“Không chịu khom lưng gặp Đốc Bưu, trả ấn từ quan, sau thành ra nghèo. Khất thực thi (bài thơ Xin ăn của Đào Tiềm - LTT) có câu: “Khấu môn chuyết ngôn từ - Gõ cửa ngượng ngùng đâm vụng miệng”. Đó là nói chuyện ăn xin lắm lúc, xấu hổ nhiều khi. Như mà chịu gặp Đốc Bưu, công điền mấy khoảnh yên tâm ngồi hưởng. Không nhẫn nhịn được nỗi xấu hổ một lúc mà phải xấu hổ cả đời. Đó cũng chính là đối địch ta với người, quyên cái lớn giữ cái nhỏ, không biết khổ lụy về sau vậy. Khổng Tuyên Phụ nói: “Ta thì khác, không có gì là không thể (vô khả vô bất khả)”. Cái có thể thì hợp ý, cái không thể thì không hợp ý. Quân tử lấy ban bố điều nhân, thi hành điều nghĩa, ích nước cứu người làm điều hợp ý. Cho dù đạo không thực hiện cũng không có ý lấy làm không hài lòng. … …” (Dữ Ngụy Cư Sĩ Thư – Thư gửi Ngụy Cư Sĩ). [1]
Đây là một đoạn trong bức thư khuyên một người họ Ngụy ra làm quan của Vương Duy. Vương Duy xem ra lấy làm tiếc cho hành động “quy khứ” của Uyên Minh. Thế mới biết chí hướng và nhân sinh quan không cùng thì lời nói và hành động không đồng. Đương nhiên, xử thế như Vương Duy có khi lại được cho là nhún mình vì đại cục, quân tử tích cực tiến thủ giúp đời! Thế nhưng ta cũng nên biết thực tế thì con dân nhà Tư Mã Đông Tấn kia đã không làm quan cho nhà Lưu Tống và ngay từ khi Đông Tấn chưa mất ông ta đã sớm từ quan rồi. Trong khi đó Vương Duy chả hiểu sao khi An Lộc Sơn kéo quân vào Trường An lại không theo được triều đình đi sơ tán mà lại vẫn ở kinh đô rồi náu mình biệt thự Võng Xuyên. Hậu thế không ít người cho rằng Vương Duy khi nhắc đến Đào Tiềm trong bức thư khuyên ông cư sĩ họ Ngụy ra làm quan kia như tuồng cũng là để nhằm biện hộ cho hành động “ở ẩn tại triều” của mình. Trong liên hệ với Đào Tiềm và thực tế đời sống của Vương Duy, nhiều người cho những lời kiểu “vô khả vô bất khả”, “quân tử dĩ bố nhân thi nghĩa, hoạt quốc tế nhân vi thích ý. Túng kì đạo bất hành, diệc vô ý vi bất thích ý dã” chẳng qua cũng chỉ là một lối bao biện cho thái độ cơ hội trục lợi mà thôi. Đúng sai ra sao chúng tôi không dám lạm bàn. Điều dễ hiểu là kẻ chưa từng phải đứt bữa thì thực khó mà biết được cảm giác của người đói đến thất thần. Vương Duy không hiểu được cái ngạo khí khẳng khái từ bỏ gạo đong bằng đấu, ruộng công trăm khoảnh về vườn tự cày lấy ruộng nhà mà ăn của viên huyện lệnh chỉ ngồi huyện đường đến tháng thứ ba. Vương Duy cũng không hiểu nổi cái dũng khí thê thiết tìm người gõ cửa xin ăn của ông lão vườn trồng kê, đậu mà cũng có chỗ cho tùng cúc kia. Nhưng điều còn đáng nói hơn ở đây là nỗi thành thực vô bờ của vị thi nhân khất thực. Xin đọc một lượt cả bài thơ mà Vương Duy chỉ dẫn một câu nói trên:
Cơ lai khu ngã khứ,
Bất tri cánh hà chi;
Hành hành chí tư lí,
Khấu môn chuyết ngôn từ;
Chủ nhân giải dư ý,
Di tặng khỉ hư lại;
Đàm hài chung nhật tịch,
Thương chí triết khuynh bôi;
Tình hân tân tri hoan,
Ngôn vịnh toại phú thi;
Cảm tử Phiếu Mẫu ý,
Quý ngã phi Hàn tài;
Hàm trấp tri hà tạ,
Minh báo dĩ tương di.
