Xã hội đã có sự cởi mở thông tin hơn trước thuận theo quy luật chung của thời đại toàn cầu hóa, bất chấp những ý chí muốn kìm hãm nó. Cảm thức hậu hiện đại đã hình thành ở nhiều người viết, phần thì do sự tự trải nghiệm đời sống - một đời sống phồn tạp, chứa vô số tình huống bi hài đến khó tin, không hề “trật tự” như các chính trị gia muốn có hay thường mô tả, phần thì do chịu ảnh hưởng các tác giả nước ngoài (nhất là các tác giả hậu hiện đại) mà nhà văn có cơ hội đọc, tìm hiểu. Với cảm thức đó, người viết được giải phóng khỏi nhiều mặc cảm khi sáng tác, đồng thời họ cảm nhận được rất rõ rằng thời mình đang sống đây chính là “thời của tiểu thuyết” và họ đang “đứng đúng “điểm rơi” của lịch sử” (lời nhà văn Nguyễn Viện), đang có “cơ hội vàng” để sáng tác nên những tác phẩm thật sự tương thích với thời đại, nếu bản thân đủ can đảm và có tài năng. Những cảnh báo đối với việc du nhập những yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác nhân danh các sứ mệnh cao quý của văn học đã trở nên kém sức thuyết phục, chưa hẳn vì văn học đã từ chối các sứ mệnh đó mà vì các “sứ mệnh” rất hay được diễn giải một cách đầy tính thực dụng chính trị. Vài ba người làm công tác quản lý, lãnh đạo văn nghệ và những người phê bình ít chịu đổi mới nhận thức về các vấn đề văn học thường nêu lên những lo ngại về một sự tiếp thu xô bồ cả “hàng chất lượng cao” lẫn “đồ phế phẩm” hay “quá đát”. Trên vấn đề này, không nên ngờ vực (hay sợ) sự học hỏi, tiếp thu, thể nghiệm (kể cả những thể nghiệm mà cái nhìn truyền thống có thể cho là phi thẩm mỹ hay quái dị). Không có cọ xát thì không thể làm bật ra cái mới, và cái mới cũng có tính lịch sử, tính quá trình của nó. Cần bỏ qua thái độ kênh kiệu vô lối (nhiều khi là biến tướng của mặc cảm tự ti) để học hỏi một cách nghiêm túc cả những kinh nghiệm tưởng là đã cũ, tưởng đã mất hết lực đẩy thẩm mỹ. Không hề có một khái niệm cũ chung chung đối với mọi người. Cũ người nhưng có thể mới ta - điều đó không có gì phải cười nhạo. Vấn đề là cách vận dụng và mục đích của sự vận dụng. Thực tế nền văn xuôi Việt Nam đương đại đã cung cấp nhiều ví dụ sinh động cho vấn đề đang bàn. Sau đây, xin được đi vào một trường hợp cụ thể: Nguyễn Huy Thiệp với truyện ngắn Huyền thoại phố phường.
2. Đến bây giờ, hẳn không cần phải dài dòng giới thiệu về Nguyễn Huy Thiệp. Ông đã quá nổi tiếng, đã được đông đảo độc giả và nhà phê bình xem là một nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới. Trên con đường tạo dựng cho mình một tên tuổi, ông đã vận dụng nhiều kinh nghiệm nghệ thuật của nền văn học truyền thống và nền văn học một số nước phương Tây để sáng tác. Huyền thoại phố phường được viết vào năm 1983 nhưng được in trên báo Văn nghệ năm 1987. Có thể nói đây là một trong những tác phẩm đầu tiên của Nguyễn Huy Thiệp trình diện văn đàn. Huyền thoại phố phường tuy không thật xuất sắc nhưng nó vẫn luôn có mặt trong các tuyển tập truyện ngắn của nhà văn. Dù sao, nó cũng in dấu ấn phong cách của Nguyễn Huy Thiệp rất đậm.
