Những góc nhìn Văn hoá

Đào Uyên Minh - Thi nhân cày ruộng cuốc vườn

Tam Nguyên Yên Đổ viết: “Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”. Nói Yên Đổ tự khiêm thẹn không sớm về vườn được bằng ông Đào chẳng sao. Mà nói cụ tức cảnh toan vịnh nhưng thôi vì thẹn với tài thơ họ Đào chắc cũng chả sai. Thế mà hiểu giản dị Nguyễn Khuyến thực lúc đó có khi thẹn chuyện vợ xắn vay quai cồng ra đồng gặt vụ thu còn mình thì ngồi suông nghe cá đợp động chân bèo chưa chừng còn trúng ý thi nhân hơn.

Các nhà thơ ca ngợi đời sống điền viên thì nhiều mà thực sự sống đời nông phu chân lấm tay bùn thì chắc chả lắm. Uyên Minh quy điền đâu phải để lấy danh ẩn sĩ thanh cao phù phiếm, tiếng trung nghĩa sáng ngời to tát mà đơn giản chỉ là không thể vì vinh cái thân mà mất cái ngã, khom lưng làm điều trái sở nguyện bình sinh. Trong cảnh thực của ông quyết định tránh xa nô lệ quan quyền, về nhà làm ruộng trồng vườn, thân nuôi lấy thân, lui giữ lấy chút tự tại cho cái tôi của mình là biểu hiện chân thiết, tập trung tính cách cố cùng của kẻ biết cái thú nhẩn nha hái cúc bên rào, uống chén rượu nấu lấy trước bữa cơm rau tự trồng trong vườn. Chúng tôi mạo muội cho rằng chẳng việc gì mà tô vẽ họ Đào thành bậc ẩn dật điền viên, thanh cao tiết tháo không làm quan cho hai triều. Hẵng cứ gọi ông là thi nhân cày ruộng cuốc vườn cho giản dị.

