Song, nếu nói một cách thực sự cầu thị thì nguy cơ về độ tín nhiệm xã hội của Trung Quốc không phải là một vấn đề mà chỉ hiện thời mới có. Ngay ở thế kỷ 18, Trung Quốc thời ấy đối với đại đa số người Phương Tây vẫn còn là một xứ sở thần bí, nhưng các nhà tư tưởng thời Khai sáng đã tìm hiểu được qua một vài tác phẩm của các thương nhân và nhà truyền giáo rằng Trung Quốc là một xứ sở thiếu đi sự “thành tín” trên thế giới.
Ngay từ khi nền Hán học hiện đại còn chưa được hưng khởi, Montesquieu, Kant, Hegel, cho đến cả Weber và Russell, đều luôn coi Trung Quốc là một tiêu bản của “xã hội phi hiện đại hóa”, một cường quốc thiếu đi hệ thống tín nhiệm và tín dụng. Chẳng hạn, Montesquieu trong tác phẩm “Tinh thần của luận pháp”[i] đã cho rằng, tuy Đế quốc Trung Hoa luôn chịu sự khống chế của lễ chế Nho gia và pháp luật đế quốc được hình thức hóa, nhưng sự không tôn trọng luật lệnh đạo đức của người Trung Quốc lại đã thấm sâu vào mọi phương diện của đời sống thường nhật, sự theo đuổi tiền bạc và lợi lộc đã vượt xa sự thượng tôn lễ pháp. Thực tế, cho đến hiện giờ, xã hội Nho gia vẫn thường bị coi là xã hội thiếu độ tín nhiệm xã hội.
Thiếu độ tín nhiệm xã hội, chính người Trung Quốc đương nhiên là cũng cảm nhận được ở nơi nơi. Khi đó, người ta đã có được sự hiểu biết khá sâu sắc về các vấn đề gian lận và thiếu tín dụng… trong xã hội Trung Quốc. Trương Ứng Du vào cuối đời Minh thậm chí còn viết cả một cuốn sách để đời có tên là “Biển kinh”[ii], liệt kê riêng 24 thuật lừa gạt thường gặp vào cuối đời Minh, giải thích tường tận thủ pháp vận hành của nó cùng các sách lược phòng ngừa. Xếp “lừa gạt” vào hàng kinh điển, lại được bán rất chạy trong xã hội đương thời và hàng trăm năm sau, đây quả thực là chuyện lạ trong lịch sử xuất bản mang màu sắc khôi hài xám xịt, chuyện không gặp nhiều trên thế giới. Thực ra, những người có hiểu biết chút ít về tiểu thuyết xã hội thời Minh Thanh đã suy tàn hoặc tiểu thuyết giang hồ thời cận đại cũng sẽ có thể hiểu được kha khá về vấn đề tín nhiệm xã hội trong lịch sử Trung Quốc. Nếu chúng ta muốn hâm nóng lại những kinh điển đã quen thuộc này, thì nhất định sẽ phải than thở về tính kế tục của lịch sử Trung Quốc, bất luận là sự bất tín nhiệm này tồn tại giữa chính phủ với dân chúng, giữa các chủ thể liên quan của thị trường (chủ yếu là giữa nhà cung cấp với người tiêu dùng hàng hóa), hay là giữa xã hội với các tầng lớp dân chúng.
Độ tín nhiệm xã hội của Trung Quốc hiện nay sở dĩ trở thành một vấn đề, không phải là vì trước đó nó không tồn tại. Nói cho công bằng thì tín nhiệm xã hội không bị “vấn đề hóa” ở Trung Quốc truyền thống và ở xã hội Trung Quốc trước thời cải cách, không phải vì những thời ấy có cơ chế tín nhiệm thành thục hơn bây giờ, mà là vì “độ tín nhiệm” trong các kiểu cơ cấu xã hội ấy vẫn chưa bị tư bản hóa và “xã hội hóa”. Nhưng mặt khác, những biến động lớn của Trung Quốc không thể không có mặt kế tục, cho nên, những vấn đề ở thời đại chúng ta ở một chừng mực rất lớn cũng là vì chúng ta đã kế thừa một cách vô tình rất nhiều cơ chế trong xã hội truyền thống, trong đó bao gồm cả cơ chế được sinh thành từ “độ tín nhiệm”, mà những cơ chế ấy rõ ràng đã tách rời khỏi sự phát triển của thời đại rồi. Nguy cơ về độ tín nhiệm xã hội của Trung Quốc hiện nay có căn nguyên từ hai phương diện: Một phương diện là nếu xét theo tư cách thể chế độ tín nhiệm xã hội là hiện tượng phổ biến trong thời kỳ chuyển đổi, thì vẫn chưa hoàn thiện, phương diện còn lại có lẽ là quan trọng hơn cả chính là sự bất tín nhiệm xã hội được tạo nên bởi một vài đặc điểm thuộc cơ cấu xã hội của Trung Quốc. Muốn lí giải được vấn đề độ tín nhiệm xã hội ở phương diện sau, thì phải tìm hiểu được quỹ đạo lịch sử cơ bản của các cải cách xã hội ở Trung Quốc, rồi tiến hành phân tích cụ thể theo từng tình hình cụ thể.