Đọc Huyền thoại phố phường, người yêu và am hiểu văn học không thể không liên hệ tới truyện Con đầm pích của A.S. Pushkin. Tại sao vậy? Tại vì nó quá “giống” với tác phẩm của nhà thơ, nhà văn Nga vĩ đại. Sự giống nhau thể hiện trên một loạt điểm sau đây:
Cũng như cốt truyện của Con đầm pích, cốt truyện Huyền thoại phố phường được xây dựng dựa trên một âm mưu. Một kẻ nghèo hèn như Hạnh hay có địa vị xã hội tương đối thấp, và dĩ nhiên không có gia sản gì đáng kể như Ghermann đã tìm mọi cách đê tiện để thỏa mãn khát vọng giàu sang, đổi đời. Chúng đã thâm nhập vào thế giới thượng lưu, đã làm chuyện đồi bại (như Hạnh) hay gây tội ác (như Ghermann) hòng chiếm đoạt được “phương tiện thần diệu” cho phép bản thân chúng thoát khỏi thân phận hiện tại. Nhưng số mệnh đã dành cho chúng kết quả thật bi đát: âm mưu của Hạnh cũng như của Ghermann bị phá sản và cả hai đều bị điên.
Các tình tiết chính của cốt truyện giống nhau, đến cả hệ thống nhân vật cũng tương đối giống nhau. Ta hoàn toàn có thể xếp nhân vật ở hai truyện thành những cặp tương ứng: Ghermann và Hạnh, bà Bá tước Anna Phedotovna và bà Thiều, cô Lizaveta Ivanovna và cô Thoa. Từng cặp nhân vật một có vị thế xã hội, tính cách, số phận, hành động tương tự nhau. Ghermann và Hạnh là hai kẻ âm mưu. Bà Bá tước và bà Thiều đều là những người nắm giữ chìa khoá hạnh phúc đối với hai kẻ toan đổi phận và là đích nhắm của chúng. Đặc biệt, hai nhân vật trong cặp Lizaveta - Thoa đều được dựng lên như để trêu ngươi, đánh lạc hướng sự chờ đợi của độc giả, khiến cho kịch tính của truyện tăng lên (khi mới đọc từng truyện, độc giả dễ nghĩ rằng sẽ có một sự kết hợp thực sự giữa các cặp nam nữ như Ghermann với Lizaveta, Hạnh và Thoa, nhưng thực tế lại diễn ra không giống vậy).
Không chỉ giống nhau về cốt truyện và nhân vật, giữa hai truyện còn có sự giống nhau về hệ thống chủ đề. Trước hết, có thể nói tới chủ đề dục vọng và cạm bẫy (dục vọng tự nó chứa cạm bẫy hay cuộc đời dành sẵn cạm bẫy cho những dục vọng). Đây không phải là chủ đề quá xa lạ trong văn học thế giới, nhất là trong các sáng tác thuộc chủ nghĩa hiện thực phê phán. Chủ đề thứ hai là chủ đề bán linh hồn cho quỷ, mà với nó, nhà văn đã để cho nhân vật thả xổng dục vọng đen tối của mình, chà đạp lên mọi quy tắc đạo đức xã hội, đánh rơi nhân cách, nhân tính, hành động theo sự chi phối của bản năng tham tàn, phá phách. Chủ đề này cũng không phải mới trong văn học thế giới, cụ thể là trong Faust, W. Goethe đã từng thể hiện nó một cách đầy sáng tạo, đầy nhân văn. Chủ đề thứ ba là chủ đề báo ứng và có thể ghép vào đây một chủ đề gần gũi là sự chơi khăm của số mệnh. Với chủ đề này, các tác giả đã miêu tả một cách rõ ràng sự trả giá đau đớn của các nhân vật cho những hành động xấu xa của mình và cảnh báo về sự oái oăm của số mệnh - một lực lượng siêu nhiên luôn “chơi” con người những “vố” ác hiểm. Đây hẳn nhiên cũng không phải là chủ đề xa lạ với sáng tác văn học xưa nay, Đông cũng như Tây. Chủ đề thứ tư là sự sa đọa của giới thượng lưu trong xã hội và gần gũi với nó là chủ đề về ma lực của đồng tiền. Ta có thể thấy rất nhiều tác phẩm của văn học thế giới và văn học Việt Nam thể hiện chủ đề này, đặc biệt là sáng tác của các nhà văn hiện thực chủ nghĩa. Như đã nói, các chủ đề trên không phải chủ đề đặc hữu của A.S. Pushkin trong tác phẩm Con đầm pích, và có thể có người nghĩ rằng Nguyễn Huy Thiệp đã khai thác chúng dựa vào sự gợi ý của những tác phẩm khác hoặc hoàn toàn dựa vào trải nghiệm thực tế của riêng mình. Nhưng vấn đề ở đây là mức độ tập trung của các chủ đề trong diện tích hẹp của một tác phẩm, trước hết là tác phẩm của A.S. Pushkin, sau đó là tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp. Sự giống nhau này hiển nhiên chứa đựng những điều cần phải được phân tích kỹ.