(Đói khát xô xui ta ra khỏi nhà, Không biết đến đâu đã là đâu; Bước lần tới ngôi làng, Gõ cửa rồi mà không biết nói sao; Chủ nhân biết ý ta, Mang đồ ra cho khiến cho việc đến xin không uổng công; Nói chuyện tương đắc quyên ngày sắp tối, Rượu rót đầy cốc cốc liền vơi; Vui mừng vì thêm người bạn mới, Tức cảnh viết thành bài thơ; Cảm cái ý Phiếu Mẫu cứu khốn của người mà thẹn ta không có có cái tài của Hàn Tín; Mang ơn không biết cảm tạ ra sao, Chỉ biết cầu quỷ thần báo đáp!)[2]
Không biết ta còn có thể tìm được bài thơ nào nói chuyện xin ăn hồn hậu chân thiết và giản dị đến độ ấy nữa hay không. Đào Tiềm ngoài chuyện “khất thực” này ra còn có chuyện “đàn hát rong”. Các thiên tự sự về Đào Tiềm trong sử truyện (Tống Thư của Thẩm Ước kế đó là Đào Tiềm Truyện của Tiêu Thống) đều trần thuật tình tiết Đào Tiềm có lần nói với bạn “Liêu dục huyền ca, dĩ vi tam kinh chi tư, khả hồ?”[3] Không hiếm người hiểu câu đó ý nói “Tiềm tôi những muốn tạm ôm đàn hát dạo dành tiền cất ngôi nhà ẩn thân, có nên không?” Học giả đời sau cho tam kinh ở đây là chỉ nơi ẩn cư (điển cố chuyện một vị ẩn sĩ làm nhà ở ẩn từ ngõ tới sân vào nhà có đắp ba lối đi nhỏ)[4]. Riêng hai chữ huyền ca có người cho cũng là dụng điển. Điển huyền ca nói chuyện học trò Khổng Tử có người ra làm quan trông coi một huyện, ngày ngày đàn ca trong lúc sự vụ bản huyện vẫn xử lí đâu vào đấy. Thành ra câu nói của Đào Tiềm lại cũng được hiểu là “tạm ra làm quan kiếm ít tiền về cất ngôi nhà ở ẩn”. Tuy vậy cũng có người chẳng hạn Lâm Ngữ Đường hiểu Đào Tiềm ở đây thực là đang nói chuyện đi đàn hát dạo kiếm tiền. Lâm kể lại chuyện này trong The importance of living (Chương 5, mục 5 A lover of life – YuanMing): “Oneday he asked his relatives and friends, “Would it be all right for me to go out as a minstrel singer in order to play for the upkeep of my garden?”[5] (Lâm hiểu “huyền ca” ở đây là một kiểu sing to the accompaniment of stringed instruments). Một người bản tính lão thực, giản phác, không ưa màu mè những là “giúp đời báo nước” như Đào Tiềm trên thực tế rất có thể cũng chỉ xem việc ra làm quan cũng là một kế sinh nhai. Xin đọc Quy khứ lai hề tự (Tiểu dẫn cho bài Quy khứ lai hề):
