn nghệ sĩ rung động trước cảnh đẹp của núi non sông suối, các nhà phóng sự sử dụng trường liên tưởng phong phú và cảm hứng dồi dào viết nên nhiều trang văn giàu ý nghĩa. Đoạn văn sau trích trong Tết chơi biển của Trúc Phong là minh chứng cho việc sử dụng trường liên tưởng: “Giữa khoảng lồng lộng bao la, trên một chiếc thuyền con, mới biết thân mình là nhỏ, là gợn bụi, là vẩy lông, mới biết một cái chau mày của sóng nước đủ giết chết cả một thuyền, trăm ngàn những ai người vô phúc. Mà một lần lòng mình biết cảm trước cảnh trời đất bao la thì mình mới có tấm lòng thương nhân loại, thương non sông đất nước, muốn có cái chí muốn ngang dọc, vẫy vùng, mới có tấm lòng rộng rãi như trời kia đất nọ, có cái gan thiết thạch để liệu chống chọi với phong ba, để giữ mình trong cuộc sống còn, và để thương mình và bao nhiêu người đồng loại, đang lạc loài trong cõi phù sinh... mối sầu hãy gác...” ([52]). Phóng sự này in trên Tạp chí Nam phong số 207 (1934)- lúc đó, nước ta còn đang chìm trong bóng đêm nô lệ, nhưng cả tác phẩm đã toát lên một tinh thần yêu nước, yêu con người. Vẻ đẹp thiên nhiên chỉ là cái cớ để tác giả thể hiện những suy ngẫm, những liên tưởng của mình về thân phận, về tình thương và nhất là cái chí của mình. Chữ “sầu” trong phóng sự như một ẩn ý nói về nỗi sầu mất nước, nỗi sầu nô lệ.
Ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên để thể hiện ý chí của người viết, phóng sự về danh lam, thắng cảnh luôn được sáng tác bởi bút pháp nghệ thuật của ký văn học với cảm xúc sáng tạo dâng trào, nội dung tác phẩm cô đọng và hệ thống ngôn từ giàu hình ảnh, câu văn giàu nhịp điệu nên tác phẩm đậm đà chất thơ. Đoạn phóng sự sau là một trong rất nhiều những dẫn chứng cụ thể: “Kỳ quan của tạo hoá ở đất nước này, cho ta thấy từ Các Bà về Hòn Gai- hơn hai mươi cây số tất cả- một cảnh thiên thai nơi hạ giới. Những non nước u tịnh, những sơn thuỷ hùng vĩ, những cảnh đẹp mờ ảo nhưng cao siêu. Bao nhiêu cái đẹp hoàn toàn chọn lọc chỉ riêng nơi đây mới có thể cho ta vừa ý được. Trùng điệp những ngọn núi xanh, không cao lắm, chằng chịt những cây cối cằn cỗi với thời gian, nhưng vẫn giữ một màu xanh tươi mới mẻ. Các dãy núi chia nhau, chắn lấy một góc bể, làm một thế giới của mình, một thế giới vô cùng kỳ thú. Những buổi trời yên sóng lặng, Các Bà lúc nào cũng êm đềm, nhưng không ủ đột, Mặt bể phẳng lặng và xanh, xa trông như một tấm thảm... Dăm chiếc thuyền đủng đỉnh tạt qua, chiếc buông câu, chiếc ghé bến. Dòng nước xanh và trong vắt, tưởng chừng không một sóng gió gì có quyền quấy đục tấm gương ngọc bích này” ([53]). Một loạt hình ảnh: non nước, sơn thuỷ, núi xanh, cây cối, trời, sóng, mặt bể, chân trời..., có cả sơn thuỷ, có cả con người, không gian trong vắt, thời gian như ngừng trôi; đặc biệt là các tính từ miêu tả chuẩn xác, sinh động: u tịnh, hùng vĩ, mờ ảo, cao siêu, trùng điệp, xanh, chằng chịt, cằn cỗi, xanh tươi, mới mẻ, kỳ túc, yên, lặng, êm đềm, ủ đột, tim tím, xanh, trong vắt... được Vân Đài sử dụng một cách rất nghệ thuật đã đem lại chất thơ cho phóng sự. Phải có cảm hứng thơ, tác giả phóng sự mới có những dòng văn tinh tế như vậy.
Tác giả Thanh Ba trong Chuyện đầu năm đã lôi cuốn người đọc bằng những trang văn giàu hình ảnh, màu sắc: “Hết nắng nóng nực, hết màu hồng tươi đẹp của chiều, rồi đến đêm lần lần đen tối. Đã qua những làng mạc có mấy cánh đồng im lặng vui vẻ với lũ mục đồng vội vã dắt trâu đi; đã qua những chợ nhỏ rộn ràng màu giấy đỏ, màu hàng vải rải rác bay phấp phới, chen lộn với màu trái cây, màu đỏ gốm. Đã khỏi bắc Vàm Cống, rồi khỏi bắc Mỹ Thuận. Và xe vẫn chạy. Tôi khoan khoái trố mắt nhìn hai bên đường những tàn cây chui vào bóng tối” ([54]).
Nhìn chung các phóng sự viết về di tích lịch sử - văn hoá và danh lam thắng cảnh đều được sáng tác bằng cảm hứng dâng trào về lòng tự hào dân tộc của cái tôi trữ tình đầy sáng tạo.