Bên cạnh những điểm giống nhau lớn ở trên, không thể không nhận thấy sự giống nhau về câu văn, về cách diễn đạt giữa hai tác phẩm ở đoạn miêu tả tính cách nhân vật Ghermann và nhân vật Hạnh.
Từ tất cả những điểm giống nhau kể trên, có thể khẳng định Nguyễn Huy Thiệp đã vay mượn ở truyện Con đầm pích của A.S. Pushkin khá nhiều thứ khi viết Huyền thoại phố phường: cốt truyện, chủ đề, thậm chí cả hình thức câu văn (với điều kể sau, ta hoàn toàn có thể chê trách, vì Nguyễn Huy Thiệp lúc này không phải đang dùng thủ pháp “nhại”). Nhìn trên tổng thể, việc chịu ảnh hưởng và vay mượn nói trên dễ lý giải và hoàn toàn chấp nhận được, khi chúng ta biết rằng giữa văn học Việt Nam và văn học Nga, văn học Xô viết từng có mối quan hệ gắn bó. Vấn đề quan trọng là chịu ảnh hưởng như thế nào và cách vay mượn có gì đáng nói.
Đặt trong bối cảnh văn học Việt Nam (lúc Nguyễn Huy Thiệp bước vào văn đàn) đang bị kiềm tỏa bởi thế lực của phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, dễ nhận ra rằng sự vay mượn cốt truyện Con đầm pích ở truyện Huyền thoại phố phường có ý nghĩa tích cực. Tại sao trong bước đầu viết văn, Nguyễn Huy Thiệp không hướng mắt nhìn về một hình mẫu khác, như sáng tác của các nhà văn Xô viết chẳng hạn? Điều này không thể được cắt nghĩa một cách chủ quan, đơn giản, nhưng chắc nó có liên quan tới sự nhạt hứng thú đối với một kiểu sáng tác công thức, không cho người ta thấy hết sự thực của cuộc đời, nhất là khi phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật” đang gây nguồn cảm hứng lớn cho giới cầm bút. Xa hơn, có thể nó cho thấy một sự ly khai đối với phương pháp sáng tác từng được giới lý luận chính thống khẳng định là “tốt nhất” trong số các “phương pháp nghệ thuật” đã hình thành trong lịch sử văn học. Quay tìm về những mẫu mực xưa (cụ thể ở đây là mẫu mực của chủ nghĩa hiện thực cổ điển thế kỷ XIX – thứ chủ nghĩa tuy được các nhà lý luận phê bình marxist đánh giá cao nhưng vẫn bị nhìn bằng con mắt nhiều định kiến) gắn bó một cách tất yếu với việc chối bỏ các “mẫu mực” hiện hành. Tuy đây chưa hẳn là sự lựa chọn tối ưu nhưng nó có ý nghĩa đập vỡ một thói quen, một quán tính sáng tác, mở đường cho những tìm tòi mới, đa dạng hơn về sau, của chính Nguyễn Huy Thiệp và của nhiều nhà văn Việt Nam khác, mong nhận ra chân diện mục của cái hiện thực đang diễn ra. Xét rộng hơn, sự lựa chọn của Nguyễn Huy Thiệp không mang ý nghĩa cá biệt. Chính vào thời này, nhà văn nổi tiếng Nguyễn Khải đã có lời phàn nàn trong một cuộc hội thảo rằng “cái hiện thực xã hội chủ nghĩa cứ làm hại mình”.