Đào Uyên Minh (陶渊明, khoảng 365 ~ 427) sống thời Đông Tấn. Có thuyết nói ông dùng tên Uyên Minh dưới thời Tấn, sau vào thời Nam Bắc triều đổi tên Tiềm . Đào Tiềm tự Nguyên Lượng (元亮). Có thuyết lại nói Uyên Minh cũng là tên chữ của ông. Ông tự đặt hiệu Ngũ Liễu Tiên Sinh. Sau khi mất bạn hữu tặng thụy hiệu Tịnh Tiết Cư Sĩ (节居士, xem Nhan Đình Chi, Đào Chinh Thổ Lỗi- Văn điếu Đào Tiềm). Đời Đường kị húy Đường Thái Tổ gọi chệch Uyên Minh thành Thâm Minh hoặc Tuyền Minh. Ông người Sài Tang, Tầm Dương - chỗ mà về sau lại chứng kiến cuộc hội ngộ giữa một thi nhân đời Đường với một ca nương (nay thuộc thành phố Cửu Giang tỉnh Giang Tây, nam Trường Giang). Đào Tiềm xuất thân trong một gia đình sĩ hoạn đã đến hồi suy vi. Cố nội làm đến Đại tư mã, ông nội từng là Thái thú Vũ Xương. Mẹ ông là con gái danh sĩ Đông Tấn Mạnh Gia. Bố ông tạ thế lúc ông 9 tuổi, ba năm sau đó mẹ ông qua đời. Đào Uyên Minh thời trẻ làm quan Tế tửu Giang Châu, hai lần làm quan Tham quân. Sau cùng làm Huyện lệnh Bành Trạch. Đào Uyên Minh truyện chép trong Tấn Thư (Sử nhà Tấn) kể chuyện Đào Tiềm làm Bành Trạch huyện lệnh chưa đầy ba tháng, một hôm Thái thú quận Tầm Dương phái Đốc Bưu xuống huyện, nha lại khuyên ông lễ phục cân đai chỉnh tề ra nghênh đón trước. Ông thạn: “Ta há lại vì 5 đấu gạo (lương bổng chức huyện lệnh) mà phải khom lưng uốn gối trước đứa trẻ con thôn xóm”. Ngay hôm đó treo ấn từ quan, về vườn hẳn. Trước đó trong khoảng 10 năm từ lúc ra làm Tế tửu năm 29 tuổi cho đến năm 39 tuổi bỏ chức Huyện lệnh về thẳng nhà quê, ông đã mấy bận cáo quan ẩn dật. Tính ra từ ngày treo ấn huyện lệnh, về hẳn quê nhà (năm thứ hai niên hiệu Nghĩa Hi đời Tấn An Đế, công lịch 406) cho đến lúc ốm rồi tạ thế (năm thứ tư niên hiệu Nguyên Gia đời Tống Văn Đế, công lịch 427), Đào Uyên Minh một mạch yên nhiên giữa vườn ruộng, sống đời thôn phu, “chồng cày ruộng trước, vợ cuốc vườn sau” không bén chân đến nơi huyện thị. Khoảng thời gian hơn 20 năm quy điền này cũng là khoảng đắc ý nhất, sáng tác phong phú nhất trong đời thi nhân.
Đào Uyên Minh tính ham rượu. Sách kểbạn ông là Nhan Đình Chi làm Thái thú quận Thủy An có việc đi qua Tầm Dương vào uống rượu cùng ông. Trước lúc đi để lại khoản tiền lớn, ông đem gửi hết quán rượu uống dần. Huyện cấp mấy mẫu công điền cho ông, ông muốn đem trồng toàn lúa nếp để nấu rượu, vợ không đồng ý nhưng cũng phải chiếu cố chồng để nửa số ruộng trồng nếp. Giai thoại kể chuyện nấu rượu, ông lật khăn trên đầu xuống để kịp lọc rượu bên lò, tiếp khách chủ uống say trước dặn dò: “Ngã túy dục miên, khanh khả khứ” (Tôi say buồn ngủ, ông cứ về). Nhiều lúc uống say giả bộ đang ôm đàn “tự đệm” lấy nhạc mà hát: “Đãn thức cầm trung thú, hà lao huyền thượng thanh” (Đàn ca ý thú bên trong, hà tất cứ phải gẩy thành tiếng vang).[1] Về sau mấy chữ “Vô thanh cầm” hoặc “Đàn ông Đào” (Đào cầm) chính là để chỉ ý thú cao nhã của thi nhân.[2]
Thơ văn Uyên Minh nổi tiếng ở đời nhờ phong vận thanh tân tự nhiên. Thực tế thì cho đến đời Nam Bắc triều, người ta hẵng còn chưa tán thưởng lắm những bài thơ viết nơi ruộng vườn của họ Đào. Trong Văn Tâm Điêu Long không thấy Lưu Hướng nhắc gì đến Đào Uyên Minh. Thế nhưng đánh giá của Tiêu Thống (萧统 , 501~531, con cả của Lương Vũ Đế - Nam triều, chủ biên bộ Văn Tuyển 30 quyển tuyển chọn các tác phẩm văn chương từ Tiên Tần cho đến đời Lương) dành cho Đào Tiềm thì đã rất cao. Trong số 700 tác phẩm thơ văn chọn vào Văn Tuyển, riêng thơ Đào Tiềm chiếm hơn 10 bài. Thi Phẩm của Chung Vinh xếp thơ Đào Uyên Minh vào hạng trung (trung phẩm). Chung Vinh đánh giá Đào Uyên Minh là ông tổ trong hàng các thi nhân ẩn dật. Chung Vinh cho rằng thơ Đào Uyên Minh có nguồn từ thơ Úng Hưu Liên (thi nhân đời Tam Quốc). Ảnh hưởng của thơ Đào Tiềm lên đến đỉnh cao trong hai thời đại lớn nhất của thơ ca Trung Hoa – thời Đường và thời Tống. Đỗ Phủ tưởng