Khởi nguồn lịch sử vấn đề độ tín nhiệm xã hội của Trung Quốc
Độ tín nhiệm xã hội sở dĩ không bị “vấn đề hóa” trong thể chế “nhà nước” của Trung Quốc truyền thống, chủ yếu là do không gian sống của tuyệt đại đa số người dân thời ấy thực sự chỉ trong phạm vi nhỏ hẹp chưa vượt qua nổi cộng đồng gia đình, họ tộc và láng giềng truyền thống. Độ tín nhiệm được thiết lập trên mối quan hệ thân tộc và địa lý, đó là một trạng thái tâm lý xã hội tự nhiên được sản sinh qua sự nương tựa vào nhau trong sinh hoạt gia tộc và cộng đồng. Nói theo ngôn ngữ tương đối bác học, thì tính đối xứng của thông tin và tầm cao của hành vi có thể mang tính dự báo. Nhìn chung, chỉ cần kiểu kinh tế nông nghiệp một nhà một hộ chồng cày ruộng vợ dệt vải về cơ bản không bị hủy hoại, là mức độ “tín nhiệm” giữa các thành viên trong gia đình và cộng đồng thông thường của xã hội truyền thống vẫn còn tương đối cao. Ngay cả mối mâu thuẫn “giai cấp” giữa địa chủ với nông dân một dạo được cho là sâu sắc, trong tình trạng chính quyền nhà nước chưa đi quá sâu vào nông thôn, thực ra cũng rất ít khi sản sinh mối nguy cơ độ tín nhiệm không thể điều hòa nổi.
So với độ tín nhiệm “xã hội” nảy sinh tự nhiên này, thì độ tín nhiệm của thượng tầng chính trị xã hội truyền thống và “độ tín nhiệm” của thượng tầng kinh tế lại vì thiếu đi vật truyền tải chế độ hợp lý mà chồng chất những vấn đề. Do hoàng quyền là lực lượng tổ chức “mang tính toàn quốc” duy nhất, bao gồm cả việc bất cứ tổ chức xã hội nào khác cũng đều không có cách gì phát triển cho được chín muồi, bao trùm khắp cả xã hội. Mà hoàng quyền gia tộc cũng vì thiếu đi tài nguyên và năng lực, nên không có cách gì để kiến lập được độ tín nhiệm giữa nhà nước với cộng đồng xã hội thông qua việc cung cấp các hàng hóa công cộng một cách có hiệu quả. Mặt khác, chính do sự khống chế của hoàng quyền đối với nền kinh tế xã hội mà đã khiến cho xã hội sinh ra cơ chế bất lợi đối với độ tín nhiệm xã hội. Cũng có nghĩa là, trong điều kiện thiếu đi xã hội tự chủ, thì tự thân các quần thể xã hội cũng sẽ rất khó lòng sản sinh được độ tín nhiệm.
Phương Tây thời cận đại ngoài quyền lực nhà nước ra, còn sinh ra một “xã hội thị dân”, còn Trung Quốc cận đại thì ngoài “thể chế nhà nước” còn có thêm một “xã hội giang hồ”. Xã hội giang hồ bao gồm tất cả những nhóm người tách khỏi sự khống chế quản lý dân theo hộ tịch, như thương nhân, dân lang thang, nhà sư, người môi giới, nghệ sĩ và nhà văn yếm thế, cùng các dân phu và quân sĩ đã ra khỏi biên chế chính quy… Song, trái ngược với lớp thị dân chiếm địa vị then chốt trong đời sống kinh tế ở Phương Tây, số người ngoài rìa này để sinh tồn được đã buộc phải dựa vào các tổ chức “ngoài thể chế” thuê mướn bằng bạo lực và kinh doanh phi pháp, những tổ chức được gọi là siêu khu vực và siêu giai cấp kiểu “bang hội” này cũng phát triển thành một chế độ tín nhiệm tư nhân hóa cực kỳ mang tính lệ thuộc. Tính khép kín của chế độ tín nhiệm này và mức độ lệ thuộc nhân thân còn vượt xa cả “thể chế nhà nước”. Áp vào các tổ chức xã hội thì đó chính là tư nhân và bản vị tiểu cộng đồng, thiếu đi tính cộng đồng so với hoàng quyền. Nếu như nói hoàng quyền là thể chế chính thức, thì các hình thức “hội tư” là tổ chức phi chính thức, mà xét từ cơ cấu văn hóa, thì giữa chúng không có sự khác biệt mang tính bản chất.
