Những góc nhìn Văn hoá
Thử bàn về chu kỳ [Kỳ 1]
“Bây giờ năm tháng vẫn qua
Xót thương lần lữa lại là xót thương
Bây giờ lật khúc đoạn trường
Mới hay xưa cũng dặm đường đó thôi...” – Thơ Trần Ninh Hồ

Nhà thơ xứ Kinh Bắc đẹp trai lai... Giao Chỉ này còn có câu rất “lảm nhảm” nữa: “Hôm nay thì cũng là mai đó rồi...” Ô hay! nếu thế thì cuộc đời này còn hứng thú quái gì nữa? Thà trở lại cái thời của cụ Bút Tre ngày trước: “Hàng đầu rồi biết đi đâu? / đi đâu không biết hàng đầu cứ đi”... còn hơn. Song, loại trừ những yếu tố ám chỉ nhân tâm thế sự nhập nhằng của thi ca ra, thì những câu thơ trên chính là đã nói đến một quy luật muôn thuở của vũ trụ, quy luật lặp lại.
Cái quy luật đó vừa hiện hữu, vừa cao xa vời vợi. Lúc nào cũng cảm thấy nó ở quanh ta mà hình như không ở đâu cả... Dẫu biết mình kiến thức cực kì nông cạn, chẳng khác chi ếch ngồi đáy giếng, thì người viết cũng cứ xin được “múa rìu qua mắt thợ”, mà liều mạng viết mấy dòng ngô nghê, thô thiển... ra đây, để (lạm) “bàn” (có pha chút “lãng mạn”...) về cái gọi là sự “lặp lại” ấy. Cúi mong các bậc cao nhân nếu có trót đọc đến thì (sau khi đã chê cười một cách chán chê rồi), hãy lượng thứ mà chỉ giáo cho những chỗ còn sai lầm, non nớt... Toàn văn sự liều mạng như sau:
Còn nhớ ngày trước, trong trường phổ thông, các thầy giáo giảng cho học trò (trong đó có người viết) rằng quan niệm về “ngũ hành” là một kiến thức hết sức “thô sơ” của người phương Đông xưa về cấu tạo của vũ trụ. Rằng “ngũ hành” tức là 5 “nguyên tố” cấu tạo nên toàn bộ vật chất trong vũ trụ này(!). Chà! nếu như thế thì các cụ xưa quả có thô sơ, kém cỏi thật. Các cụ mới chỉ… biết có 5; mà chưa biết đến… 10, đến 100… Bởi lúc ấy, cái ông Mendeleev người Nga kia đã lập ra cả một bảng tuần hoàn với ngót sáu bảy chục nguyên tố hoá học cấu tạo nên vũ trụ (mà vẫn chưa hết) kia mà.
Chao ôi! giảng như thế, chính là người ta đã hiểu hết sức “thô sơ” (nếu không muốn nói là chẳng hiểu gì) về “ngũ hành” cả. Chẳng trách học trò như kẻ đang viết những dòng này vì cái sự “học” ngày ấy mà “ngu” mãi cho đến tận bây giờ, thậm chí có nguy cơ sẽ còn ngu kéo dài thêm nhiều đời nữa (thế mới gọi “ngu lâu”). Chưa kể có một thời, người ta còn chủ trương đốt bỏ hẳn những học thuyết ấy đi (cùng với nhiều thứ sách khác ví dụ Kinh Dịch, tử vi, phong thuỷ…), cấm dạy cho học trò, cấm học trò tìm đọc vì cho đó là những thứ học thuyết “mê tín dị đoan”, là phong kiến phản động, phản khoa học, là tàn dư của chế độ cũ thối nát, v.v…
Lịch sử kiến thức cũng như văn hoá của nhân loại đã từng chịu bao nhiêu cú thất truyền. Song, đến cú này mới thật là một cú chí mạng.
Chẳng biết từ đời kiếp nào, căn cứ vào đâu mà các vị Tổ Sư phương Đông nhà quê chân đất mắt toét lại chia Ngày ra làm mười hai canh giờ, rồi đặt cho nó những cái tên cũng sặc mùi nhà quê là tí, sửu, dần, mão... rồi lại gắn vào đó mười hai con vật thực hư, sang hèn lẫn lộn là chuột, trâu, chó, lợn cùng với cả rồng, hổ,v.v... nữa.
