Những góc nhìn Văn hoá
Huyền thoại chính trị và giải cấu trúc nghệ thuật của nó (Kỳ 2)
Thời gian trong Giáo trình giản yếu là thời gian cổ xưa, thời gian điện ảnh, cũng giống như tình yêu của những người biên soạn ra văn bản này đối với loại hình nghệ thuật quan trọng nhất, tình cảm ấy chẳng phải là cái gì ngẫu nhiên và cũng rất đỗi chân thành.

Đặc điểm về thời gian và không gian trong Giáo trình giản yếu là nền tảng tạo nên đặc điểm về tiết tấu của nó. Tiết tấu ở đây vừa trùng điệp, vừa lưu chuyển. Trùng điệp là nét khu biệt quan trọng nhất của tổ chức chất liệu ngôn từ trong Giáo trình giản yếu. Chỉ xin dẫn một ví dụ:
“Lênin chỉ ra rằng ách thống trị tư bản trong thời đại của chủ nghĩa đế quốc ngày càng trở nên nặng nề… Lênin chỉ ra rằng trong thời đại của chủ nghĩa đế quốc, sự khủng hoảng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc ngày càng trở nên trầm trọng… Lênin chỉ ra rằng trong những điều kiện của chủ nghĩa đế quốc, sự không đồng đều trong phát triển và mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng trở nên gay gắt… Lênin chỉ ra rằng, chính tình trạng phát triển không đồng đều của chủ nghĩa tư bản sẽ dẫn tới hậu quả là chiến tranh đế quốc …Trên cơ sở xem xét tất cả những điều ấy, Lênin đi tới kết luận rằng trận tuyến của chủ nghĩa đế quốc hoàn toàn có khả năng bị giai cấp vô sản chọc thủng ở một nơi nào đó. Đó là công thức của một kết luận thiên tài”(tr.162).
Rất dễ nhận ra, việc sử dụng kí hiệu chỉ dẫn (“Lênin chỉ ra”) một cách hệ thống đã triệt tiêu hoàn toàn tính thuận lí của văn bản và bằng cách đó nó chuẩn bị sẵn testimonial device[1] cho công thức “kết luận thiên tài”. Tương tự như phép trùng điệp của tiết tất buộc thời gian phải dừng lại, tính chất luân chuyển của tiết tấu ấy lại cho phép thay đổi quy mô của không gian bằng cách chuyển từ không gian toàn thể sang không gian cục bộ và ngược lại. Ai cũng biết, mấy năm trước khi Giáo trình giản yếu được biên soạn, thủ pháp này đã được đem ra thử nghiệm trong trong bản trường ca Vladimir Ilic Lênin của V.V. Majiakovski. Thí dụ:
Gió
khắp mặt đất
thét gào không ngủ
Khi tỉnh giấc
cũng chẳng thể nào
có thể nhận ra
trong căn phòng băng giá Moskva
có chiếc quan tài
của cả người con và của cả người cha
cách mạng”.
Giáo trình giản yếu phỏng hoạ nhiều loại kiểu mẫu của thi pháp Majiakopski chỉ với một chút khác biệt, ấy là ở đây chức năng của người con và người cha được được gắn vào những nhân vật khác nhau. Khuynh hướng vận động của tiết tấu từ cục bộ tới toàn thể, giống hệt như trong trường ca của Maijakopski, đã tạo ra một trò chơi không gian đặc biệt, thứ trò chơi rõ ràng đã làm cho văn bản nói trên thành kẻ có họ hàng với những tác phẩm nghệ thuật:
“Đặc điểm nổi bật của cuộc khởi nghĩa ở Krasnajia Presnhia là sự ác liệt và ngoan cường. Krasnajia Presnhia là pháo đài chính và cũng là trung tâm của cuộc khởi nghĩa. Tại đây có những đơn vị chiến đấu ưu tú nhất do những người bolsevich lãnh đạo. Nhưng Krasnajia Presnhia đã bị đàn áp bằng súng đạn và dao kiếm, ngập trong máu, trong lửa đỏ ngút trời của pháo binh. Cuộc khởi nghĩa Moskva đã bị đàn áp. Nhưng khởi nghĩa không chỉ xẩy ra ở Moskva. Tiếng reo hò của khởi nghĩa cách mạng vang lên ở hàng loạt tỉnh lị, thành phố. Quần chúng bị áp bức ở nước Nga đã đứng dậy tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang” (tr.79).