Phải xem xét vấn đề này trên quan điểm lịch sử thì mới thấy hết những công phu và giá trị trong các phóng sự về những miền đất lạ. Thuở đó, giao thông vô cùng khó khăn. Ở miền núi, địa hình thì hoang vu, rậm rạp, phương tiện giao thông chính là đi ngựa hoặc đi bộ; ở thị thành, rất ít người được ra nước ngoài thăm thú, học tập. Do vậy, chúng tôi gọi những miền đất ít người biết đến trong phóng sự 1932-1945 là “miền đất lạ”; phóng sự viết về miền đất ấy là phóng sự về những miền đất lạ. Đó là những phóng sự Mọi rợ, Một buổi săn đêm của Lan Khai; Hai tháng ở gò Óc Eo (hay là câu chuyện đi đào vàng), Ban Mê Thuột của Biệt Lam (Trần Huy Bá); Giống Mọi ở Đồng Nai Thượng, 15 ngày với Mọi có đuôi, Mọi“Xà Niên” của Thái Hữu Thành; Tôi ăn tết ở Côn Lôn, 25 ngày đi tìm lại dấu người xưa của Khuông Việt; Tudrapura- Đồng Dương, Thiên Yana của Mãn Khánh Dương Kỵ; Sau tám mươi năm trở lại thăm Lao Kay, Từ Hà Nội đến hồ Ba Bể của Nhật Nham (Trịnh Như Tấu)...
25 ngày đi tìm lại dấu người xưa của Khuông Việt; Tudrapura- Đồng Dương, Thiên Yana của Mãn Khánh Dương Kỵ; Sau tám mươi năm trở lại thăm Lao Kay, Từ Hà Nội đến hồ Ba Bể của Nhật Nham (Trịnh Như Tấu)... đưa người đọc đến những vùng quê khác nhau với những quan niệm về vũ trụ, cách ăn ở, sinh hoạt, phong tục tập quán khác nhau của những tộc người trong nước. Đây là quan niệm của người Chàm (cư trú ở vùng đất Nam Trung bộ) về vị thần sáng tạo ra vạn vật: “Pô Inô Nogar, lại có tên là Mukjuk (Bà Đen) là một vị thần tối linh của người Chàm, do mây và bọt biển sinh ra. Nữ thần có 97 người chồng…38 người con…Bà Ino Nogar đã sáng tạo ra đất, gỗ quí, cỏ cây và lúa…”([55]). Quan niệm này khác xa với quan niệm của người Việt về đấng tối cao sáng tạo ra muôn loài.
Viết về cư dân vùng Việt bắc Việt Nam, tác giả Nhật Nham lại có cách diễn tả rất cụ thể: “Dân trong hạt dùng 6 thứ tiếng: Thổ, Nùng, Khách, Kinh (An Nam), Mán Cóc và Mán Tiền…” ([56]). Những tộc người này có cách ăn ở sinh hoạt khác nhau: “Người Thổ…Phần nhiều thích ở nhà sàn, dưới nuôi súc vật…mặc các đồ xanh…mỗi năm có một vụ lúa và hai vụ ngô. Người Nùng, cách ăn uống cũng như người Thổ. Cách mặc, cũng dùng đồ xanh, song áo ngắn, tay rộng…Người Khách buôn bán ở các nơi lỵ sở…hoặc làm vườn giồng rau, khoai, mía…Người Kinh buôn bán trong các chợ và làm phu cho mỏ… Người Mán Cóc…nhà cửa hay làm trên núi cao và xa nước… Đàn bà thích dùng đồ đỏ…yếm thì làm hẳn bằng một miếng nỉ đỏ, ở ngực và từ cổ, còn dài xuống đằng sau lưng ước tới 3 phân tây nữa… Người Mán Tiền… nhà hay làm trên sườn núi phẳng, thích ở gần nước… đàn bà mặc áo đen, hoa trắng, nhưng không thêu như người Mán Cóc…” ([57]). Nhờ những trang phóng sự này mà người dân ở thị thành, miền biển cũng có thể am tường về những tộc người trên cả nước.
Đặc biệt, những phóng sự thuộc nhóm đề tài này đã thực sự thu hút được người đọc khi có xu hướng khai thác triệt để những phong cảnh lạ và những câu chuyện lạ về những con người lạ. Dưới đây là một ví dụ về cảnh đi săn đêm có phần “ly kỳ và rùng rợn” trong tác phẩm của Lan Khai:
“Chúng tôi giật mình nhìn. Trong vùng ánh sáng đèn, một con hổ cực to nhảy vọt một cái từ bụi sậy dưới lợi nước lên cao rồi biến mất. An với tôi sảng sốt, cùng phóng luôn hai phát đạn nữa, nhưng kết quả cũng chẳng hơn gì phát súng vội vàng của Chúc vậy. Thì ra, con ác thú nấp dưới lợi sông, chúng tôi vô tình cứ nhìn trên cao, lúc biết đã muộn rồi...” ([58]). Người đi săn không nhằm bắn hổ, nhưng vô tình gặp hổ, điều này càng làm tính “rùng rợn” tăng lên rất nhiều.
Những cảnh ấy quen thuộc với người miền núi, nhưng thật xa lạ, “khiếp sợ” đối với dân thành thị và nông thôn đồng bằng.