Điều này đối với các nhà lịch pháp vốn chẳng lạ lẫm gì. Bởi đây đang nói đến một thứ chu kì. Đó là chu kì tự quay xung quanh mình của Trái Đất (chu kì NGÀY). Khoảng thời gian cho một vòng quay như thế được chia đều làm 12 canh giờ theo cách chia của người phương Đông, hay 24 tiếng đồng hồ theo cách chia của người phương Tây. Song, sự khác nhau (rất quan trọng) giữa Đông - Tây không phải ở chỗ 12 hay 24, mà chính là ở cái chỗ “tí”; “sửu”; “dần”; “mão”... kia.
Sở dĩ nói khác nhau rất quan trọng bởi mấy lẽ sau:
Người phương Tây quan niệm thời gian đi theo đường thẳng (một đi không trở lại), thời gian là đồng nhất, là một đại lượng độc lập, một đại lượng “vô cơ”, vô hồn.
Ngược lại, người phương Đông xưa quan niệm thời gian đi theo vòng tròn (đúng ra là xoáy ốc), thời gian là một quá trình lặp lại. Thời gian là không đồng nhất. Nó chỉ có ý nghĩa khi gắn liền với một không gian cụ thể. Nó là một đại lượng “hữu cơ”, có hồn.
Hãy xem cái “tí”; “sửu”; “dần”; “mão”... kia của chu kì ngày (tháng, năm, kỉ (12 năm), giáp (60 năm)… cũng thế). Nó cứ lặp lại như vậy mãi, theo quy luật của đèn cù, rằng: “tít mù nó lại vòng quanh”, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, v.v… cứ “tý, sửu, dần, mão...” không bao giờ ngừng.
Nhưng điều lý thú nhất (và cũng cực kì khoa học) là cái món “tí”; “sửu”; “dần”; “mão”... (gọi là 12 “địa chi”) ấy hoàn toàn không dửng dưng vô tình vô nghĩa bỏ mặc nhân gian trôi đi một mình (giá nó bỏ mặc có khi lại thích hơn). Đằng này nó luôn luôn gắn bó một cách vô cùng biện chứng với một thứ “không gian” rất trừu tượng mà cũng rất chi là cụ thể mới là điều đáng nói.
Không gian đó là gì?
Là NGŨ HÀNH (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ). Năm đặc trưng tổng quát, bao trùm toàn bộ vật chất, tinh thần... không tha một thứ gì trên mọi thế gian.
Học thuyết về âm dương ngũ hành (từ đây thỉnh thoảng gọi tắt là “ngũ hành”) có lẽ ra đời trước cả những Socrate, Platon, Aristote, v.v... rất lâu. Những nhà triết học Hy Lạp cổ đại này với môn vật lý học cổ điển nổi tiếng bảo tàng của mình có tham vọng tìm ra cái “lý kì cùng” của mọi sự tồn tại trong vũ trụ. Các vị đã chủ trương rất đúng rằng cái “lý kì cùng” ấy là một “nguyên lý chất thể”, rằng vạn vật hình thành là do “quá trình biến hoá của những nguyên lý”. Đáng tiếc là vật lý học cổ điển đã không nhờ được vào những chủ trương đúng đắn ấy mà đi xa hơn. “Vật lý học” hiện đại tiếng là nối tiếp vật lý học cổ điển, song đã rẽ sang hướng khác. “Nguyên lý chất thể” đã được thay thế bằng “nguyên lý vật thể”. Dù đạt được rất nhiều thành tựu, đặc biệt là tính ứng dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội (nhất là trong chiến tranh) cực kì cao. Song “vật lý học” hiện đại ngày càng rời xa cái “lý kì cùng” mà các vị tiền bối ngày trước muốn hướng tới. Vì thế, cái gọi là môn “vật lý học” hiện đại ngày nay dù khổng lồ đến mấy, thì thực chất cũng chỉ nên gọi là môn “vật học” mà thôi.
Ngũ hành nếu có một chủ trương ngay từ đầu, thì cũng chẳng khác chủ trương của các nhà triết học cổ đại Hy Lạp kia mấy tí. Chỉ khác ở chỗ là nó dường như đã đạt tới cái “lý kì cùng” mà các vị ấy đã hình dung. Ngũ hành thoạt tiên nghe có vẻ như một môn lý sự mô tả vật chất đấy, song (rồi ta sẽ thấy), rằng nó lại không thèm quan tâm đến tính “vật”, mà chỉ quan tâm mỗi cái khoản “chất” của vật chất mới là điều kinh dị đáng bàn.