“Nhà tôi nghèo khó, cày cuốc không đủ sống. Con đông, thùng gạo trống. Kế sinh nhai chẳng nghĩ được đường nào. Thân thích bạn bè thường khuyên tôi ra làm lấy một chức quan. Trong lòng cũng từng có ý đó, nhưng muốn mà cũng chả có cách. Gặp lúc nước đương lắm việc, các cấp quan châu quận đều xem chuyện thu dùng người tài là mĩ đức. Chú tôi thấy cảnh nhà bần cùng nên tiến cử tôi làm quan một thành nhỏ. Đương khi loạn lạc chưa ngừng, lòng những sợ đi xa. Có huyện Bành Trạch chỉ cách nhà độ trăm dặm, hoa lợi công điền đủ nấu rượu thế nên xin nhận chức nơi này. Vậy mà chẳng bao lâu nhớ nhà dạ chỉ muốn về. Sao vậy? Tôi bản tính chân thành tự nhiên, không thích miễn cưỡng, không biết giả bộ. Đói rét đương nhiên là chuyện cấp thiết nhưng trái phản với tâm ý của mình còn khiến tôi đau khổ hơn. Mặc dù bản thân cũng từng đã làm quan nhưng đó cũng chỉ là bởi cơm áo khiến sai (chúng tôi nhấn mạnh bằng in đậm). Thành ra phiền não ngôn nguôi, thẹn vô cùng với chí nguyện bình sinh. Những định đợi đến sau thu gặt hái xong là mình sẽ hành trang sắp sửa đường về. Bỗng xảy chuyện em gái gả về Vũ Xương làm dâu họ Trình mất, vội đi chịu tang. Thế là tự mình giải nhiệm, quan từ chức bỏ. Từ thu sang đông tính ra làm quan vừa vặn hơn 80 ngày. Nhân chuyện này viết một bài bày tỏ lòng mình, đặt tên “Quy khứ lai hề”. Tháng 11 năm Ất Tỵ” (Công lịch năm 405 – LTT).
Tô Đông Pha nói rất hay về cá tính nhiệm chân của Uyên Minh: “Đào Uyên Minh muốn làm quan thì ra làm quan, không ngại mang điều tiếng vì việc cầu quan tước; Muốn quy ẩn thì quy ẩn, chẳng lấy việc ở ẩn làm thanh cao. Đói quẫn gõ cửa khất thực, no đủ thì xôi gà đãi khách. Bậc hiền nhân xưa nay quý sự chân thật - “Dục sĩ tắc sĩ, bất dĩ cầu chi vi hiềm; Dục ẩn tắc ẩn, bất dĩ ẩn vi cao. Cơ tắc khấu môn nhi khất thực, bão tắc kê thử dĩ nghênh khách. Cổ kim hiền chi, quý kì chân dã” (Thư Lý Giản Phu thi tập hậu)[6]. Tinh thần nhiệm chân tự đắc đó không phải là thứ mà mấy chữ ẩn dật hay trung nghĩa thông thường có thể khái quát được. Vậy mà cho rằng Đào Tiềm ngay từ đầu đã muốn lánh đời và diễn tả việc ông quy điền như là hành động ẩn dật thanh tao rồi đọc thơ ông như là một thứ thơ điền viên tùng cúc sương mai ráng chiều “ưu tai du tai – an nhàn thảnh thơi”[7] nếu không nói là một cách hiểu nông cạn thì cũng là một lối “mĩ miều hóa” dễ dãi.