Là phương thức đặc biệt lối viết lịch sử, Giáo trình giản yếu vẫn có sự phân biệt câu chuyện và truyện kể (story và emplotment). “Khác với câu chuyện được kể (story), tổ chức truyện kể (emplotment) luôn duy trì hiệu quả giải thích, hiểu theo nghĩa, nó xác định không phải các sự kiện của câu chuyện được kể mà là bản thân câu chuyện ấy bằng cách xác định hạng ngạch mà nó có chân trong đó. Mạch lạc của câu chuyện được kể chỉ cho phép làm nổi bật một cấu hình duy nhất, cấu trúc của truyện kể lại khơi gợi sự thừa nhận hạng ngạch truyền thống của các cấu hình. Các phạm trù truyện kể mà bản thân câu chuyện đã được mã hoá phù hợp với nó, chứ không phải các sự kiện lịch sử, mới có họ hàng với các loại “mật mã”, như Ernst Hans Gombrich khẳng định trong cuốn Art and Illusion, quyết định cách thức đọc hội hoạ của chúng ta”[2]. Sợi chỉ xâu chuỗi câu chuyện trong Giáo trình giản yếu là trần thuật về việc những người bolsevich đã giành chính quyền và giữ chính quyền như thế nào. Mưu mẹo tổ chức truyện kể lại là “mật mã” của một cương lĩnh chính trị toàn cầu nhằm làm thay đổi thế giới và vị trí của con ngươưì trong thế giới ấy. Bí mật, âm mưu, hoạt động bí mật, tranh đấu (chiến tranh) là các mô tip chủ đạo của thứ “mật mã” như thế.
Về phương diện này, thú vị nhất là mô tip bí mật. Ai cũng biết, bí mật là cái động cơ ngầm luôn luôn được dấu kín của rất nhiều loại trần thuật, trước hết là truyện trinh thám. Giáo trình giản lược lại chẳng giống với truyện trinh thám và mô tip bí mật ở đây có bản chất hoàn toàn khác. Bí mật hoá ra chẳng phải là cái ngoại trừ tác giả, không một ai có thể biết, mà ngược lại, cả thiên hạ đều biết tỏng, có điều, nó là cái huý kỵ, cấm không được động tới. Giáo trình giản yếu là cả một hệ thống huý kị gắn với nhiều tên tuổi và sự thực.
Thứ nhất, tên tác giả hoá ra chính là điều huý kỵ. Giáo trình giản yếu là một bản đạo văn trái khoáy. Trong bất kỳ một bản đạo văn nào, ta cũng có thể tìm thấy quyền sở hữu văn học của một ai đó. Trong Giáo trình giản yếu, quyền sở hữu ấy hoá ra chẳng thuộc về ai, mặc dù lúc nào cũng thấy vang lên giọng nói của một đấng tiên tri, người phán truyền. Không thể nói văn bản ấy là do Stalin viết ra, vì nói như thế sẽ hoá ra đó là văn bản của Stalin viết về Stalin và trở thành một cái gì đó đại loại như tiểu sử chính trị tự thuật của một ai đó. Nhưng cũng chẳng thể nói văn bản ấy không phải do Stalin viết ra, không chỉ đơn giản bởi vì, trong đó các đặc điểm mang dấu ấn phong cách riêng của Stalin duy trì, mà chủ yếu bởi vì, chỉ có văn bản của Stalin mới là hiện thân cho chân lí cuối cùng và tuyệt đối. Diễn đạt theo lời lẽ của một nhà nghiên cứu, hình tượng tác giả Stalin được dấu kín trong tấm mặt nạ của kẻ vô danh “liên tiếp đu đưa giữa hai cực theo cái trục carnaval do liên tục chuyển vị trí từ vai lãnh tụ tượng trưng và kết tinh trong mình toàn bộ ý chí của cả xã hội xô viết sang từng tế bào nhỏ nhoi của xã hội rộng lớn mênh mông ấy, những tế bào lúc nào cũng ngoan ngoãn dưới sự cai trị hà khắc của ông ta”[3].