Chẳng khác nào một anh lấy vợ mà không một lần nhìn đến gương mặt, chỉ chăm chăm ngó... cái mông. Vậy mà cứ sinh con đẻ cái sòn sòn mới giỏi.
Nói cách khác, học thuyết ngũ hành chính là sự mô tả quy luật tồn tại, phát sinh, phát triển của tất cả, nhỏ thì như 1 hạt cơ bản, một khoảnh khắc, mà lớn thì toàn bộ vũ trụ vô cùng tận này mà không hề quan tâm đến tính “hạt” (rất giả) của nó. Ngũ hành chỉ xét mỗi tính “sóng” (rất thật) của vật chất mà thôi. Tóm lại, ngũ hành chính là những quy luật về tính “sóng” của vật chất.
Triết học cổ điển Trung Hoa nổi tiếng bởi tính chất thực dụng của nó. Vì vậy, khác với Hoa Nghiêm tông, Thiền tông... chỉ chấp nhận thế giới tận cùng thực (sóng – không), trong khi đó thì ngũ hành lại có thể áp dụng cả với những cái chưa thực, chưa tận cùng (học một chữ cũng có thể làm thầy được rồi mà học trăm chữ, vạn chữ... cũng đều có thể làm thầy). Thậm chí cả những nhận thức thiển cận, sai lầm, lệch lạc, v.v... cũng không ra khỏi ngũ hành. Vậy có thể nói ngũ hành “Đại thừa” còn hơn cả... Đại thừa.
Kiến thức vũ trụ theo quan điểm của người phương Đông xưa không bắt đầu từ Trái Đất vươn tới các thiên thể, hệ thiên thể... như ngành khoa học nghiên cứu về vũ trụ từng làm thế. Mà được bắt đầu ngay từ cái nhỏ nhất, từ những “hạt” cơ bản (hoặc siêu cơ bản) trở ra cho đến các thiên thể, hệ thiên thể. Tóm lại là từ sâu thẳm trong “bụng” ta ra đến ngoài vô cùng...
Bởi từ lâu, người phương Đông đã quan niệm tất cả đều là... thiên thể. Cả vũ trụ chỉ bao gồm các thiên thể, từ nhỏ nhất đến lớn... vô cùng... Ngoài ra không còn gì khác. Kể cả người, vật, cái cây, hòn đá... cũng là một tập hợp các thiên thể (vì thế mới bảo con người là một “tiểu vũ trụ”). Đến lượt “thiên thể” xét đến cùng thì cũng chả có gì. Đó chẳng qua chỉ là tập hợp của những “dao động” nào đó mà thôi. Thực ra dùng từ “thiên thể” hoặc “hạt” để chỉ những thứ tồn tại ấy là rất “gượng” bởi không còn từ nào khác. Chỉ nên nhớ rằng sở dĩ nó “tồn tại” bởi bản thân nó (hoặc trong nó) đang có sự chuyển động. Chứ sự chuyển động ấy chỉ cần dừng lại một cái là lập tức các “thiên thể” hoặc các “hạt” ấy sẽ biến mất tăm tích, như chưa hề có nó bao giờ.
Ví dụ ta cảm thấy có ánh sáng trong phòng là do có sự dao động của các “hạt” photon. Song khi tắt công tắc, không còn sự dao động nữa, các “hạt” photon lập tức biến mất. Không phải chúng “chuồn” ra khỏi phòng hay “độn thổ” đi đâu nhé. Chúng biến thật đấy, như chưa hề tồn tại. Vì thế dù có nhanh tay cỡ... Tôn Hành Giả thì cũng không thể “hứng” được “hạt” nào.
Nhưng điều lạ nhất, song cũng kì diệu nhất là người phương Đông xưa lại không có ý định mô tả tính “hạt” của vật chất như con đường đi của vật lý học hiện đại. Mà ngay từ đầu, đã mô tả tính “sóng” (hay sự dao động) của vật chất. Tính “sóng” mới là thực, là Chân như, là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. “Sóng” mới là bản chất tổng quát nhất. Nó bao trùm toàn bộ vũ trụ này.