niệm họ Đào trong những dòng: “Khoan tâm ưng thị tửu, Khiển hứng mạc quá thi, Thử ý Đào Tiềm giải, Ngô sinh hậu nhữ kì - Để lòng khoáng đãng nhờ chén rượu, tiêu khiển tâm hồn gì bằng thơ. Ý đó Đào Tiềm biết, còn ta thì sinh sau ông” (Phụng kí Hà Nam Vi Doãn trượng nhân). Tô Đông Pha ca ngợi: “Thơ Đào Uyên Minh mới xem như tuồng tản mạn, đọc kĩ mới thấy kì cú. … … Đại phàm tài cao ý viễn thì mới ẩn chứa được cái diệu ấy, lời thơ tinh túy đến độ thì mới được vậy. Như thợ lành nghề, không để lại dấu vết đẽo gọt”. Thi hào đời Tống này viết hơn 100 bài họa thơ Đào Tiềm. Vương Kì đời Minh cũng nhận xét tương tự: “Thơ Uyên Minh dũa gọt đến độ tự nhiên, thành ra người đọc chỉ còn thấy sự tuyệt diệu ở chỗ đạm bạc chứ không thấy dấu vết của sự gọt dũa nữa”.
Lần đầu tiên vào thời Lương, thái tử Chiêu Minh Tiêu Thống cho sưu biên thơ văn còn lại của Đào Tiềm thành sách Đào Uyên Minh tập (8 quyển). Đích thân ông viết bài tựa (Đào Uyên Minh tập tựa) và thiên giới thiệu tác giả (Đào Uyên Minh truyện). Đào Uyên Minh tập là tập thơ văn đầu tiên biên tập riêng cho một tác gia trong lịch sử văn học Trung Quốc. Đến thời Bắc Tề, Dương Hưu Chi tăng bổ thành 10 quyển. Các nhà nghiên cứu phát hiện thấy bộ sưu tập để lẫn vào nhiều tác phẩm của người đời sau. Đến thời Bắc Tống mới có bản khắc in Đào Uyên Minh tập. Đó chính là bản in sớm nhất sưu tập thơ văn Đào Tiềm dưới thời Trung Quốc hãy còn in mộc bản. Bộ chú giải thơ Đào Tiềm sớm nhất được xem là bộ Đào Tịnh Tiết thi chú(, 4 quyển) của Thang Hán (汤汉, Nam Tống), còn bộ chú giải thơ Đào Tiềm lưu hành truyền tụng rộng nhất lại là bộ Tiên chú Đào Uyên Minh tập () của Lí Công Hoán (李公, đời Nguyên). Chú giải hoàn bị hơn cả cho tác phẩm Đào Uyên Minh phải kể đến bộ Tịnh Tiết tiên sinh tập chú(  ) của Đào Chú (陶澍,thời Thanh). Cả hai công trình của Lí Công Hoán và Đào Chú đều được đưa vào Tứ bộ bị yếu (四部备要).
Thơ Đào Tiềm xúc cảm chân thành, hồn nhiên, đạm bạc dung dị, hay ở ý tượng toàn bài, không dụng công ở trau chuốt câu chữ cụ thể. Trong thời đại Lục Triều sùng chuộng biền lệ, thể xưa thức cũ mà dám đề xướng một phong cách tự nhiên, giản phác, cốt thực tình chân ý coi nhẹ tu từ gò chữ đẽo lời như Đào Tiềm thực là cả một cống hiến lớn cho thơ ca Trung Quốc. Ông được xem là ông tổ của thơ ẩn đật, người mở đầu của thơ điền viên Trung Hoa. Ảnh hưởng thơ ca cũng như nhân cách cá nhân của ông đối với văn hóa Trung Hoa là hết sức sâu sắc. Ảnh hưởng đó cũng rất lớn đối các sĩ đại phu Việt Nam. Người Trung Quốc bình thường chí ít cũng đọc qua Quy khứ lai từ, Đào hoa nguyên kí, ít ra nữa cũng thuộc vài câu Thái cúc đông lí hạ, du nhiên kiến Nam Sơn (Nhẩn nha hái cúc dưới rào, không dưng bỗng thấy núi Nam bên nhà, Ẩm tửu – bài 5)[3] hoặc Chủng đậu Nam Sơn hạ, Thảo thịnh đậu miêu hi (Trồng đậu dưới chân núi Nam, cỏ kia thì tốt đậu này thì thưa). Kẻ mù chữ cũng từng nghe kể chuyện ông Đào Bành Trạch “không vì năm đấu gạo mà khom lưng” từ quan quy ẩn. Đào Tiềm là thi nhân kiệt xuất nhất trong vòng 800 năm kể từ Hán cho đến Nam Bắc triều. Thơ lưu truyền hậu thế còn khoảng hơn 120 bài, có thơ 4 chữ nhưng phần đa là ngũ ngôn, thường được chia thành ba mảng - mảng thơ vịnh rượu, mảng thơ thuật hoài và mảng thơ điền viên. Quy viên điền cư, Hoài cổ điền xá, Ẩm tửu (20 bài), Thuật tửu, Tạp thi (12 bài) Vịnh bần sĩ, Vãn ca thi (ba bài)là nhữngbài thơ ngũ ngôn hay nhất thường được nhắc đến nhất của ông.Đào Tiềm là thi nhân Trung Hoa đầu tiên viết nhiều nhất về đề tài ẩm tửu, thế nhưng nhiều nhất, hay nhất vẫn là phần thơ điền viên.