Nhưng có lẽ sẽ không chính xác nếu chỉ dựa vào các quy luật của trục carnaval để giải thích cơ chế vật hành của hình tượng tác giả trong Giáo trình giản yếu. Сấu trúc của hình tượng tác giả này phần lớn phụ thuộc vào quy luật “cơ thể kép của hoàng đế” mà 40 năm trước kia E. Kantorovich nói tới. Theo Kantorovich, “hoàng đế là người có hai thân thể, một thân thể tự nhiên, thiên phú và một thân thể chính trị. Thân thể tự nhiên không tránh được cái chết, nó phải chịu nhiều bất hạnh do tạo hoá và mọi sự ngẫu nhiên mang lại, lúc trẻ thơ hay già lão, thể lực của nó trở nên yếu đuối cùng với nhiều tai ách khác khiến cho nó chẳng khác gì thân thể của đám thần dân. Nhưng thân thể chính trị lại là thân thể không thể đụng vào, không thể nhìn thấy, nó được tạo thành từ thế lực và quyền bính, nó được trao sứ mệnh sai khiến mọi người, cai quản tài sản xã hội một cách anh minh, nó hoàn toàn không thể ấu trĩ, già nua hoặc có những yếu kém, khuyết tật khác về phương diện thể chất mà thân thể tự nhiên không thể nào tránh được”[4]. Loại bỏ thân thể tự nhiên, sinh học của lãnh tụ và biện hộ cho thân thể chính trị của ông ta là mục đích quan trọng nhất của sự cấm kị gọi tên trong Giáo trình giản yếu.
Mô tip bí mật bị cấm kị thứ hai được mở rộng hiệu lực sang lĩnh vực về các sự thật và sự kiện. Chẳng hạn, có thể hiểu và giải thích một cách hợp lý bí mật về việc Lenin và Zinoviev[5] cùng sống ở Razliv vào mùa hè năm 1917. Dĩ nhiên là sau chiến thắng của những người bolsevich, lần sống chung ấy ấy không còn là bí mật và trên sách báo người ta đã viết rất nhiều về sự thật này. Nhưng trong thời gian soạn thảo Giáo trình giản yếu, sự thật về lần sống chung của hai vị lãnh tụ tại một chiếc lều cỏ là chuyện bí mật: thế là hai người biến thành một người.
Ai cũng biết, Thư gửi đại hội của Lênin đã từng được công bố vào năm 1927 (chí ít là phần phê phán Stalin), nhưng 10 năm sau, sự thật về sự tồn tại của lá thư ấy đã trở thành điều cấm kị, không ai được nhắc tới. Các sự thật tồn tại không phải theo mức độ tồn tại có thật của chúng, mà theo mức độ nó phù hợp thế nào cho diễn giải. Sự chú giải của Giáo trình giản yếu buộc phương thức trần thuật lệ thuộc hoàn toàn vào câu chuyện được kể. Về phần mình, sở dĩ có thể có được sự lệ thuộc ấy là nhờ vào việc sử dụng nguồn dự trữ phong cách của ngôn ngữ gắn với việc sáng chế và lặp lại đến vô tận những công thức mang tính ma thuật nhất định. Việc mở rộng, lặp lại, biến đổi những phương tiện biểu cảm giống nhau tạo ra ảo giác về sự tăng cường chứng cớ, lí lẽ trong Giáo trình giản yếu. Tác động của Giáo trình giản yếu đối với người đọc được thực hiện thông qua việc đánh thức các lớp cổ xưa nhất của tư duy được phản ánh trong những cấu trúc rập khuôn của ngôn ngữ.
Phong cách của Giáo trình giản yếu khiến người ta kinh ngạc vì thấy nó giống với tới kĩ thuật “đan dệt ngôn từ” mà trước kia D.S. Likhashev từng nhận xét: “Trạng thái tình cảm khôn tả xiết, tầm cỡ chiến công khôn tả xiết của đấng thiêng liêng có quan hệ mật thiết với văn phong của những tác phẩm thần tích với những đặc điểm nổi bật như chồng chất từ đồng nghĩa, tăng cường các kết hợp điệp thừa, lặp ý, từ mới, tổ chức tiết tấu ngôn từ nhằm tạo ra ấn tượng không thể nói hết bằng lời. Trong những kết hợp và sự chồng xếp từ ngữ như thế, cái cụ thể bị xoá sạch, và nổi lên bình diện thứ nhất là phương diện biểu cảm và sự chuyển biến”[6].