“Có hôm, sáng còn thấy vết chân và lông hổ trước nhà. Nhân đó, tôi lại nhớ một chuyện của một ông bạn kể lúc trưa: trong đồn điền của ông có nuôi nhiều trâu, ngày vẫn thả trâu vào rừng ăn cỏ. Một hôm một con hổ nhảy ra định ăn thịt một con trâu mộng. Con trâu cũng không vừa, chống nhau với con hổ, hai con đánh nhau từ sáng đến chiều, khi người nhà tới, thấy trâu húc đầu xuống đè hổ chết bẹp dưới đất, bèn gọi nhau khiêng hổ và dắt trâu về. Nhà điền chủ lột da hổ đem phơi trên một tảng đá to. Một ngày kia, trâu qua chỗ ấy tưởng là hổ thực, cứ lấy đầu húc xuống da hổ, đến nỗi đầu chạm vào tảng đá mạnh quá, vỡ ra mà chết! Thế là trâu và hổ cùng chung một số phận...” ([59]).
Trong câu chuyện trên không biết bao nhiêu phần trăm sự thật, chỉ biết nó hấp dẫn vì trước hết đó là cảnh lạ, chuyện lạ sau nữa là “ly kỳ”, vì quá xa so với tưởng tượng của một người sống ở thành thị.
Thứ nữa là hình ảnh những con người lạ. Đây là “hình thể” của một giống người “mọi” ở Đồng Nai thượng được Thái Hữu Thành miêu tả thật là kì dị:
“Không đến nỗi xấu xí và ghê sợ như những đồng chủng của chúng ở Phi châu mà chúng ta thường thấy trên màn ảnh, giống Mọi ở đây cũng có một nét mặt bơ thờ và thô lỗ, nhất là bí hiểm và mơ hồ, ôi, chẳng ai bao giờ hiểu được. Môi dày và xám, mắt lộ và đục như mã não, lông rậm và tóc dài, bới lên hay là vấn lại xung quanh đầu như cái ổ rơm...” ([60]).
“Giống Mọi” này trang phục cũng thật khác lạ: “Trừ những bọn có của và gần gũi với người Nam ta thì chúng mặc áo cánh, tay ngắn; thì còn phần đông đều ở trần trùi trụi, chỉ che bộ phận sinh dục bằng một cái khố dệt bằng chỉ xanh đỏ, rộng một tấc và dài đến hai thước mà chúng quấn ba bốn bận ở ngang lưng. Còn Mọi gái thì vấn khăn cũng bằng chỉ xanh đỏ y như cái sampot của người Lào hay cái sarong của người Mên vậy. Xung quanh cổ và hai cườm chân, chúng đeo rất nhiều chiếc kiềng bằng bạc hay bằng đồng với nhiều xâu chuỗi xanh đỏ. Đó là những đồ trang sức duy nhất của chúng.
Giống Mọi ở Bà Lào, Gia Rinh và Ban Mê thuật thì có tục cà răng bằng thiến và căng tai dài gần xuống vai bằng hai khúc xương láng bóng” ([61]).
Gạt bỏ tư tưởng kỳ thị chủng tộc, khinh rẻ, coi thường những con người cực kỳ lạc hậu, đáng thương hơn đáng khinh, các nhà phóng sự Lan Khai, Nhật Nham, Thái Hữu Thành... đã cho bạn đọc hiểu biết về cuộc sống, lối nghĩ, cách ăn ở sinh hoạt của những con người ở những nơi xa xôi, hẻo lánh- nơi ít người biết đến.
Song song với việc miêu tả cảnh lạ ở trong nước, một số ngòi bút phóng sự nhân những chuyến đi làm việc, đi học đã ghi chép lại những điều trực tiếp chứng kiến về cảnh vật, con người ở nước ngoài. Đó là những phóng sự: Hà Nội Vientiane trong hai giờ của Vũ Nhật; Đi viếng mộ Khổng Phu Tử của Bùi Nam Tử; Tết Paris năm ấy của Trực Thần; Mười năm lưu lạc (phải đem một trăm cái sướng đêm tân hôn góp lại) của Lê Văn Trương...
Đây là cảnh văn minh của “nước mẹ đại Pháp” :
“Mấy khúc nhạc vang lừng như thúc giục khách phong lưu mau bước. Dòm ra cửa đã thấy lũ lượt mấy lớp sóng người: màu đen mướt, lẫn màu vớí màu xanh, trắng, đỏ, hồng. Mùi hương phảng phất dịu dàng, vẻ ngọc nhởn nhơ quyến rũ. Điệu “Valse Lente” đã nổi trong phòng khách nhuộm màu trắng bạc, từng tốp ôm nhau xoay tròn: khi mau, khi chậm, khi tới, khi lui, mấy vạt áo phất phơ nhấp nháng”([62]). Với việc sử dụng hài hoà những từ ngữ chỉ màu sắc (đen, xanh, trắng, đỏ), hương vị (phảng phất, dịu dàng), âm thanh (điệu Valse), đoạn phóng sự thể hiện đầy đủ sự xa hoa, hào nhoáng.