Phần văn tồn thế của ông có 12 thiên gồm từ phú 3 thiên, vận văn 5 thiên, tản văn 4 thiên. Nhàn tình phú làm độc giả nghĩ đến Định tình phú của Trương Hoành và Tĩnh tình phú của Sài Ung, trong khi đó Cảm sĩ bất ngộ được xem là bắt chước chuyện Đổng Trọng Thư viết Sĩ bất ngộ phú và chuyện Tư Mã Thiên viết Bi sĩ bất ngộ phú. Quy khứ lai hề từ là tuyên ngôn từ quan quy ẩn, ca tụng lạc thú sinh hoạt đồng quê, mừng tránh được nô lệ quan quyền. Vận văn có mấy bài văn tế (Tế Trình Thị muội văn, Tế tòng đệ Kính Viên văn, Tự tế văn), một bài tán (Phiến thượng họa tán), một bài thuật (Độc sử thuật cửu chương), một bài sớ (Dữ Tử Nghiễm đẳng sớ). Tản văn có truyện, kí. Đó đều là những thiên văn xuôi tự nhiên, giản nhã xa rời văn phong ủy mĩ, điệu đàng của Lục Triều. Tác phẩm tản văn gồm Tấn cố chinh tây đại tướng quân trưởng sử Mạnh Phủ Quân (hoặc gọi Mạnh Gia biệt truyện kể chuyện ông ngoại của tác giả), Ngũ Liễu Tiên sinh truyện kể chính mình – một ẩn sĩ trong ngôi nhà bên chái có trồng năm gốc liễu, Đào Hoa nguyên kí sáng tạo hình tượng Thung lũng suối hoa đào có thể sánh với cái huyễn tượng xã hội mà phương Tây gọi là Utopia. Văn nhân đời Đường về sau cũng hay lạc lối nguồn đào trong thể truyền kì nhưng phần đa là bay bướm cùng tiên nương chứ không còn vươn đến được tầm lãng mạn của triết ý tự do như Đào Tiềm nữa. Các thiên văn xuôi của Đào Tiềm làm ta nghĩ đến thể truyện ngắn, hồi kí, tự truyện, truyện kí ngày nay. Một số tác phẩm khác như Ngũ hiếu truyện, Tứ bát mục có trong Đào Uyên Minh Tập (10 quyển) soạn dưới thời Bắc Tề bị Kỉ Hiểu Lam (Tứ Khố Toàn Thư Đề Yếu) xem là ngụy thác. Lỗ Tấn cũng cho bài bạt cho bộ tiểu thuyết chí quái Sưu Thần Kí cũng là của người đời sau thác danh Đào Tiềm. Lỗ Tấn cho rằng Đào Tiềm tâm trí khoáng đạt, không chắc là người tin chuyện quỷ thần thành thử không cho Sưu Thần hậu kí là do Đào Tiềm viết (Trung Quốc tiểu thuyết sử lược, Chương 5 Lục Triều chí quái thư). Thế nhưng ta cũng biết rằng Đào Tiềm thích đọc tập truyện thần thoại Sơn Hải Kinh. Bản thân ông có viết chùm thơ 13 bài thơ thể thuật hoài lấy chuyện trong Sơn Hải Kinh làm đề tài nhan đề Độc Sơn Hải Kinh.
Đào Tiềm mất năm thứ tư niên hiệu Nguyên Gia (công lịch 427). Vãn ca thi (bài thứ ba) viết cho mình trước lúc chết có câu: “Tử khứ hà sở đạo, thác thể đồng sơn a” (Chết đi có gì mà nói, gửi thân về với núi đồi). Văn tế viết sẵn cho mình kết thúc bằng những câu “Chết rồi là cõi trống không, bao nhiêu cảm khái đã thành xa xôi; Không xây mộ không trồng cây, mặc cho ngày lại nối ngày trôi đi. Sinh thời danh vọng không màng, huống khi đã chết trông gì ngợi ca; Nhân sinh đời đã gian nan, chết đi thì có cái gì gớm ghê? Ô hô! Ai tai! Ô hô!”. Đào Tiềm được an táng ở Mã Hồi Lĩnh dưới chân núi Nam Sơn, trong khoảng giáp giới giữa huyện Tinh Tử và huyện Cửu Giang tỉnh Giang Tây ngày nay. Đến đời Thanh năm đầu niên hiệu Càn Long con cháu họ Đào trùng tu dựng bia đề chữ khải Tấn Chinh Thổ Đào Công Tịnh Tiết Tiên Sinh Chi Mộ. Bên trái bia khắc mộ chí, bên phải bia khắc giai tác Quy khứ lai hề từ. Mỹ hiệu “Tịnh Tiết” có thể chỉ mỗi Uyên Minh xứng với nhưng cái chí quy khứ nơi ông thì đã trở thành tài sản tinh thần chung của bao thế hệ văn thi nhân mến tùng yêu cúc quanh nhà trong lúc tâm hồn không ngừng mơ động đào nguyên xa vời.    
                                                                                    Hà Nội, 09-2009
                                                                                    Tài liệu tham khảo:
1.Lý Cẩm Toàn, Đào Tiềm bình truyện, Nam Kinh Đại học xuất bản xã, 2007
2.Đào Uyên Minh thi từ toàn tập, Trung Hoa thi từ võng, www.haoshici.com
3.Chu Tân Hóa, “Đào Tiềm quy ẩn”, Quảng Tây Văn học, số 2, 2001
4.Trương Lũy, “Bôi trung chi sự - Đào Tiềm họa tượng thấu tích”, Mĩ thuật đại quan Art Panorama, số 12, 2008
5.Vương Nghị, “Luận Nguyên Tịch hòa Đào Tiềm đích tự nhiên” (Comments naturalities of Ruanji and Tao Yuanming), Trung Quốc vận văn học san Journal of Chinese Verse Studies, số 4, 2004
6.Trần Mai Cúc, “Luận Đào Tiềm đích bi kịch nhân sinh” (On Tao Qian’s Tragic Life), Journal of Suihua University, số 2, 2005