Vì thế, vấn đề “độ tín nhiệm xã hội” mang tính thể chế tồn tại ở Trung Quốc truyền thống cũng hay nảy sinh giữa “thể chế nhà nước” với “xã hội giang hồ”, đó cũng chính là “quân lường gạt giang hồ” như xã hội thường nói. Cái gọi là quân lường gạt giang hồ phần lớn cũng chính là chỉ những người trong xã hội giang hồ. Do hệ thống độ tín nhiệm khác nhau nên sự giao dịch giữa xã hội giang hồ với xã hội truyền thống thường là không tuân theo chuẩn tắc. Cho nên, vấn đề “độ tín nhiệm” mang tính thể chế thực sự trong xã hội truyền thống chủ yếu xuất phát từ sự cọ xát giữa thể chế chính thức với thể chế phi chính thức. Vì thế, muốn giải quyết được vấn đề độ tín nhiệm trong xã hội cận đại, nếu không xóa sổ thể chế phi chính thức đi, thì cũng phải sát nhập thể chế phi chính thức vào trong thể chế chính thức.
Sự chuyển đổi hình thái lớn trong xã hội Trung Quốc: Nhà nước hóa và thị trường hóa độ tín nhiệm
Cùng với những biến động lớn về cơ cấu xã hội Trung Quốc trong một trăm năm qua, nhất là cách mạng và cải cách cùng sự tan rã nhanh chóng của xã hội truyền thống, độ tín nhiệm xã hội của Trung Quốc đã trải qua một lần chuyển đổi lớn. Ngày đầu lập nước, nhà nước đã hoàn thành việc “quản lý dân theo hộ tịch” với quy mô lớn nhất trong lịch sử thông qua các phong trào xã hội và xây dựng chính quyền cơ sở, từ đó mà về cơ bản đã xóa sổ được các thế lực xã hội nằm ngoài “thể chế nhà nước”, chẳng hạn như không gian hoạt động của xã hội giang hồ. Cùng với việc triển khai toàn diện xây dựng kinh tế và chuyển đổi hình thái xã hội, nhà nước đã có năng lực tổ chức xã hội, đồng thời đã nắm được nguồn tài nguyên kinh tế đầy đủ để tiến hành sự “tương tác” với xã hội thông qua việc chấp hành các chính sách và các phương thức “sự nghiệp”. Cùng với việc hình thành bước đầu năng lực nhà nước hiện đại, độ tín nhiệm chính trị lần đầu tiên được đưa vào chương trình nghị sự xét về ý nghĩa cận đại.
Trải qua cuộc cách mạng nửa thế kỷ, chính quyền mới bằng việc cải tạo triệt để các tổ chức kinh tế xã hội, cuối cùng đã thành công trong việc đẩy các lực lượng nhà nước về từng góc của xã hội. Độ tín nhiệm vốn giới hạn trong nội bộ gia tộc và cộng đồng đã biến thành độ tín nhiệm đối với các tổ chức, đối với Đảng và nhà nước. Cơ chế của độ tín nhiệm này là các gia đình cá thể giao phần lớn sản phẩm thặng dư cho nhà nước để đổi lấy các hàng hóa tư nhân và các hàng hóa công cộng cần thiết mà nhà nước cung cấp nhằm thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của mình, đặc biệt là ban ân huệ cho sự phát triển kinh tế của cả xã hội. Đây là một bản khế ước ngầm cơ bản của chính quyền mới, đồng thời cũng là một loại khế ước quan trọng nhất để duy trì hệ thống mới.
Bước vào thời đại cải cách, con dao quyền lực nhà nước bổ thật lực thẳng vào cơ chế thị trường, thiết lập nên không gian tiền tệ có chủ quyền (Sovereign Monetary Space) trung ương tập quyền và hệ thống tín dụng hiện đại, độ tín nhiệm xã hội đã trải qua hai quá trình thị trường hóa và tiền tệ hóa. Theo cách nói của Simmel…, cùng với việc tiền tệ trở thành vật môi giới chủ yếu trong trao đổi xã hội, độ tín nhiệm xã hội đã chuyển từ nhân cách hóa sang hệ thống phi nhân cách hóa. Trong hệ thống mới, nhà nước sản xuất và cung cấp ra thị trường phần lớn hàng hóa tư nhân và một phần hành hóa công cộng, đồng thời, giữa các cá thể với chủ thể thị trường mới – công ty, đã tiến hành trao đổi bằng phương thức thông qua thị trường hàng hóa và hợp đồng lao động, và như thế, độ tín nhiệm xã hội cũng được sản sinh và duy trì chủ yếu thông qua giao dịch thị trường, còn nhà nước chỉ tồn tại theo danh nghĩa là người ban hành các quy định.