Trung Quốc là nước láng giềng, đồng thời là nước có nền văn hoá lâu đời mà văn hoá Việt Nam chịu sự ảnh hưởng không nhỏ. Bùi Tử Nam nhân chuyến thăm Trung Quốc đã đến viếng mộ Khổng Tử. Phóng sự Đi viếng mộ Khổng Phu Tử không những là áng văn hay tả cảnh vật mà tác phẩm còn toát lên sự ngưỡng mộ vô cùng đối với nhà hiền triết cổ đại Trung Quốc: “Ấy là miếu đức Khổng Phu Tử. Miếu cất trước ngôi mộ. Muốn đi ra mộ phải vòng qua phía sau bàn thờ. Kế đó ta lại lạc vào một rừng cây, sè sè một núm đất, trước núm đất có dựng tấm mộ bia sơ sài gắn trên một cái bàn cây xám. Trên mộ bia chỉ có mấy chữ như vầy: “Nơi đây an nghỉ Khổng Phu Tử, một người hiền trong hạng hiền nhân”.
Ngôi mộ sơ sài ấy trái hẳn với quang cảnh oai nghi, mà xứng đáng với một nhà hiền triết. Ngài muốn mộ của ngài nằm trong một khoảnh đất hẹp với một mộ bia mà thôi” ([63]).
Lê Văn Trương đến Cao Mên (Căm- pu- chia), đã có cách miêu tả rất chi tiết phong tục của người dân bản xứ trong Mười năm lưu lạc:
“Hồi ấy về tháng ba An Nam, giữa vào ngày tết của người Cao Mên. Tết này người ta gọi là Chô chetl. Người Cao Mên tính năm và tính tháng không giống An Nam, tuy rằng họ cũng theo âm lịch như mình. Thuỷ thổ trong ấy khác ngoài này, chỉ có hai mùa: mùa mưa và mùa nắng. Có lẽ năm họ tuỳ theo thuỷ thổ tiện lợi cho nên cấy lúa mà đặt ra. Trong ấy, người Cao Mên chỉ làm một mùa tháng 10, nhưng họ bắt đầu cấy từ tháng ba tháng tư cho mãi đến tháng chín mới xong, mùa gặt thì cho mãi đến tháng giêng, hai An Nam mới đoạn, vì ruộng đất thì nhiều mà người thì ít. Một nhà nghèo nhất cũng cấy được mười mẫu ta. Tháng thì họ không tính đến 30 ngày…”([64]).
Phải nói rằng, nhờ những phóng sự về những miền đất lạ mà bạn đọc được hiểu biết thêm về thiên nhiên, đất nước, con người ở nhiều vùng, miền, nhiều đất nước khác nhau.
Nghiên cứu giá trị nội dung của phóng sự 1932-1945, chúng tôi nhận thấy, cùng với những thành công, một số phóng sự cũng còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Những hạn chế đó có thể là do nhận thức mơ hồ về chính trị, nên ở một số phóng sự, tác giả phản ánh hiện thực chỉ để phản ánh, chứ chưa định hướng rõ ràng “xây” và “phá” điều gì trong xã hội đương thời. Bên cạnh đó, do sự bất cập ít nhiều đối với thuyết phân tâm học của Freud mà sa vào tự nhiên chủ nghĩa khi lý giải một số hiện tượng xã hội. Những hạn chế này thể hiện cụ thể như sau:
Trước hết hãy nói về Tam Lang - ông tổ của nghề viết phóng sự Việt Nam. Trước khi viết phóng sự, Tam Lang đã thử sức trên thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết với các tác phẩm như Giọt lệ sông Hương (tiểu thuyết - 1930), Đời Hoàng Oanh (tiểu thuyết - 1930), Một đêm trước (truyện ngắn - 1931) và ông thật sự thành danh khi hướng ngòi bút sang lĩnh vực “tả chân”. Ngoài các phóng sự có giọng văn châm biếm, hài ước như Lọng cụt cán (1939); Người … ngợm (1940) là các phóng sự bộc lộ sự cảm thông sâu sắc đối với kiếp người bé mọn. Thái độ của tác giả khi nhìn nhận con người lao động đậm chất nhân ái, mang quan điểm tiến bộ, tuyệt nhiên không mang màu sắc chính trị. Nhưng khi phản ánh hiện tượng xã hội, đôi khi tác giả cũng bộc lộ cách nhìn nhận lệch lạc. Chẳng hạn như trong Tôi kéo xe có nhiều “xen” tác giả miêu tả thái quá cảnh phu xe ăn chơi truỵ lạc: “Toàn đàn ông… đang châu đầu quanh một mâm đèn bốc khói: rầm rầm những tiếng: Rút, Lật, Bật, mẹ nó, cha mày” ([65]). Mỗi tháng có phu xe hút đến 6,7 đồng bạc thuốc. Gặp những cảnh tượng này, nhiều người đọc lại có cảm giác phu xe khổ vì họ lao vào ăn chơi cờ bạc, nghiện hút mà không phải do bị bóc lột quá sức. Trong tác phẩm, Tam Lang có lý giải nguyên nhân dẫn đến sự đổi thay trong tư tưởng, lối sống của anh Tư là bởi bị đòn đau: “Từ hôm ấy, tôi trông những người chung quanh tôi hoàn toàn như loài rắn, loài rết… rồi tôi làm nghề ma - cô đi dụ gái, rồi tôi nghiện thuốc phiện, rồi tôi ăn nói đểu cáng, vạch quần đứng đái vào chân ngay giữa phố không thẹn” ([66]), mà không thấy được sự tha hoá ấy chính là do sự bất công, tàn bạo, do bản tính vị kỷ của con người tạo nên. Ông lên tiếng bênh vực cho sự sa đoạ, sự trả thù đời của anh Tư: “Từ hôm ấy, mắt tôi chỉ trông thấy một vật, là tiền! Ngoài đồng tiền không còn có cái gì hơn. Nhân, đức, lễ, nghĩa… vứt đi, vứt đi hết”. Đây là điểm hạn chế của Tam Lang. Ông cho sự sa đọa của họ trong hoàn cảnh ấy là hợp lẽ. Các giải pháp ông đưa ra cuối tác phẩm nhằm cải tạo “nghề xe” chỉ là những giải pháp mang đậm tính chất cải lương.