Vay mượn cốt truyện Con đầm pích, điều kéo theo dễ hiểu là Nguyễn Huy Thiệp đã khai thác lại chủ đề về dục vọng của con người. Trong văn học cách mạng Việt Nam, đây là chủ đề hoàn toàn vắng bóng. Đọc sáng tác của những nhà văn tự nguyện dùng ngòi bút làm vũ khí đấu tranh cách mạng, ta chỉ gặp những nhân vật anh hùng dám xả thân vì lý tưởng, vì cộng đồng, như mẹ Tơm, mẹ Suốt, chị Lý trong thơ Tố Hữu, anh Trỗi trong Sống như Anh của Trần Đình Vân, chị Út Tịch trong Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, chị Sứ trong Hòn Đất của Anh Đức, Tiệp trong Bão biển của Chu Văn, Biền trong Tầm nhìn xa của Nguyễn Khải... Đó không phải là những con người có dục vọng hiểu theo nghĩa là người dám sống tận cùng con người cá nhân của mình, dám phô bày những khao khát rất người theo hình thức đôi khi cực đoan, dám hành động theo một tiêu chuẩn đạo đức khác với tiêu chuẩn đạo đức phổ biến... Dĩ nhiên, những con người như thế sẽ cười khẩy vào những nguyên tắc ứng xử như “đặt lợi ích chung lên quyền lợi riêng”. Ở đây chưa nói đến những nguy hại có thể có một khi con người chỉ biết hành động theo dục vọng cá nhân của mình. Nhưng biết làm sao được, nhà văn không thể không thể hiện mẫu nhân cách này, loại con người này khi nó tồn tại thực trong xã hội, nhất là khi xã hội đã chấp nhận một phần sự tồn tại của nền kinh tế thị trường. Dĩ nhiên, Nguyễn Huy Thiệp không cổ súy cho lối sống của nhân vật Hạnh, nhưng bằng vào việc dựng lên chân dung một con người như Hạnh, ông muốn nối lại sự chú ý tới con người cá nhân vốn đã bị gạt phắt ra khỏi bảng giá trị của một nền văn học được sáng tác theo phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, mặc dù trước đó, trong văn học Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945, nó đã được chú ý miêu tả, cả trong thơ lẫn trong tiểu thuyết, truyện ngắn. Chẳng phải với nhân vật Hạnh trong Huyền thoại phố phường, Nguyễn Huy Thiệp đã hoà vào những tìm tòi chung của các nhà văn Việt Nam khi gia tăng sự chú ý tới vấn đề con người cá nhân trong sáng tác văn học? Những Thời xa vắng của Lê Lựu, Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Bến không chồng của Dương Hướng, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh... chính đã cho thấy xu hướng nói trên trong những tìm tòi của các nhà văn Việt Nam từ thời kỳ Đổi mới.