[1] Chúng tôi tạm dịch sang Việt văn các dẫn chứng trong bài này.
[2]Tấn Thư – Đào Tiềm Truyện (Phòng Huyền Linh) trần thuật sinh động: “Tiềm không hiểu lắm thanh luật, nhưng cũng có sẵn một cây đàn, đàn không đủ dây. Gặp dịp bạn bè đến nhà uống rượu lại ôm đàn hòa ca, bảo: “Đãn thức cầm trung thú, hà lao huyền thượng thanh - Đàn ca ý thú bên trong, hà tất cứ phải gẩy thành tiếng vang” (“Tính bất giải âm, nhân súc tố cầm nhất trang, huyền chủy bất cụ, mỗi bằng tửu hội, tắc phủ nhi hòa chi, viết: Đãn thức cầm trung thú, hà lao huyền thượng thanh” (性不解音,因蓄素琴一張,弦徽不具,每朋酒之會, 則撫而和之, 曰: 但識琴中趣,何勞弦上音). Tống Thư (Thẩm Ước, nhà Tề đời Nam Triều) trần thuật sơ lược hơn: “Tiềm bất giải âm thanh, nhi súc tố cầm nhất trang, vô huyền. Mỗi hữu tửu thích, triết phủ lộng dĩ kí kì ý (潛不解音聲,而畜素琴一張,無弦,每有酒適,輒撫弄以寄其意).Đào Uyên Minh truyện của Tiêu Thống (nhà Lương đời Nam Triều) và Lý Đình Thọ - nhà Đường (Nam Sử-Ẩn Dật-Đào Tiềm Truyện) chép lại Thẩm Ước. Đời sau thường nhắc đi nhắc lại câu chuyện Đào cầm (đàn ông Đào) như một giai thoại. Tống Kì trong bài Vô huyền cầm phú có câu: “Cầm ông chi ý bất tại huyền – Ý của ông đàn không trên dây trên phím” (琴翁之意不在弦); Một bài phú cùng tên khác của Trương Tùy (thời Thanh) cũng nói: “Đào Tiên Sinh giải ấn Bành Trạch… … Thích tính giả dĩ cầm, di thần giả dĩ tửu – Tiên Sinh bỏ quan… … di dưỡng tâm ý bằng cây đàn chén rượu” (張隨, 無弦琴賦:陶先生解印彭澤……適性者以琴,怡神者以酒).
 