Các phóng sự của ông “vua phóng sự đất Bắc” đều thể hiện một cách sâu sắc tính hiện thực, tính chiến đấu và tính nhân đạo. Cảm quan hiện thực sắc sảo đã giúp nhà báo, nhà văn Thiên Hư có những trang viết để đời với những tác phẩm đặc sắc cả về nội dung và hình thức. Nhưng do thế giới quan bị bó buộc bởi hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ, bởi hoàn cảnh riêng tư nên tác phẩm của ông cũng có hạn chế nhất định. Là nhà văn hiện thực triệt để, chuyên đặc tả mặt trái của xã hội đương thời; phanh phui cái xấu xa của xã hội nhưng trong phóng sự Lục xì, Một huyện ăn tết… do nhận thức mơ hồ về chính trị nên Vũ Trọng Phụng đã ngộ nhận về chế độ thực dân phong kiến.
Trước sự mẫn cán của một vài quan chức thực dân trong việc chữa bệnh cho gái mại dâm, trước thái độ niềm nở của viên giám đốc nhà lục xì, Vũ Trọng Phụng đã thật sự cảm động. Mặc dù ông đã từng viết về những cảnh bọn lính giữa đêm vào các nhà thanh lâu, tàn phá đánh đập những người không chịu bán dâm, nhưng lại không thấy được mục đích chúng lập ra nhà phúc đường là để phục vụ nhục dục cho đội quân viễn chinh của chúng. Ông cho rằng Pháp, lập ra nhà lục xì là thương người bản xứ, tránh cho giống nòi Việt Nam khỏi nạn vi trùng da liễu. Vì vậy, trong Lục xì, mặc dù lên án nạn mại dâm, nhưng ông lại có biểu hiện tự ti dân tộc trước bọn công vụ nhà lục xì, ông nhắc đến nhà cầm quyền với thái độ biết ơn. Khám phá các tệ nạn xã hội, Vũ Trọng Phụng tiến hành truy tìm căn nguyên sâu xa của các tệ nạn, nhưng có những tệ nạn, ông chỉ nhìn thấy nguyên nhân trực tiếp mà không thấy được nguyên nhân sâu xa của hiện tượng ấy. Chẳng hạn như trong Một huyện ăn tết, ông đi mô tả cặn kẽ cơ cấu tham nhũng từ trên xuống dưới của xã hội thực dân nhưng ông lại cho rằng bọn quan lại, lính lệ tham nhũng là do bản tính tư lợi chứ không phải do nó cũng được sản sinh ra từ chế độ bóc lột và giai cấp bóc lột. Họ Vũ sắc sảo khi phân tích những dục vọng thấp hèn, chỉ muốn thâu tóm tiền bạc của người khác của bọn cờ gian bạc lận, nhưng chưa chỉ ra rằng chính chế độ bóc lột là nơi nuôi dưỡng những dục vọng đó. Trong Lục xì, ông tích cực đưa ra những giải pháp để khắc phục tệ mại dâm như: thành lập ngạch đội con gái, sáp nhập nhà Lục xì vào nhà thương bảo hộ…, tán thưởng thủ tiêu mại dâm. Nhưng thực tế những giải pháp ông đưa ra không thể thực hiện được, bởi ông không hiểu rằng mại dâm là một nghề kinh doanh “siêu lợi nhuận” trong xã hội, cho dù chỉ là xã hội nửa thực dân đang chuyển mình theo hướng tư sản què quặt. Trong Kỹ nghệ lấy Tây, ông sắc sảo lựa chọn sự kiện lấy Tây - mặt trái của chiến tranh thuộc địa nhưng lại không thấy được hiện tượng này là kết quả tất yếu của cuộc chiến xâm chiếm thuộc địa. Cũng trong tác phẩm này, Vũ Trọng Phụng thể hiện hạn chế trong tư tưởng, trong cách nhìn nhận và giải quyết các vấn đề xã hội. Ông cho rằng người đàn bà lấy Tây vì tiền và vì nhục dục.
Đôi lúc, Vũ Trọng Phụng còn bộc lộ sự bi quan về thời cuộc, về phẩm chất tinh thần của con người. Ở Lục xì, họ Vũ nhiệt tình đưa ra các giải pháp chống nạn mại dâm, nhưng lại bi quan: “Nạn ấy có tính số kiếp…”; ở Một huyện ăn tết thì là nỗi buồn vô hạn: “Ấy đấy, các cụ đã thấy chưa? con cháu có đủ làm rạng rỡ tổ tiên chưa, vì trong năm qua, con cháu đã cướp bóc được như thế” ([67]). Trong Cạm bẫy người, Cơm thầy cơm cô, Kỹ nghệ lấy Tây, ông đưa ra triết lý đố kỵ “Không gì ghét nhau bằng những người cùng nghề nghiệp” và khái quát:“Ở đời này, bất cứ vào hạng nào… không ai muốn cho ai “khá” hơn cả”.