Khi vay mượn cốt truyện Con đầm pích để viết nên truyện Huyền thoại phố phường, Nguyễn Huy Thiệp không gạt bỏ yếu tố kỳ ảo vốn đã được nhà văn Nga đưa vào tác phẩm của mình một cách tự nhiên. Cách pha trộn yếu tố kỳ ảo với yếu tố hiện thực trong truyện của A.S. Pushkin cho thấy sự đa dạng của các thủ pháp được những văn nhà hiện thực chủ nghĩa sử dụng. Cảm quan hiện thực cùng sự tôn trọng logic khách quan hay quan hệ nhân quả giữa các sự kiện không cản trở những nhà văn như A.S. Pushkin chối bỏ những thủ pháp miêu tả, thể hiện đời sống bằng yếu tố kỳ ảo. Chính nhờ chúng, tính hiện thực của tác phẩm không những không bị hao hụt đi mà ngược lại, lại phát lộ ở những khía cạnh mới. Hiện thực luôn chứa đựng những điều bí ẩn. Tôn trọng hoặc nói về cái bí ẩn của nó lẽ nào lại là một thái độ và hành xử sai lầm? Chính một bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực Pháp là H.de Balzac đã không ngần ngại sử dụng yếu tố kỳ ảo trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Miếng da lừa đấy thôi. Trở lại với Nguyễn Huy Thiệp, phải thấy rằng yếu tố kỳ ảo trong truyện Huyền thoại phố phường chưa có gì đậm đặc và cũng chưa đến nỗi gây những nghi ngờ về tính logic của sự kiện. Nhưng nếu chú ý đến sự “sáng tỏ” nhiều khi khá khó chịu của lối cắt nghĩa các sự kiện đời sống trong vô số tác phẩm của văn học Việt Nam đương thời, ta lại thấy những yếu tố kỳ ảo kia trong truyện Nguyễn Huy Thiệp đưa lại những khẩu vị thẩm mỹ mới lạ. Chí ít, nó tạo nên sự “ma quái” cho tác phẩm của ông, khiến độc giả đã cầm đọc tác phẩm là khó dứt ra được. Nhưng quan trọng hơn, nó chỉ báo về một cách tiếp cận hiện thực mới không bị gò vào những khuôn thước giáo điều vốn nhân danh khoa học, nhân danh chủ nghĩa duy vật mà tảng lờ bao sự tồn tại xem ra đầy phi lý trong cuộc sống. Chính nó đã triệt môi trường sống của những tác phẩm từng hấp dẫn bao nhiêu thế hệ độc giả trước đây, những tác phẩm truyền kỳ thời trung đại hay những truyện đường rừng của Lan Khai, TchyA Đái Đức Tuấn, những truyện được gọi là “yêu ngôn” của Nguyễn Tuân... Đồng nghĩa với điều đó, nó đã ngăn trở những khám phá hiện thực của nhà văn từ các chiều kích khác, nói khái quát nhất là chiều kích văn hoá. Rõ ràng, thời Đổi mới, bắt đầu từ những tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, cái kỳ ảo đã được nhìn nhận khác đi. Như vậy, yếu tố kỳ ảo trong Huyền thoại phố phường của Nguyễn Huy Thiệp mặc dù chưa mới gì hơn so với vô số tác phẩm của văn học thế giới, thậm chí của văn học Việt Nam thời trung đại và của giai đoạn 1930 – 1945, nhưng nó có giá trị báo hiệu một chân trời mới đầy khoáng đạt cho những tìm tòi nghệ thuật.