[3]Phiên âm Hán Việt một đoạn bài thơ:
Thái cúc đông lí hạ, Du nhiên kiến Nam Sơn; Thử trung hữu chân ý, Dục biện dĩ vong ngôn.
Đoạn diễn giải sau đây của một học giả người Hoa giảng dạy văn học Trung Quốc tại Hoa Kì sẽ giúp chúng ta thông cảm nhiều hơn cho những người muốn dịch thơ cổ Trung Hoa:
“Nhà thơ cổ điển Trung Quốc, sau khi trải mở một cảnh trạng thường thoái ẩn sang một bên, để rộng đường cho sự di nhập của độc giả, làm cho độc giả có được cảm giác mình đang trong cảnh (thân lâm kì cảnh). Xin xem câu sau của Đỗ Phủ: Bích tri hồ ngoại thảo, Hồng kiến hải lai vân. “Tri” (biết) và “Kiến” (thấy) trong lí giải thông thường của độc giả thường yêu cầu một chủ từ. Tập quán diễn đạt trong tiếng Anh càng đặc biệt cảm thấy cần phải thêm vào “tôi/chúng ta biết”, “tôi/chúng tôi thấy”. Thế nhưng, trừ trường hợp chủ quan của nhà thơ muốn điều khiển độc giả “nghe” anh ta trình bày cái kinh nghiệm của bản thân ra, còn thì tính thị giác và tính kịch vốn có sẽ bị giảm thiểu đi rất nhiều nếu thêm chủ từ cho các hành động. Bảo rằng “tri” và “kiến” ở đây là hành động chủ quan của nhà thơ thì có lẽ sẽ không hợp lí bằng cho đây là một tri giác tự nhiên nhi nhiên. Cũng giống như “kiến” trong “Du nhiên kiến Nam Sơn” của Đào Tiềm không thể thay bằng “vọng” hoặc “khán” vốn chứa đựng nét nghĩa “dụng tâm cố ý” nhìn cho thấy. Nét nghĩa này sẽ làm hỏng đi trạng thái tự nhiên “tri giác tự nhiên nhi nhiên” vô tâm hồn nhiên. Vả lại “kiến” (trong văn ngôn) hàm chứa một giác độ song trùng – vừa là cái thấy “từ đây nhìn sang” vừa là cái hiện “từ kia trình hiện đến”. Nhân tiện cũng xin nói rõ “Du nhiên kiến Nam Sơn” cho đến nay vẫn chưa có một cách phiên dịch nào lột tỏ đượccái thần thái tri giác hồn nhiên trong khoảnh khắc phát hiện ra nhau, trình hiện ra cho nhau giữa “người thi nhân” và “núi Nam Sơn” (Dẫn từ: Mĩ học Đạo gia và văn hoá phương Tây của học giả Diệp Duy Liêm, giáo sư Đại học California. Sách Mĩ học đạo gia và văn hoá phương Tây xuất bản ở Đại lục trong khuôn khổ tuyển tập các chuyên đề của các học giả phương Tây thỉnh giảng tại Đại học Bắc Kinh (Bắc Đại học thuật giảng diễn tùng thư). Nguyên sách đề Đạo gia mĩ học dữ Tây phương văn hoá. Bắc Kinh đại học xuất bản xã, 2002). Một phần của sách đã được dịch ra tiếng Việt (xem Lê Thời Tân, Mĩ học Đạo gia, Thơ Trung Hoa và “Lập trường văn hóa phản văn hóa” của phương Tây hiện đại, đăng trên lyluanvanhoc.com).
 
 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114594463

Hôm nay

2200

Hôm qua

2291

Tuần này

22287

Tháng này

221080

Tháng qua

131357

Tất cả

114594463