Điểm hạn chế nữa trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng là cái nhìn mang màu sắc tự nhiên chủ nghĩa khi miêu tả và giải thích một số hiện tượng xã hội. Biểu hiện cụ thể là khi đề cập cái dâm và nạn mãi dâm. Trong tác phẩm của mình, ông đưa ra nhiều nhân vật có bản tính dâm đãng. Cái Đũi trong Cơm thầy cơm cô; thị Lành, thị Tý trong Lục xì; đội me Tây đông đảo trong Kỹ nghệ lấy Tây, mỗi người đều được Vũ Trọng Phụng giới thiệu với hoàn cảnh và con đường hành nghề “mại dâm” khác nhau, nhưng cũng chính Vũ Trọng Phụng phân tích rằng vì nhân vật có tính dâm đãng nên mới vào nghề mãi dâm: con Sen Đũi là đứa con gái mà tạo hoá sinh ra để làm “nhà trò”, thị Lành vì hư hỏng, lười biếng mà bước vào nghề mãi dâm. Chính “sự ngứa ngáy xác thịt của loài người” là nguyên nhân căn bản của nạn mại dâm chứ không phải do hoàn cảnh xã hội, nhu cầu mưu sinh của con người. Nguyên nhân sâu xa của dâm và mại dâm là do bản năng tình dục của con người. Vì vậy mà ông đã có nhiều trang viết miêu tả cái dâm một cái quá sỗ sàng. Ông đã nhân danh “tả chân”, đưa cả bài Phong tình ca khúc vào tác phẩm và thản nhiên miêu tả một cách chi tiết cảnh khám bệnh “kín” cho gái thanh lâu.
Một yếu tố tự nhiên chủ nghĩa nữa trong phóng sự Vũ Trọng Phụng là cái nhìn miệt thị đối với những kẻ khốn cùng, tha hoá, tội lỗi. Họ Vũ đã quá lạnh lùng khi nói về sự ngu dại, đần độn của con sen, thằng ở, hoặc cái xấu xa, kệch cỡm của bọn gái đĩ, me Tây. Đây là hình ảnh một cô gái điếm mạt hạng - thị Lành được ông miêu tả vừa xấu lại vừa ghê sợ: “Hai cái má bánh đúc…, cặp môi dày… lia mắt nhỏ ti hí… Thị có một cái bụng và hai bắp đùi có thể đựng lọt một người đàn ông tầm thước, và hai cánh tay để ôm cho chết ngạt người đàn ông ấy. Thêm vào những mãnh lực như thế, lại còn một thứ giọng ồ ồ và một thứ cười cùng cục, nó rất đặc biệt cho những gái thanh lâu”([68]).
Tuy có chỗ họ Vũ sử dụng một cách “nghiệt ngã” ngòi bút tả chân, nhưng xuyên suốt các sáng tác của ông vẫn là nỗi cảm thông, sự xót xa đối với những thân phận bé mọn, khốn cùng.
Chuyên viết phóng sự, các tác phẩm của Trọng Lang tập trung phơi bày mặt trái của xã hội với tất cả sự xót xa của người cầm bút có lương tâm nhưng cũng do chưa có nhãn quan chính trị, do đứng trên lập trường của tầng lớp tiểu tư sản nên khi viết về những nhân vật “dưới đáy”, Trọng Lang không tránh khỏi có cái nhìn thiên lệch. Trong phóng sự Hà Nội lầm than (1938), mặc dù biết rõ vì cuộc sống mưu sinh nên các cô gái quê phải lao vào sàn nhảy, nhà thổ, nhưng ông lại thờ ơ chưa nhìn thấy rõ nỗi đau đớn trong lòng họ. Trọng Lang nhìn họ bằng con mắt thương hại, đôi khi khinh bỉ, coi họ như những con sâu, bọ bùn, cóc chết... Vì khinh bỉ lớp người này, nên ngòi bút tả chân của ông sa vào tự nhiên chủ nghĩa khi tả hình ảnh các cô gái chuyên sống bằng nghề mua vui cho kẻ khác: “Từ trong mồm cô đưa ra một thứ hơi… “thối” vô cùng. Thứ hôi “thối” của ruột, gan, phổi, đã nẫu ra vì lao lực, thức đêm, kém ăn, hôi thối của các thứ vi trùng bệnh kín và ho lao” ([69]). Vẫn cái nhìn khinh bạc lớp người cùng khổ, trong Làm dân, mặc dù viết về những hủ tục ở làng quê, xót xa trước nỗi khổ vì mấy tầng áp bức của người dân quê, nhưng Trọng Lang lại cho rằng người nông dân khổ vì họ ngu dốt, mu muội chứ không phải do chế độ thực dân nửa phong kến. Dưới con mắt của Trọng Lang, nhà quê là bẩn thỉu, toàn những kẻ xấu xí, thô kệch, dị dạng, không đáng trọng, nên khi miêu tả người “nhà quê”, ông thường tô đậm những nét xấu xí, ngu đần của họ. Đây là hình ảnh một cô gái quê trong Vợ lẽ nàng hầu: “Một thiếu nữ…lưng u vồng lên như một nửa cái chum… Tiếng cười qua hai hàm răng nghiến chặt thì đích thị là của người điên… một bộ mặt lác sệch, một bộ răng nhờ đen, một liễn thịt”([70]). Lột tả nỗi khổ của kiếp lẽ mọn, tìm sự cảm thông của độc giả, nhưng chính tác giả trong Vợ lẽ nàng hầu lại có cái nhìn thiên lệch về hiện tượng này. Ông coi họ là kẻ tòng phạm của chế độ đa thê. Họ làm vợ lẽ vì họ ngu ngốc và họ thích được như thế. Trước nỗi đau của họ, ông tỏ ra thiếu cảm thông, đôi khi miệt thị… Nhìn chung, tuy rất sắc sảo trong lựa chọn vấn đề, nhìn hiện thực bằng con mắt của một nhà xã hội học, nhưng do mơ hồ về chính trị, nhận thức về xã hội đôi khi còn sai lệch, tác giả lại đứng trên quan điểm của tầng lớp trí thức tiểu tư sản phán xét sự vật, hiện tượng bằng con mắt của tầng lớp mình lúc đó, cho nên những hạn chế trong phóng sự Trọng Lang là điều không tránh khỏi.