Tại sao người xưa lại có thể cảm nhận được vật chất dưới dạng huyền vi, tổng quát như thế mà không hề cần đến bất cứ một thiết bị nào? Có lẽ phải mượn một chút tư tưởng của Thiền để giải thích. Chung quy do cái sự “chấp” mà thôi. Rằng con người vì “chấp” vào cái “ngã” (tôi, ta, sự tồn tại của bản thân, của vạn vật...) quá lớn nên không thể sang phòng bên cạnh mà không bước chân qua cửa. Nếu xoá bỏ được cái “ngã” đó trong hết thảy mọi ngóc ngách của tận cùng tâm tưởng thì ngay lập tức, nếu muốn, bạn không những có thể có mặt ở phòng bên cạnh, mà ở ngoài đường bay bất cứ đâu trong mọi vũ trụ đều được. Điều đó còn kì diệu gấp nhiều lần nhân vật Đuytiơn trong tác phẩm “Người đi xuyên tường” của Marcel Aymé. Một khi bạn đã xoá được “chấp” trong chính tâm tưởng của mình, thì những bức tường không còn là vật ngăn trở nữa. Khi đó, bạn sẽ nghe được hết thảy mọi âm thanh đang rộn rã khắp mọi thế giới, sẽ nhìn thấy mọi màu sắc đang phơi bày trước mắt mình... Ấy là nói 1 cách hình tượng thế thôi. Chứ đạt tới cảnh giới đó, thì tri thức sẽ được cảm nhận một cách trực tiếp, không cần thông qua các giác quan nữa. Và hình ảnh thực về những tồn tại bấy lâu xung quanh bạn, của cả vũ trụ này sẽ khác đi nhiều lắm.
Nhưng cái gì sinh ra những thứ thời gian và không gian (ngũ hành) ấy?
Hình dung một cách thô thiển, thì bắt đầu từ một chuyển động đầu tiên nào đó, vật chất lập tức xuất hiện dưới dạng một hạt cơ bản (hoặc siêu cơ bản...). Xin đừng thắc mắc vậy cái gì “chuyển động”? Không có gì cả (thế mới gọi thái cực). Nói cách khác, vũ trụ đang từ “không”, bắt đầu có tính “sóng” (dao động) đồng thời có cái gì đó tựa như... tính “hạt”. Vật chất xuất hiện. Và vũ trụ lập tức bước ra khỏi “Đạo” (nói theo Lão Tử), hoặc bước ra khỏi “Thái Cực” (nói theo Dịch) để bắt đầu hình thành. Chuyển động đầu tiên ấy ngay lập tức đã là một chuyển động có chu kì (lặp lại). Sự lặp lại tất phải có hai chiều ngược nhau, sinh ra Âm, Dương (Lưỡng nghi). Chuyển động làm thay đổi trạng thái của “hạt”, khoảng cách từ trạng thái nọ sang trạng thái kia chính là thời gian. Tập hợp những vị trí của nó tạo nên không gian. Như vậy chuyển động tạo nên vật chất, đồng thời chuyển động sinh ra không gian và thời gian.
Thế nếu không có chuyển động sẽ không có vật chất chăng? Đúng thế. Đây là điều mà sau ngũ hành mấy ngàn năm, cho đến tận thế kỉ thứ 17, Descartes vĩ đại mới hình dung thấy một cách gần đúng khi ông chủ trương vạn vật là “kết tinh của trương độ và chuyển động”. Ngày xưa có câu chuyện cả làng đuổi theo một con trâu vô chủ. Con trâu nom rõ to, hứa hẹn một bữa chén no nê cho cả làng. Thế mà đến khi túm được sợi dây thừng, bắt nó dừng lại thì bỗng không thấy con trâu đâu nữa. Ban đầu mọi người cho là ma, người nọ tìm cách giải thích với người kia... Về sau đâm ra nghi ngờ có kẻ ăn mảnh... Làng xóm vì thế đâm mất đoàn kết nội bộ. Con trâu ấy đến giờ vẫn không tìm thấy, trong khi nỗi ngờ vực thì cứ nhân mãi lên...