Học A.S. Pushkin nhưng Nguyễn Huy Thiệp vẫn chứng tỏ được bản lĩnh sáng tạo của mình. Những cái giống đã kể không thể che mờ được những cái khác, rất khác giữa hai truyện. Truyện Con đầm pích của A.S. Pushkin có quy mô của một truyện vừa. A.S. Pushkin, cũng như nhiều nhà văn hiện thực thế kỷ XIX rất có hứng thú với việc theo dõi quá trình tâm lý của nhân vật. Chính bởi vậy, với nhân vật nào, nhà văn cũng muốn đi sâu khám phá thế giới nội tâm của họ. Cách tự sự, vì thế, có phần nhẩn nha, không bỏ qua chi tiết nào, dù có vẻ nhỏ nhặt. Đọc truyện của A.S. Pushkin, người đọc thú vị với những đoạn phân tích tâm lý bà Bá tước, tâm lý tiểu thư Lizaveta. A.S. Pushkin thật tinh quái khi soi thấu gan ruột của nhân vật và miêu tả nó bằng một giọng văn dí dỏm, có thoáng chút châm biếm diễu cợt. Ngay với nhân vật Ghermann, A.S. Pushkin cũng không quên làm nhân vật gần ta hơn với chút cắn rứt lương tâm của hắn. Với truyện của mình, Nguyễn Huy Thiệp dùng lối miêu tả chấm phá, không hề nói dài dòng về tâm lý nhân vật mà để người đọc tự đoán ra khi theo dõi hành động của họ. Có thể có người chê nhà văn đã để cho nhân vật hành động quá nhanh, thiếu logic. Thực ra, với bản tính con người Hạnh, mọi khả năng hành động đã được thấy trước, đã được chuẩn bị và nung chín. Tất cả chỉ đợi một cơ hội, và cơ hội đó dĩ nhiên sẽ được hắn nhìn ra giữa bộn bề sự kiện. Kẻ đang âm mưu thường có khả năng kỳ diệu biến mọi sự cố ngẫu nhiên thành kẻ đồng lõa với mình. Ở đây, sự việc diễn ra có tính tất yếu. Nó dường như đã được chuẩn bị từ hai phía: phía Hạnh và phía bà Thiều. Luôn đặt nhân vật vào tình huống lộ bản chất thật, đối với Nguyễn Huy Thiệp, đó không còn là một thứ kinh nghiệm viết chung chung, mà là một nguyên tắc trần thuật mang ý nghĩa sống còn. Chính bởi vậy, ông không ngần ngại giản ước mọi sự chuẩn bị lỉnh kỉnh vì tin rằng độc giả có thể thấy hết, biết hết những điều kiện bên trong của hành động đang hoặc sắp diễn ra. Có thể nói trong truyện Nguyễn Huy Thiệp, cảm giác về tốc độ là nhân tố thẩm mỹ đóng vai trò then chốt tạo nên tính hiện đại của tác phẩm.
Đọc Con đầm pích của A.S. Pushkin, ta bắt gặp một bối cảnh Nga điển hình trong thế kỷ XIX với hoạt động tưởng phong phú mà nhàm chán của giới thượng lưu quý tộc thừa thời gian, tiền bạc mà thiếu tư tưởng, tâm hồn. Bối cảnh này về sau còn được thể hiện rất hay trong các sáng tác của I.S. Turghenev, L.N. Tolstoi... Còn với Huyền thoại phố phường, ta có thể ngay lập tức đoán chắc rằng đó là bối cảnh Việt Nam vào đầu những năn 1980 mà tính khép kín của cơ cấu xã hội đã bắt đầu rạn nứt, báo hiệu một sự xáo trộn, thậm chí là đảo lộn của các giá trị đời sống. Nguyễn Huy Thiệp tỏ ra từng trải và nghiệt ngã khi vạch những nét ký họa mạnh mẽ, chính xác, mạch lạc để làm toát lên chân dung của một cuộc sống “không có vua”, không có cả anh hùng. Bối cảnh Việt Nam và con người cũng rất Việt Nam. Điều này mang tính dĩ nhiên, vì đối với Nguyễn Huy Thiệp, vay mượn cái gì thì cũng chỉ để làm sáng tỏ những nhận thức của ông về bản chất của cái hiện thực mà ông đang ngập mình trong đó. Chắc không ai nghĩ rằng các nhân vật như bà Thiều, Thoa, Hạnh, ông Phúc, các bà bạn buôn vàng của bà Thiều là... “Tây”, dù tác phẩm mượn cốt truyện của Con đầm pích như trên đã nói.