Sự thực thì phải là một tinh thần yêu đời và sùng thượng thanh nhàn trong cố cùng và gian truân thì mới không trở thành hời hợt và dễ dãi. Vịnh bần sĩ (bài 5) có những câu viết thật chân thành: “Khỉ bất thực tân khổ, sở cụ phi cơ hàn; Bần phú đương giao chiến, đạo thắng vô thê nhan” (Há chẳng phải là không vất vả, Nhưng điều sợ không phải là chuyện đói rét; Tư tưởng an bần và ước muốn giàu có đấu tranh với nhau (trong lòng), nhưng khi đạo nghĩa chiến thắng thì nét mặt chẳng còn chút buồn bã).[8] Lương Khải Siêu tỏ ra là đã đã thấu hiểu được tình cảnh của thi hào khi viết: “Ông quả thực nghèo đến độ thảm thê, cho nên cũng từng có lúc đổi ý ra làm quan kiếm cơm áo. Thế nhưng bản tính “khinh những điều không trong sạch” rốt cuộc không dung được với đường chung chạ đó. Ông trải qua đấu tranh tư tưởng, kết quả cảm thấy nỗi đau khổ làm quan kiếm cơm còn gớm ghê hơn nỗi khổ chịu đói. Thế nên ông mới dứt khoát bỏ đường này chọn lấy đường kia” (Đào Uyên Minh chi văn nghệ cập kì phẩm cách trong Đào Uyên Minh nghiên cứu tư liệu hội biên, Trung Hoa thư cục, 1962).
Vương Duy sống buổi Thịnh Đường, đương thời chí tiến thủ đã trở thành phong khí của sĩ nhân thời đại. Không biết Đào Tiềm nếu gặp buổi Thịnh Đường như thời Vương Duy thì ông có dứt khoát từ quan đến thế không? Thế nhưng vấn đề là làm sao một thân kiếp cá nhân lại có thể chọn được thời thế và đợi chờ được xã hội? Suy cho cùng, thiên tính và chí hướng tự nhiên đã thôi thúc Đào Tiềm quy khứ. Mấy chữ ẩn dật thanh cao, coi khinh quyền quý mơ hồ trong miệng thế đời sau chắc cũng chẳng làm cho ông – một người chí thành nhiệm chân lấy làm đắc ý. “Cổ kim hiền chi, quý kì chân dã” (Tô Thức). Cái chân của nhân cách Uyên Minh thấy phảng phất nơi Khổng Tử, Tư Mã Thiên. Thử đọc một đoạn trong Bá Di Liệt Truyện: “Khổng Tử nói: Chí hướng bất đồng thì không thể cùng bàn tính với nhau được. Vậy thì ai theo chí người ấy. Ngài lại nói Phú quý mà theo đuổi được thì dù là kẻ cầm roi ta cũng làm; Còn như mà không thể mong cầu được thì ta theo sở nguyện của ta vậy (dẫn từ chương Thuật Nhi trong Luận Ngữ - LTT). Sau ngày đông giá rét mới biết tùng bách lá rụng sau cùng (xem chương Tử Hãn trong Luận Ngữ - LTT). Thế nhân ô trọc thì kẻ sĩ trong sạch mới được thấy rõ. Đâu phải là chuyện coi trọng cái này khinh rẻ cái kia đâu?” Nguyễn Hiến Lê trong bản dịch Sử Kí tới chỗ này còn chú thêm một đoạn như này: “Ý muốn nói người hiền với người thường chí hướng khác nhau; người thường trọng sự giàu sang và thọ, khinh sự nghèo hèn và yểu; người hiền trái lại, chỉ trọng đạo đức”. Như Đào Uyên Minh chả xem mình là người hiền nhưng là người chỉ trọng đạo đức. Mà cốt lõi của đạo đức ấy chính là sự chân thành. Đào Tiềm Truyện của Tiêu Thống có đoạn: “Châu quận vời làm Chủ Bạ, không ra. Tự cày cuốc nuôi nhà nuôi mình, gian lao thân mắc tật bệnh. Thứ Sử Giang Châu là Đàm Đạo Tế đến thăm. Đào ốm đói nằm bệt gường đã mấy ngày. Đạo Tế nói: Hiền nhân xử thế, thiên hạ vô đạo thì ẩn cư, hữu đạo thì ra làm quan. Nay ông sống thời thịnh trị làm sao lại tự làm khổ mình như vậy? Đáp: Tiềm tôi sao dám làm người hiền, chỉ là chí hướng không theo kịp vậy. Đạo Tế biếu tặng lương thực thịt thà. Đào Tiềm khoát tay chối từ.”