Khuyếch đại - đó là cơ chế nội tại được vận hành nhằm cải biến những nền tảng duy lí của ngôn ngữ thành một chỉnh thể biểu hiện - tình cảm. Giống với nhiều văn bản thời trung đại, sự khuyếch đại được vận dụng rộng rãi ở nhiều trang với mục đích là làm thay đổi ý nghĩa của một câu và chỉ của một câu ấy mà thôi. Xin dẫn chỉ một đoạn văn chưa có gì gọi là kềnh càng, nội dung của nó là nhận xét cương lĩnh hành động của phái đối lập năm 1927:
“Trong số những cương lĩnh của các phái đối lập, có lẽ cương lĩnh này thuộc loại giả nhân giả nghĩa và dối trá bậc nhất. Trên lời nói, tức là trong cương lĩnh, phái Troskit và Zinoviev không chống lại việc chấp hành các nghị quyết của đảng và bày tỏ sự trung thành, nhưng trong việc làm, họ phá hoại một cách thô bạo nhất nghị quyết của đảng, báng bổ mọi sự trung thành với đảng và Ban Chấp hành Trung ương. Trên lời nói, tức là trong cương lĩnh, họ không chống lại sự thống nhất của đảng và tỏ thái độ phản đối sự chia rẽ, nhưng trong việc làm, họ phá hoại một cách thô bạo nhất sự thống nhất của đảng, tiến hành đường lối chia rẽ và đã có đảng hoạt động bí mật phản Lênin của mình, đảng này đã có đủ mầm mống phát triển thành đảng phái phản xô viết, phản cách mạng. Trên lời nói, tức là trong cương lĩnh, họ có vẻ tán thành đường lối công nghiệp hoá và thậm chí còn chê trách Ban Chấp hành Trung ương không đẩy tiến độ của công cuộc công nghiệp hoá khẩn trương nhanh chóng hơn, nhưng trong việc làm, họ lại phỉ báng nghị quyết của đảng về thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, chê bai đường lối công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, đề nghị giao cho những người nước ngoài dưới hình thức nhượng quyền hàng loạt nhà máy, xí nghiệp và đặt toàn bộ hy vọng của mình vào hình thức nhượng quyền của chủ nghĩa tư bản nước ngoài ở Liên Xô. Trên lời nói, tức là trong cương lĩnh, họ tán thành cuộc vận động thành lập nông trang tập thể, thậm chí họ còn chê trách Ban Chấp hành Trung ương không đẩy tiến độ công cuộc nông trang hoá khẩn trương, nhanh chóng hơn, nhưng trong việc làm họ lại phỉ báng chính sách vận động người nông dân tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội, gieo rắc tư tưởng về “những xung đột không thể giải quyết” giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân và đặt toàn bộ hy vọng của mình vào “những tá điền có văn hoá”, tức là đặt niềm tin vào kinh tế phú nông. Đó chính là cương lĩnh dối trá nhất trong số những cương lĩnh dối trá” (tr.271).
Rất dễ nhận ra rằng ý nghĩa của toàn bộ sự khuyếch đại chỉ nhắm vào cái đích duy nhất là xoá bỏ chữ “có lẽ” ở câu đầu tiên sau khi kết thúc chính xác một đoạn văn bóng bẩy, nhưng chính việc loại bỏ chữ ấy ở câu cuối cùng lại chứng minh rằng nó hoàn toàn phù hợp với phương thức tư duy và diễn đạt bằng các phương thức của chủ nghĩa biểu hiện - tình cảm thời trung đại. Bởi thế, sự phân tích diễn ngôn của Giáo trình giản yếu dứt khoát sẽ dẫn tới kết luận: việc sử dụng rộng rãi nguồn mỹ từ pháp và thi pháp vừa nói ở trên hoàn toàn không phải là chuyện ngẫu nhiên, mà có tính mục đích, nhằm biến cách viết lịch sử thành huyền thoại chính trị mang tính toàn cầu. Đồng thời, ai cũng biết, bất kì một huyền thoại thi ca nào, hễ tính toàn cầu của nó càng đậm nét thì nó càng tạo ra cơ sở để giải cấu trúc một cách dễ dàng hơn. Xin nhớ lại chỉ môt kiệt tác Đường công danh của Artur Ui của Bertolt Brecht mà thôi.
Về mặt này, Hàng giậu của Sasa Sokolov, xét từ góc độ cấu trúc nghệ thuật, cũng như chức năng giao tiếp - một kiểu reductio ad absurdum[7] độc đáo, - đã tiến tới giới hạn lô gíc (đúng hơn là chẳng còn giới hạn nào cả) của các ý đổ trần thuật, tổ chức không - thời gian trong Giáo trình giản yếu.