Điều đáng nói là trong khi miêu tả ngôn ngữ nhân vật, A.S. Pushkin đặt trọng tâm chú ý vào khả năng thể hiện tính cách của nó, còn ở Nguyễn Huy Thiệp, việc thể hiện tính cách qua ngôn ngữ nhân vật không phải bao giờ cũng là cái được ưu tiên. Ngoài ngôn ngữ người trần thuật, ngôn ngữ nhân vật luôn được Nguyễn Huy Thiệp điều dụng để bóc trần chân tướng sự vật, hiện tượng. Chúng sắc lẻm và cay đắng. Chúng phóng ra rất nhanh với độ chính xác cao để kịp thời ghim chặt cái bản chất của cuộc đời vào nhận thức của độc giả, mỗi khi chiếc áo hình thức của nó “tuột khuy” trong một thoáng sơ sểnh. Bởi vậy, tiếp xúc với ngôn ngữ nhân vật trong truyện Nguyễn Huy Thiệp, người đọc dễ có cảm giác hả hê đồng lõa chứ không phải là cảm giác thú vị vì vừa phát hiện ra một điều gì đó của nhân vật, tức là cảm giác của kẻ đứng gián cách với họ. Hiện tượng giễu nhại ngôn ngữ có cả trong truyện của A.S. Pushkin lẫn trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp, nhưng ở Nguyễn Huy Thiệp, chúng đi xa hơn sự giễu cợt tinh quái để đạt tới độ bóc mẽ không khoan nhượng - bóc mẽ nhân vật, bóc mẽ những ý thức thù địch với tín niệm của nhà văn. Càng về sau, cảm hứng bóc mẽ càng trở nên đậm, gắt trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và ta thấy ông ngày một rời xa kiểu chăm chút làm sao cho ngôn ngữ nhân vật biểu lộ được tính cách xã hội của đối tượng mà ông miêu tả. Điều đó cũng có nghĩa là ông đang tìm cách vượt qua những bài học tưởng chứa đựng chân lý muôn đời về lối viết, về cách xây dựng nhân vật thông qua việc cá thể hóa, cá tính hóa ngôn ngữ của nó. Nguyễn Huy Thiệp dường như không hề ngại việc biến nhân vật thành cái loa phát ngôn cho tư tưởng của tác giả, sẵn sàng đặt vào miệng họ những lời mà ta cảm nhận rất rõ là xa lạ với thân phận, vị thế xã hội và học vấn của họ. Vấn đề là ông quan tâm hơn, tin tưởng hơn vào sự thú vị của tư tưởng mà ông muốn trình bày, còn tất cả những thứ khác xem ra đều chỉ có ý nghĩa quan trọng hàng hai. Như vậy, với Nguyễn Huy Thiệp, không có kinh nghiệm viết nào mà nhân loại đã kinh qua là cũ cả. Cái tưởng là sản phẩm của một thời ấu trĩ hoàn toàn có thể được tái sinh để đem lại cái mới cho văn học bây giờ.
Khi viết truyện Huyền thoại phố phường, Nguyễn Huy Thiệp không chỉ tiếp nhận những gợi ý quan trọng từ A.S. Pushkin. Vốn liếng của ông về văn hóa phương Đông, hiểu biết của ông về văn học cổ điển Trung Hoa cũng để lại dấu vết trong tác phẩm. Bài đồng dao được đưa vào đoạn kết của tác phẩm gợi nghĩ đến những bài đồng dao chứa đựng sự tiên tri về số phận con người hoặc tiền đồ của một vương triều trong các tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc... Nói tóm lại, với truyện Huyền thoại phố phường, ta nhận ra có một sự tích hợp văn hóa, văn học rất thú vị và đầy ý nghĩa.