Trong hành động từ quan của Đào Tiềm ẩn chứa một lí do đơn giản trần trụi - hy sinh lợi lộc chấp nhận cùng cực cơm áo để giữ lấy chút tự do nhân thân và chút tự tại tâm hồn. Nói cách khác cố cái cùng để toàn cái ngã: ở nhà mình cuốc vườn mình, tự ta nuôi mình để thân ta thuộc hồn mình. Cái lí do giản dị của việc từ quan đó thành ra bao hàm một nội dung ý nghĩa phổ quát rộng rãi hơn nhiều so với nghĩa của mấy chữ “xuất xử hành tàng”, “trung nghĩa tiết tháo”, “an bần lạc đạo” cộng lại. Từ quan đối với ông đâu chỉ là sự bất mãn đối với một thế quyền cụ thể, đó là một sự tránh bỏ chính trị nói chung. Thịnh thế minh trị đi nữa thì làm quan thế tất ít ra là phải cảnh ràng buộc nhiều nữa thì phải nô lệ, nhẹ ra thì giữa ngôn và hành có khoảng cách, nặng thì đành phải giả dối thủ đoạn. Đó đều là những điều mà đối với ông chẳng may lại là là thứ đối nghịch hoàn toàn với bản tính và chí nguyện bình sinh. Nói như Lâm Ngữ Đường trong The importance of livingê).[9]Tiên sinhkhông rõ người ở đâu, tên họ gì, bên nhà có trồng năm cây liễu, nhân đó đặt tên hiệu. Nhàn tĩnh, ít lời, không màng vinh hoa lợi lộc”,[13] sống khuất mình trong ngôi nhà gianh, nhẩn nha hái cúc bên hàng dậu phía đông nhà, nhìn Nam Sơn bỗng nhiên “định nói thì quyên lời” (dục biện dĩ vong ngôn). Thực khác với cảnh tượng “Độc tọa u hoàng lí, Đàn cầm phục trường khiếu” (Trúc lí quán) mà ta đọc thấy ở Vương Duy.[14] Đào Uyên Minh quy khứ khuất mình giữa cây lá để giữ lấy chí hướng sở nguyện riêng dù biết phải gian truân cày cuốc một đời.Không biết Vương Ma Cật có lúc trong cảnh người nhàn hoa quế rụng nơi biệt thự Võng Xuyên, thức giấc vì tiếng chim kêu giữa khe núi trăng soi có nghĩ thế không? Vì vậy thay vì nói Đào Tiềm từ quan quy ẩn ta có thể nói Đào Tiềm “lánh chính trị” quay về với thế giới của bản thân. Hậu thế hễ nhắc đến Uyên Minh là người ta nghĩ ngay đến từ ẩn dật mà thực ra tài liệu viết về ông sớm nhất – bài điếu ông khi mất của người bạn thân Nhan Đình Chi lại gọi ông là kẻ u cư.[10] Bản thân Đào Tiềm cũng tự gọi mình như vậy: “Ngã thực u cư sĩ, Vô phục đông tây duyên – Tôi là kẻ sĩ nơi sâu vắng, Chẳng còn dính dáng chuyện bôn ba”[11] (Đáp Long Tham Quân), “Khởi vô tha hiếu, Lạc thị u cư – Há còn mê gì khác, Vui giữa cảnh u cư” (Đáp Long Tham Quân bính tự).[12] Kẻ u cư không muốn xưng danh đó – “: “Có người cho rằng ông chủ trương “lánh đời”, nhưng không phải vậy. Ông lánh chính trị chứ không lánh đời.” (Bản dịch Nguyễn Hiến L
Hà Nội, 19/08/2010
[1]Nguyên văn: 近有陶潛,不肯把板屈腰見督郵,解印綬棄官去。後貧,《乞食詩》云「叩門拙言詞」,是屢乞而多慚也。嚐一見督郵,安食公田數頃。一慚之不忍,而終身慚乎?此亦人我攻中、忘大守小、不(闕)其後之累也。孔宣父云:「我則異於是,無可無不可。」可者適意,不可者不適意也。君子以布仁施義、活國濟人為適意,縱其道不行,亦無意為不適意也(王維, 與魏 居 士 書).