Khác với Giáo trình giản yếu là cuốn sách biến diễn ngôn lịch sử thành thành huyền thoại học kiểu mới, Hàng dậu là kiểu mẫu thuần tuý của lối viết nghệ thuật, bởi vì, “chỉ trong lối viết mới có thể thẳng thắn thừa nhận đặc tính hư cấu của những dạng nghiêm túc nhất, thậm chí, những dạng ưa khiêu khích nhất của lời nói, chỉ trong lối viết, khoảng cách trò diễn của các dạng lời nói mới được xem xét thích đáng … chỉ lối viết mới có thể được mở ra từ chỗ vô tiền khoáng hậu, chỉ có nó mới có khả năng làm rối loạn mọi chuẩn mực tu từ, mọi luật lệ thể loại, mọi thứ hệ thống quá tự tín, lối viết là tối thượng, tuy không thủ tiêu được cuộc chiến tranh giữa các ngôn ngữ, nhưng làm cho chiến tranh phải thay đổi, lối viết có thể nhìn thấy trước được thực tế đọc và viết, khi mà trong đó đối tượng nhắm tới không phải vị trí bá quyền, mà là dục vọng”[8].
Rất dễ nhận ra trong Hàng giậu có trò chơi vênh lệch giữa ngôn ngữ hùa theo quyền lực của tiếng nói đám đông và ngôn ngữ lánh xa quyền lực của tiếng nó nghịch lý[9]. Phần lớn, trò chơi này được tạo ra bằng cách chồng xếp trái khuáy hai văn bản của tiếng nói đám đông: tiểu thuyết phiêu lưu thời trung đại Aleksandria [10] và những ý đồ huyền thoại hoá của lối viết lịch sử xô - viết mà Giáo trình giản yếu mãi mãi là kiểu mẫu. Mặc dù chúng tôi chưa thể phát hiện ra trong sáng tác của Sasa Sokolov có sự thâm nhập trực tiếp theo kiểu liên văn bản của các văn bản nêu trên, nhưng có thể nhận ra sự mô hình hoá của các tham số về tiết tấu, thời gian, không gian, trần thuật, phong cách này hay phong cách kia.
Chẳng hạn, đại đạo, - con đường tổ chức không gian chủ đạo trong Giáo trình giản yếu, - đã hoá thành đường đi của nhân vật toàn năng trong sáng tác của Sasa Sokolov, kẻ thực hiện thăng tiến trên đường đời trái ngược với mục đích luận của hiện thực. “Palisandr Dalberg đã trải qua con đường hiển hách của Napoléon, từ đứa trẻ mồ côi bình thường trong điện Cremli, một quản gia Nhà hàng Massage của Chính phủ thành người đứng đầu quốc gia và vị tư lệnh của một hội đoàn thống lãnh”[11]. Chính đường đi thẳng băng của nhân vật giống như hợp nhất trong bản thân gia hệ của Grigori Rasputin[12] và Lavrenti Beria[13] đã cắt ngang khu vực lịch sử với tư cách là yếu tố hiệu chỉnh tính xác thực của những gì được trình bày. Tất cả những gì được Sasa Sokolov giới thiệu với độc giả chỉ là trò chơi vênh lệch của các chiến lược diễn ngôn trần thuật - cổ tích, dụ ngôn, giai thoại[14], - loại diễn ngôn biến hồi ký thành cuộc đấu tranh chống lại mục đích luận của sử học. Mục đích luận của lối viết lịch sử bị triệt tiêu bằng cả khoảng cách thời gian (700 năm, tương tự như khoảng cách ngăn cách tác giả Aleksandria với với cuộc đời Aleksander Macedon) tồn tại giữa hành động và truyện kể về hành động, lẫn sự khước từ lô gíc học xác suất của Aristotle[15]. Sasa Sokolov nói về hành động không thể có và cũng chưa từng có theo quy luật xác xuất. Đó là kiểu trần thuật phản Aristotle bằng chất liệu lịch sử với ý nghĩa đầy đủ nhất của từ ấy. Nó được tạo ra không nhằm kiện toàn cái giống như thật của nghệ thuật, mà nhằm bác bỏ mục đích luận của sử học.