3. Khó nói rằng truyện Huyền thoại phố phường của Nguyễn Huy Thiệp là một thành công điển hình, khi các nhà văn Việt Nam tiếp thu, học tập một cách có ý thức kinh nghiệm nghệ thuật từ những nền văn học khác. Thậm chí có thể nhận ra tình thế “cực chẳng đã” trong sự vay mượn của Nguyễn Huy Thiệp. Hẳn ông muốn mượn (hay học tập) những cái tân kỳ hơn ở các nhà văn hiện đại hơn, mới hơn của thế kỷ này (như Phạm Thị Hoài - người nổi tiếng trên văn đàn cùng lúc với ông - hay những nhà văn khẳng định được vị trí của mình sau đó một chút như Nguyễn Việt Hà, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Viện, Thuận... chẳng hạn). Nhưng rất có thể, trong điều kiện tu dưỡng văn hóa của bản thân và trong môi trường giao lưu ít ỏi, hạn chế một thời, ông khó làm khác được. Ở một số trường hợp, những danh ngôn của các nhà tư tưởng, nhà văn lớn trên thế giới được trích dẫn hay được “tái bản” qua lời các nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp (thể hiện khá rõ trong truyện Sang sông) chỉ nói lên sự manh mún, chắp vá trong cách tiếp thu ảnh hưởng văn học của tác giả. Rõ ràng, tình trạng “giật gấu vá vai” hay sự chộp bắt tình cờ (dựa vào nguồn tư liệu gián tiếp, bị biến tướng bởi muôn kiểu cách pha chế) cần phải được thay thế bằng một chiến lược học hỏi dài hạn và kiên trì hơn, nếu văn học muốn tạo được những bước phát triển mới, vững chắc và nếu nhà văn muốn đạt tới tầm vóc của một nhà tư tưởng. Sự cạn nguồn văn ở Nguyễn Huy Thiệp khi bước vào thiên niên kỷ mới phải chăng cần được cắt nghĩa bằng lý do này? Quay lại với thực tế, ta thấy mỗi nhà văn Việt Nam có một cách xử lý riêng đối với những khó khăn của mình và của giới mình khi sáng tác. Đây là lý do truyện ngắn Huyền thoại phố phường của Nguyễn Huy Thiệp được chọn làm “mẫu” để phân tích vấn đề đặt ra từ nhan đề bài viết, dù truyện ngắn này chưa phải là tuyệt tác như đã nói. Chính sự chưa “chín” của truyện Huyền thoại phố phường lại gợi nghĩ nhiều vấn đề mà các nhà văn của chúng ta phải vượt qua trong bối cảnh giao lưu có thêm rất nhiều nhân tố mới hôm nay (so với gần 30 năm về trước, khi Nguyễn Huy Thiệp đặt bút viết truyện này). Làm được ít hay nhiều, điều đó ttùy thuộc vào vốn văn hóa, vốn sống và tài năng. Nhưng điều bất biến là cần phải thường xuyên và can đảm tiếp nhận ảnh hưởng để đổi mới và sáng tạo. Có thể xem đây là một cuộc phiêu lưu thú vị. Cái gì đón đợi nhà văn ở phía trước? Thành công hay thất bại? Thật khó nói. Chỉ biết rằng trong cuộc phiêu lưu này, nhà văn thật sự được sống với cảm giác của người sáng tạo. Đừng sốt ruột nghĩ đến những thành tựu lớn nếu nhà văn chưa thoát khỏi con đường mòn trong tư tưởng, trong cái nhìn, lối viết và nếu độc giả cũng như các nhà phê bình cứ mãi bị sự dị ứng với cái mới hạn chế tầm đón nhận. Những ngăn trở hoạt động tìm tòi của nhà văn bằng các nhận xét thiếu chuyên nghiệp, bằng các lệnh cấm, lệnh thu hồi này nọ rất có thể là vấn nạn cần được giải quyết để khai thông sinh lộ cho một nền văn học đã bỏ lỡ quá nhiều cơ hội bứt phá nhằm hòa nhập vào dòng chảy chung của văn học nhân loại, nhằm đóng góp một mảng màu đậm chất Việt Nam cho bức tranh nghệ thuật mà mọi nhà văn trên thế giới đang cùng nhau xây dựng./.