Nếu bảo đó là câu chuyện bịa thì chuyện này là thật chăm phần chăm. Ấy là nguyên lý của cái sự... nhìn. Đôi mắt của chúng ta (và của mọi loài vật khác) sở dĩ nhìn thấy những gì đang hiện hữu phía trước là do có sự... chuyển động. Cho dù ta ngồi im và những vật phía trước ta cũng bất động, thì con ngươi trong mắt ta vẫn chuyển động trong một môi trường “thuỷ tinh thể” hết sức linh động, giúp nó luôn thay đổi vị trí tương đối đối với mọi vật. Và thế là ta nhìn thấy. Nếu có cách gì cố định con ngươi lại thì trước mắt ta sẽ chỉ là một màn sương đục lờ. Dĩ nhiên đối với những vật chuyển động thì ta vẫn nhìn rõ. Ở một số loài động vật ví dụ loài ếch chẳng hạn, chúng có đôi mắt cố định. Vì thế chúng chỉ nhìn thấy mọi vật trong khi di chuyển. Nếu chúng ngồi im thì trước mắt chúng cũng chỉ là một màn sương trắng. Một con châu chấu có thể bình yên vô sự đậu ngay trước mũi con ếch, với điều kiện nó phải nằm thật yên. Song nếu có 1 làn gió thổi tới thì trong mắt con ếch ấy, thiên nhiên cây cỏ sẽ lập tức hiện lên. Và chỉ cần một cái lắc nhẹ, con châu chấu kia cũng lập tức bị nó phát hiện.
Ở mức độ các vi “hạt” (electron, neutron, photon...) thực chất khoa học cũng chưa bao giờ “sờ” thấy hay “tóm” được một “hạt” cụ thể nào. Mà chỉ nhận biết sự “tồn tại” của nó thông qua những tương tác lẫn nhau hoặc thông qua sự tác dụng lên một môi trường nào đó (màn huỳnh quang chẳng hạn). Nghĩa là chỉ nhận biết và mô tả hạt (hoặc sóng) thông qua những tính chất chuyển động của nó (chính xác gọi là dao động). Chính điều này, người phương Đông xưa đã làm từ lâu. Có điều người ta không dùng các đại lượng (vật lý) khô khan, như tần số, biên độ, chu kì... như khoa học đã làm. Các đại lượng ấy dẫu có giúp con người phân biệt được các hạt (lại hạt), song đó chỉ là những đại lượng “vô cơ”, “vô hồn”. Nó không cho thấy những quy luật phát sinh, phát triển, diệt vong, những quy luật thịnh suy, hưng phế... của vật chất, mở rộng ra là toàn vũ trụ. Người phương Đông xưa nhìn nhận những chuyển động (sóng) như những cơ thể sống, có mùi vị, hồn vía, có số phận, lớp lang... đàng hoàng. Theo đó thì bất kì một chuyển động có tính lặp lại (dao động) nào của mỗi “hạt” (cũng là mỗi thiên thể hoặc vũ trụ...) cũng đều sinh ra những “thuộc tính”, đều bao gồm những cái “lý” đặc trưng. Những cái “tính”, hay cái “lý” đó là gì? Có 5 thứ cả thảy, tạm “định nghĩa” như sau:
1- Tính sinh sôi, hướng theo chiều dài... - gọi là mộc
2- Tính nóng, nhẹ, hướng lên... - gọi là hỏa
3- Tính nuôi dưỡng, hoá dục... - gọi là thổ
4- Tính cứng cáp, thanh, tĩnh... - gọi là kim
5- Tính lạnh, chan hòa, hướng xuống... - gọi là thuỷ
Thế là cùng với sự xuất hiện của cái chuyển động đầu tiên đó, NGŨ HÀNH (mộc, hoả, thổ, kim, thuỷ) lập tức xuất hiện, cùng lúc với sự xuất hiện của Lưỡng Nghi (âm, dương). Vạn vật rồi sẽ hình thành, phát sinh, phát triển và sinh sôi nảy nở... trên cơ sở sự biến hoá của những cái “tính” hay những cái “lý” này. Đây chính là những “nguyên lý” mà các nhà triết học cổ đại Hy Hạp nói trên đã hình dung thấy. Có điều các vị đã không thể đi tới tận cùng.