[1] Tieengs Anh: “thiết bị chứng lý”.- ND.
[2] Ricoeur P.- Thời gian và truyện kể. T.,1. Tr. 190.
[3] Vaiskovf M. Nhà văn Stalin. M.,2002, Tr. 77.
[4] Kantorowitz E. - The King‘s two bodies: A study in Mediaeval Theology. NY., 1957. P.7
[5] Grigori Evseevich Zinoviev (sinh 08.9.1883, mất 25.8.1936), bạn chiến đấu thân cận của V.I.Lênin, là chủ tịch đầu tiên của Ủy ban Quốc tế Cộng sản, từng được gọi là “lãnh tụ của giai cấp vô sản”. Nhờ Zinoviev, Stalin trở thành Tổng Bí thư đảng Cộng sản Nga, nhưng chính Stalin chẳng những đã loại bỏ Zinoviev, mà còn tìm mọi cách để xoá sạch hình ảnh của ông trong trí nhớ của dân chúng .- ND.
[6] Likhashev D.S. - Con người trong văn học nước Nga thời cổ. M., 1970, C.76.
[7] La Tinh: “hạ bớt sự phi lý”.- ND.
[8] Barthes R. Tác phẩm chọn lọc. Kí hiệu học. Thi pháp học. Tr. 539 - 540
[9] “Ngôn ngữ hùa theo quyền lực”: dịch từ chữ: “энкратический язык” (tiếng Pháp: “langage encratique”. “Ngôn ngữ lánh xa quyền lực”: “акратический язык” (tiếng Pháp: “langage acratique”). “Langage encratique” và “langage acratique” là thuật ngữ của R.Barthes.
[10] Aleksandria (Александрия, còn có một số nhan đề khác, như: Александрида, Александреида, Александроида): tên gọi một số bản dịch ra tiếng Nga Truyện Aleksander vĩ đại (Historia Alexandri Magni), cuốn tiểu thuyết giả lịch sử Hy Lạp cổ đại. Vào quãng thế kỷ XII-XIII, đã có tới 5 bản dịch tiếng Nga .-ND.
[11] Casa Sokolov.- Hàng giậu. M.,1992, tr.12. Các đoạn trích tiếp theo được dẫn từ nguồn này.
[12] Rasputin Grigori Efimovich (Распутин, Григорий Ефимович, 1869-1916), xuất thân từ một gia đình nông dân ở tỉnh Tobolski, Sibiri, về sau nổi tiếng khắp thế giới vì trở thành “Đức cha bề trên” và là bạn thân nhất của hoàng gia, của Hoàng đế Nga cuối cùng Nhikolai II , rồi bị ám sát vào năm 1916.- ND.
[13] Beria Lavrenti Pavlovich (1899-1953): Nhà chính trị, nhà hoạt động quốc gia, Uỷ viên Ban Chấp hành, Uỷ viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô, từng là Uỷ viên Hội đồng An ninh Nhà nước, Bộ Trượng Bộ Nội và nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng trong lĩnh vực công nghiệp có liên quan tới sản xuất vũ khí hạt nhân, tháng 6 năm 1953, bị bắt, bị buộc tội làm gián điệp, có âm mưu cướp chính quyền, rồi bị xử bắn vào tháng 9.1953.- ND
[14] Về chiến lược diễn ngông trần thuật, xem: Тюпа В.И. Три стратегии нарративного дискурса // Дискурс 3-4' 97. Новосибирск, 1997. С.106-108.
[15] Có lẽ tác giả muốn nói tới luận điểm quan trọng trong Tu từ học của Aristotle về mối quan hệ giữa cái “lý được thừa nhận chung” (“doxa”) với cái “giống như thật”. Theo Aristotle, cái “giống như thật” là cái phù hợp với ý kiến chung của công chúng, cái “lý được thừa nhận chung”.-ND.
tin tức liên quan
Videos
Những bài học văn chương từ Cánh đồng bất tận
Thử định vị Tự lực văn đoàn
Hội thảo khoa học: “Dòng họ Nguyễn Trọng - Trung Cần với sự nghiệp bang giao, xây dựng và bảo vệ đất nước”
Hãy đọc lời ai điếu cho khoa học minh họa
Nhật bản và cải cách Minh trị (1866) trong nhận thức của nguyễn Trường Tộ
Thống kê truy cập
114569156

2372

2405

21539

227680

129483

114569156