[2] Nguyên văn: 乞食
飢來驅我去,不知竟何之;行行至斯里,叩門拙言辭;主人解余意,遺贈豈虛來;彈諧終日夕,觴至輒傾杯;情欣新知歡,言詠遂賦詩;感子漂母惠,愧我非韓才;銜戢知何謝,冥報以相貽.
[3] Nguyên văn: “聊欲弦歌,以為三徑之資,可乎?”
[4] Quy khứ lai từ có câu: Tam kinh tựu hoang, Tùng cúc do tồn 三径就荒,松菊犹存; Thơ Mạnh Hạo Nhiên: Nhất khâu thường dục ngọa, Tam kinh khổ vô tư 一丘尝欲卧,三径苦无资. Cao minh thay những kẻ ở ẩn nhà công vụ!
[5] Nguyễn Hiến Lê dịch từ bản dịch Pháp văn có tham khảo bản dịch Trung văn: “Một hôm ông nói với thân thuộc bạn bè: “Nếu bây giờ tôi đi đàn ca dạo để có tiền sửa sang vườn tược thì có nên không?” Một người bạn nghe được lời đó, tiến cử ông làm chức tri huyện Bành Trach.” (Sống Đẹp, Nxb.Văn Hóa, 1993, tr.92).
[6]陶渊明欲仕则仕,不以求仕为嫌;欲隐则隐,不以去之为高。饥则扣门而乞食,饱则鸡黍以迎客,古今贤之,贵其真也。” (书李简夫诗集后).
[7] Từ điển thành ngữ tiếng Hán thậm chí sau khi thích nghĩa “an nhàn thảnh thơi” cho thành ngữ “ưu tai du tai” đã đặt câu với Đào Tiềm: “Đào Uyên Minh nửa đời còn lại ẩn cư chốn sơn dã, an nhàn thảnh thơi, sống cuộc sống điền viên bay bổng tựa thần tiên” (Dẫn từ 金山词霸Kim Sơn Từ Bá, xem www.iciba.com(mục từ ưu tai du tai). Nguyên văn câu dẫn làm ví dụ giải thích cho thành ngữ này: 陶渊明的后半生隐居在山野之中,优哉游哉,过着飘然若仙的田园生活).
[8]豈不實辛苦,所懼非饑寒。貧富常交戰,道勝無戚顏。
[9] Sống Đẹp, Nxb.Văn Hóa, 1993, tr.96. Nguyễn Hiến Lê dịch từ bản dịch Pháp văn có tham khảo bản dịch Trung văn. Nguyên văn câu trên trong The importance of living: “T’ao might be taken as “escapist”, and yes it was not so. What he tried to escape from was polities and not life itself”.
[10] Nguyên văn: Hữu Tấn trưng sĩ Tầm Dương Đào Uyên Minh, Nam Nhạc chi u cư giả dã (Đào Trưng Sĩ lỗi bính tự) 有晋徵士寻阳陶渊明,南岳之幽居者也 (陶徵士诔并序)
[13] Tiên sinh bất tri hà hứa nhân, bất tường tính thị. Trái biên hữu ngũ liễu thụ, nhân dĩ vi hiệu yên. Nhàn tĩnh thiểu ngôn, bất mộ danh lợi (Ngũ Liễu Tiên Sinh truyện). 先生不知何許人,不詳姓氏,宅邊有五柳樹,因以為號焉。 閑靜少言,不慕榮利 (五柳先生傳)
[14]獨 坐 幽篁 裡, 彈 琴 復 長 嘯 (竹里館)