Ngô Tất Tố - một nhà Nho uyên thâm, luôn thấy được bản chất tốt đẹp của người lao động, nhưng đôi chỗ trong Việc làng do quá mải mê miêu tả hủ tục mà cũng rơi nào tự nhiên chủ nghĩa. Cảnh anh nông dân tập đi giày trong “Đôi giày mất dạy” là ví dụ tiêu biểu.
Những yếu tố của chủ nghĩa tự nhiên còn thể hiện đậm nét trong các phóng sự viết về những miền đất lạ. Tiêu biểu nhất là sáng tác của Lan Khai và Thái Hữu Thành. Trong phóng sự Mọi rợ, Lan Khai đã để cho hai nhân vật là anh em ruột (Tum Điăng và Tsi-na) cùng chứng kiến cảnh giao phối của hai con khỉ mà bị kích động rồi cùng nhau làm tình. Điều loạn luân này hoàn toàn xa lạ với loài người, dù có là con người còn sống trong hoàn cảnh lạc hậu đến thế nào đi chăng nữa... Hay ngay cái tiêu đề phóng sự đã có sự kỳ thị chủng tộc, miệt thị con người như Mọi rợ của Lan Khai, Giống Mọi ở Đồng Nai thượng, Mười lăm ngày với mọi có đuôi, Mọi “Xà Niên”, Ngải Mọi ở Đồng Nai thượng của Thái Hữu Thành...
Điểm hạn chế nữa về nội dung của phóng sự 1932-1945 là ở một số phóng sự về di tích lịch sử - văn hoá và danh lam thắng cảnh nặng về liệt kê sự việc, ghi chép tản mạn, thấy gì ghi nấy, ít lựa chọn sự kiện và đối tượng miêu tả khiến nội dung tác phẩm dàn trải. Từ Hà Nội đến hồ Ba Bể của Nhật Nham, Hai tháng ở gò Óc Eo của Trần Huy Bá, Quảng Yên du ký của Nhân Vân Đình… là những ví dụ cụ thể.
Nói chung, hạn chế rõ nhất của các nhà phóng sự giai đoạn 1932-1945 (trừ các nhà phóng sự thuộc khuynh hướng hiện thực cách mạng) là không đưa ra được hướng giải quyết tích cực cho những vấn đề họ nói đến. Họ cảm thông với nỗi khổ của nông dân, lên án các tệ nạn xã hội, cảnh tỉnh thiên lương… nhưng không thấy được nguyên nhân sâu xa gây nên những hiện tượng ấy. Các giải pháp cải tạo thực trạng của họ đều mang tính chất cải lương chủ nghĩa. Họ buông xuôi, trông chờ vào sự nhân từ độ lượng hoặc sự cải cách giả tạo của nhà nước thực dân đã mục ruỗng, thối nát và phản động.
Phải khẳng định rằng, phóng sự 1932-1945 có đóng góp quan trọng vào tiến trình hiện đại hoá văn học những năm đầu thế kỷ XX. Lâu nay chúng ta quá quan tâm, chú ý tới thành tựu của thơ mới, của tiểu thuyết, của truyện ngắn 1930-1945 mà coi nhẹ thể loại phóng sự. Những chứng minh của chúng tôi ở trên đã phần nào khẳng định thành tựu của thể loại này.
Phóng sự Việt Nam 1932-1945 đã vạch rõ tình trạng thối nát của xã hội Việt Nam những năm nước nhà còn nô lệ. Đó là những tệ nạn nhức nhối làm băng hoại giá trị đạo đức truyền thống như cờ bạc, mại dâm, nghiện hút, trộm cắp... Đó là cảnh “bùn lầy nước đọng” cùng những hủ tục và cuộc sống khổ cực của người dân quê. Những tệ nạn đó thật đáng lên án vì chúng được sự tiếp tay của chính quyền thực dân nửa phong kiến. Vượt xa các thể loại khác như truyện ngắn và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn cùng giai đoạn, phóng sự đã làm tốt vai trò phơi bày mặt trái xã hội bằng cách lách ngòi bút điều tra đến tận cùng của những cái xấu, cái dở, cái đáng lên án. Phải có tấm lòng yêu thương, trước hết là yêu thương con người, các tác giả phóng sự mới có những trang viết phê phán mạnh mẽ đến như vậy. Viết về thực trạng xã hội, phóng sự rung chuông cảnh tỉnh sự sa đọa về lối sống, sự tha hoá, biến chất về đạo đức của các hạng người và tìm nguyên nhân của sự tha hoá ấy. Những đề nghị, giải pháp đưa ra trong phóng sự mặc dù còn cải lương chủ nghĩa hoặc chưa sát thực tiễn nhưng cũng khiến mỗi cá nhân trong xã hội phải nhìn lại chính mình. Ý thức công dân, ý thức sáng tạo nghệ thuật đã giúp các tác giả có những trang văn hay, sống động.