Ngũ hành vừa xuất hiện, thì lập tức mang trong mình những quy luật tương sinh, tương khắc... bất diệt của nó. Đây mới là điều kiện cốt tử cho mọi sự phát sinh, phát triển, diệt vong... của vũ trụ, sự sinh sôi nảy nở của vạn vật... Giả sử bắt đầu từ “Thái cực”, cũng (tình cờ) xuất hiện một chuyển động nào đó,song nếu chuyển động ấy không mang những thuộc tính “ngũ hành” như vừa kể ở trên, thì vũ trụ sẽ mãi mãi dừng lại ở chuyển động đầu tiên ấy. Và đó sẽ vĩnh viễn là một “vũ trụ” chết, một “vũ trụ” không thể sinh ra vạn vật kể cả con người, không thể sinh ra các nền văn minh... Rất may điều đó đã không xảy ra. Thế là con người hàng ngày hàng giờ cứ được chứng kiến một vũ trụ luôn nằm trong trạng thái phát sinh, phát triển, luôn ở trong những quá trình có sinh, có diệt... Từ đó, con người đã tìm ra nguyên nhân tối hậu đã tạo nên tất cả những quá trình ấy. Đó chính là “ngũ hành” cùng với những tương sinh, tương khắc... kì diệu của nó. Những quy luật “tối hậu” ấy là:
Tương sinh: Mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thuỷ, thuỷ sinh mộc...
Tương khắc: Mộc khắc thổ, thổ khắc thuỷ, thuỷ khắc hoả, hoả khắc kim, kim khắc mộc...
Tương sinh và tương khắc là 2 quy luật cơ bản, quan trọng bậc nhất của ngũ hành. Song nếu chỉ có như vậy, thì chứng tỏ học thuyết ngũ hành chưa quan tâm đến “khối lượng” (hay mật độ “vật chất” của “hạt”), điều mà khoa học bao giờ cũng xét đến đầu tiên (người ta từng đã “cân” được tuốt, từ hạt cơ bản cho đến các thiên thể...). Các chuyển động rõ ràng phải có “khối lượng” (hay mạnh, yếu, thịnh, suy...) khác nhau, không thể bình quân chủ nghĩa được, điều này sẽ tạo nên bất công. Mặt khác, trong quá trình phát sinh, phát triển của chuyển động, do ảnh hưởng của quy luật tương sinh, tương khắc nói trên, mà những thuộc tính ngũ hành của nó luôn luôn trong trạng thái biến đổi. Điều đó sẽ tạo nên những tính chất khác của chính những thuộc tính ngũ hành ấy. Vì vậy, ngoài 2 quy luật trên, ngũ hành còn chỉ ra những quy luật liên quan đến tính chất này của chuyển động. Có thể nói những quy luật này do chính sự tương sinh tương khắc của ngũ hành sinh ra. Cụ thể là:
Ngũ hành tương thừa: Cái gì thịnh quá mức thì thừa. Khi đó xem ra “lợi bất cập hại”, khó có thể trông chờ vào cái sự tương sinh. Thổ nhiều quá mức sẽ làm át hẳn kim mà không sinh kim, có khi còn huỷ diệt kim. Kim cực mạnh có thể ngăn chặn thủy mà không sinh thuỷ. Mộc cực vượng có thể huỷ diệt hoả mà không sinh hỏa. Hoả quá thừa có thể làm chai cứng, co rút hoặc bốc hơi mất cả thổ mà không sinh thổ. Đó là toàn bộ ngũ hành tương thừa.
Ngũ hành phản ngược: Ngũ hành tương khắc tuy là quy luật có thật, song không phải vô điều kiện. Còn phải tính đến cả lẽ thịnh suy trên đời. Thổ khắc thủy đấy. Song thủy quá vượng có thể khắc ngược lại thổ suy (nước to vẫn có thể làm vỡ đê). Thuỷ khắc hoả đấy. Song hỏa quá vượng có thể khắc ngược lại thuỷ suy (đám cháy to không thể chữa được bằng một vài xô nước). Hoả khắc kim đấy. Song kim vượng quá có thể khắc ngược lại hoả suy (một que diêm đơn độc khó có thể làm chảy con dao). Kim khắc mộc đấy. Song mộc quá vượng có thể khắc ngược lại kim suy (chiếc đinh rỉ sẽ gãy khi đóng vào gỗ lim). Đó gọi là ngũ hành phản ngược.