Điểm đặc biệt của phóng sự Việt Nam 1932-1945 là có những tác phẩm tập trung viết về chế độ hà khắc ở trại giam của thực dân. Đó là những trang phóng sự được đảm bảo bằng máu của những người tù cách mạng. Tác giả phóng sự cũng là tù nhân từng bị hành hạ, tận mắt chứng kiến bao cảnh máu đổ, xương tan của đồng đội bởi ngọn roi tàn bạo, bởi gông cùm và sự đày đọa vô nhân đạo.
Phóng sự Việt Nam 1932-1945 cũng không thiếu những trang văn trữ tình, giàu chất thơ khi các nhà phóng sự hướng ngòi bút tới những phong tục và sinh hoạt văn hoá, những di tích và danh lam thắng cảnh của đất nước cùng những miền đất lạ. Về điểm này, nó có giá trị như “cân bằng” lại những trang phóng sự được viết theo nguyên tắc “hiện thực nghiệt ngã” ở lĩnh vực miêu tả mặt trái xã hội.
Bên cạnh những thành công về giá trị nội dung, phóng sự Việt Nam 1932-1945 vẫn có những hạn chế nhất định. Hạn chế này trước hết là do chỗ đứng, điểm nhìn, vị trí xã hội của đội ngũ sáng tác mang lại. Phần lớn các nhà phóng sự lúc đó chỉ là những nhà văn hiện thực, vẫn chưa có một lý tưởng thật đúng đắn soi đường, nên khi viết về mặt trái xã hội, nhiều người không biết hoặc không dám nói ra kẻ gây nên mọi cảnh xấu xa, đáng lên án đó là thực dân Pháp. Có những trang phóng sự điều tra mà chỉ điều tra, không hướng người đọc tới một vấn đề mang ý nghĩa xã hội lớn lao là thức tỉnh lòng yêu nước, chỉ rõ kẻ thù. Hạn chế này xuất hiện ở trong chính lớp nhà văn tiên phong.
Điểm những nét thành công và hạn chế của phóng sự Việt Nam 1932-1945 cũng là một cách để sáng tỏ một nguyên lý cơ bản: phóng sự là một thể loại văn học, báo chí mang tính xã hội hoá cao (những phóng sự nổi tiếng đều tác động ít nhiều tới dư luận xã hội), do vậy nhà phóng sự trước hết phải trang bị cho mình một thế giới quan đúng đắn, lành mạnh, tiến bộ, vì con người.
([1]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 1, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 18.
([2]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 428.
([3]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 489.
([4]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr.95.
([5]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr.766.
([6]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr.737.
([7]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr.746.
([8]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr.765.
([9]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 429.
([10]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 430.
([11]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 1, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 342.
([12]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 2, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 930.
([13]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 611.
([14]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 556.
([15]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 1, Nxb Văn học, H. 2000, tr.209 - 210.
([16]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr.135.
([17]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 783.
([18]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 875.
([19]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 736.
([20]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 722.
([21]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 745.
([22]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 768.
([23]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 1, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 75.
([24]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 1, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 57.
([25]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr.28
([26]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 2, Nxb Văn học, H. 2000, tr.36
([27]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 2, Nxb Văn học, H. 2000, tr.36
([28]) Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 2, Nxb Văn học, H. 2000, tr.58
([29]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 2, Nxb Văn học, H. 2000, tr.63
([30]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 2, Nxb Văn học, H. 2000, tr.71
([31]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 2, Nxb Văn học, H. 2000, tr.85
([32]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 2, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 58
([33]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 2, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 65
([34]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 2, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 85.
([35]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 2, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 801.
([36]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 2, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 821.
([37]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 2, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 801
([38]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 2, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 103.
([39]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 2, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 72 .
([40]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 568.
([41]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 570.
([42]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 900
([43]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 900
([44]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 930
([45]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 1017
([46]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr.1040
([47]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr.1026
([48]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 1027
([49]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr.1030
([50]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr.1063
([51]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr .1053
([52]).Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 2, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 1217
([53]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr . 1071
([54]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr .1141.
([55]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 2, Nxb Văn học, H. 2000, tr .1144
([56]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 1, Nxb Văn học, H. 2000, tr .1069
([57]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 1, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 1069,.. 1071
([58]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 1, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 1001
([59]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 1, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 1053
([60]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 1, Nxb Văn học, H. 2000, tr.1213.
([61]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 1, Nxb Văn học, H. 2000, tr.1213.
([62]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr.1118
([63]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr .1147
([64]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr.1105
([65]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 1, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 330
([66]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 1, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 56
([67]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 891.
([68]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr.849.
([69]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 96
([70]). Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm, biên soạn, Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr.448