Như trên đã nói. Chuyển động làm thay đổi vị trí, đồng thời cũng làm thay đổi trạng thái (hay lý, tính) của bản thân cái chuyển động đó. Lý, tính ấy chính là ngũ hành. Vậy ngũ hành đích thực là cái phần “hồn vía”, “mùi vị”, là “bản chất”, “quy luật” của mọi chuyển động. Giả sử lúc bắt đầu, chuyển động ấy có tính “mộc”, thì trạng thái tiếp theo của nó tất phải mang tính “hoả” (bởi “mộc” sinh hoả”). Tiếp theo, nhất định sẽ lần lượt là các trạng thái “thổ”, “kim”, “thuỷ”, rồi lại quay trở lại “mộc”... cứ thế lặp đi lặp lại theo đúng quy luật tương sinh. Nghĩa là “ngũ hành”, trong quá trình “vận hành” theo cái chiều “tương sinh” bất hủ ấy cùng với chuyển động, nó đã mô tả một cách liên tục tính chất phát sinh, phát triển của vũ trụ.
Và một khi “ngũ hành” đã mô tả “trạng thái” (hay lý, tính) của chuyển động, thì đồng thời nó cũng cho ta thấy “vị trí” của chính cái đối tượng (“hạt” hoặc thiên thể, hoặc vũ trụ...) đã tạo nên “chuyển động” đó. Bởi vì một chuyển động (hoặc những đại lượng đặc trưng của chuyển động) một khi đã có tính lặp lại, thì tất có thể biểu diễn “vị trí” của nó trên một đường tròn (như kiểu “vòng tròn lượng giác” vậy). Đó chính là “phương vị” của ngũ hành mà căn cứ vào đó, nếu biết được thuộc tính ngũ hành của đối tượng (“hạt” hoặc thiên thể, hoặc vũ trụ...), chắc chắn sẽ xác định được “phương vị” của nó và ngược lại. Thậm chí còn xác định được phương vị tiếp theo của đối tượng theo quy luật tương sinh, thuận chiều kim đồng hồ. Cụ thể là:
Cung mộc thuộc phương đông.
Cung hoả thuộc phương nam.
Cung thổ thuộc chính giữa (trung tâm).
Cung kim thuộc phương tây.
Cung thuỷ thuộc phương bắc.
Rõ ràng ngũ hành hoàn toàn không phải là 5 “nguyên tố” như người ta lầm tưởng. Thậm chí nó chẳng dính dáng gì đến hai chữ “nguyên tố” cả. Nói cách khác, chính sự chuyển động sinh ra ngũ hành. Nó là như thế, vốn như thế. Người phương Đông không tự “nghĩ” ra nó, mà chỉ “ngửi” thấy những tính chất “đua chen”, “cay đắng”, “ngọt bùi”, “thịnh suy”, “hưng phế”... trong những quá trình của chuyển động rồi đặt cho nó 5 cái tên là: “Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ” mà thôi. Đó là 5 thuộc tính (cũng là 5 cái lý) của bất kì một chuyển động có tính lặp lại (dao động) nào. Từ 5 thuộc tính này, người phương Đông bắt đầu chỉ ra những quy luật cực kì tổng quát về sự phát sinh, phát triển, tương hỗ... áp dụng cho toàn bộ các chuyển động của mọi hạt (hoặc mọi thiên thể, vũ trụ...) mà không cần (và cũng không hề) quan tâm đến tính “hạt” của chúng. Một thái độ mới tự tin và kì vĩ làm sao.
Vậy những quy luật tổng quát ấy là gì? Là sự mô tả những trạng thái (sinh, tử, thịnh, suy, cát, hung, mạnh, yếu...) của cái đối tượng là chuyển động (hoặc hạt, hoặc thiên thể, vũ trụ...) gắn liền với sự chuyển vận, biến đổi, tương sinh tương khắc... của 5 thuộc tính (và chỉ có 5 thuộc tính đó, ngoài ra không còn thứ “thuộc tính” nào khác).
Còn nữa, kỳ sau đăng tiếp
Bản tác giả gửi cho VHNA
tin tức liên quan
Videos
Thử định vị Tự lực văn đoàn
Hội thảo khoa học: “Dòng họ Nguyễn Trọng - Trung Cần với sự nghiệp bang giao, xây dựng và bảo vệ đất nước”
Nhật bản và cải cách Minh trị (1866) trong nhận thức của nguyễn Trường Tộ
Hãy đọc lời ai điếu cho khoa học minh họa
“Tết trồng cây” nét đẹp văn hóa mới ở Thanh Chương
Thống kê truy cập
114569260

244

2432

21643

227784

129483

114569260