Trong khi đó, có những lĩnh vực cốt lõi chưa được thị trường hóa, mà trái lại, lại được tăng cường nhà nước hóa. Chính quyền trung ương hoàn toàn khống chế hệ thống tái sản xuất của nền kinh tế xã hội – ngân hàng, hệ thống tài chính và đầu tư, đồng thời ủy thác cho các chính quyền địa phương và công ty nhà nước được kinh doanh đất đai và lũng đoạn nền công nghiệp, đó là hai nguồn tài chính và nguồn vốn quốc gia quan trọng nhất. Ba chủ thể hành chính và tài chính chủ yếu là cơ quan tài chính, chính quyền địa phương và công ty nhà nước trở thành chủ thể thị trường, đồng thời về cơ bản đã khống chế cả việc sản xuất theo tín dụng và cũng độc quyền luôn cả nguồn của cải xã hội chủ yếu. Những gia đình và cá nhân nắm trong tay cơ chế sản xuất của cải ấy cũng có được luôn cả quyền ưu tiên làm giàu.
Mặt khác, một số hàng hóa công cộng và hàng hóa bán công cộng, ví dụ như nhà ở, y tế, giáo dục, điện lực, giao thông và quy hoạch đất đai…, trái lại lại ủy thác hoàn toàn cho bên bán độc quyền thị trường, không có liên hệ gì với hệ thống sinh thành tài sản nhà nước mới. Về phương diện này đã tước bỏ trách nhiệm của nhà nước, trở thành điều kiện cần thiết cho việc tích lũy của cải nhà nước (ví dụ như y tế và giáo dục), về phương diện khác cũng đã cung cấp nguồn tài chính lý tưởng (chẳng hạn như bất động sản) cho nền tài chính nhà nước. Kết quả là hàng hóa công cộng tập trung vào một số ít nhóm người, từ đó mà mang tính chất “hàng hóa tư nhân”, còn hàng hóa công cộng theo đúng nghĩa thực sự thì lại vĩnh viễn rơi vào trạng thái cung ứng không đủ.
Do những vật chất cần thiết cho sinh hoạt gia đình và những hàng hóa công cộng của chế độ được cung cấp không đủ, nên cảm giác bị bóc lột ở lớp trẻ đặc biệt mạnh. Gia đình, đơn nguyên hạt nhân của độ tín nhiệm xã hội và đơn vị cơ sở của tái sản xuất xã hội của Trung Quốc, ở thời nhà nước hóa vẫn còn chưa vận hành được bình thường, thì nay lại phải chịu áp lực kép từ nhà nước và thị trường, thế là đã bị rơi vào một mối nguy cơ nào đó. Cho nên nói, kiểu cùng đi tay trong tay giữa nhà nước hóa với thị trường hóa không những chỉ là khởi nguồn của việc làm suy thoái cơ cấu phân phối thu nhập và cơ cấu kinh tế hiện nay của Trung Quốc, mà còn là một trong những căn nguyên gây nên nguy cơ về độ tín nhiệm giữa nhà nước với xã hội.
Hệ quả ở tầng sâu hơn của nhà nước hóa và thị trường hóa chính là lẽ ra phải bắt đầu bằng tín dụng nhà nước và độ tín nhiệm xã hội phi nhân cách hóa và xã hội hóa, thì lại bắt đầu bằng việc xuất hiện dấu ấn của tư nhân hóa và phi xã hội hóa, xu hướng này trái ngược hẳn lại với “xã hội hóa” độ tín nhiệm mà phần lớn các xã hội phát triển đã trải qua. Nguồn tín dụng công thực sự đã bị đặt vào tay của một số ít tư nhân và tập đoàn, tạo thành sự hủ bại quyền lực và hành vi tìm thuê trên diện rộng. Một hệ quả khác rất giống với xã hội truyền thống chính là sự tan rã “phi chế độ hóa” và độ tín nhiệm xã hội tương ứng với đời sống xã hội. Quyền lực mà lũng đoạn lợi ích kinh tế và các tổ chức xã hội thì ngược lại sẽ nén không gian sinh tồn của cả xã hội lại, nâng cao giá thành tín dụng xã hội, làm giảm lợi nhuận của kinh doanh hợp pháp; còn sự thay thế hình thái ý thức và các tổ chức cơ sở truyền thống bằng tiền tệ và thị trường, thì cùng với tư nhân hóa và phi xã hội hóa nguồn tín dụng nhà nước, sẽ làm hạ thấp thêm giá thành đạo đức của các thành viên xã hội nói chung một cách “hết sức thủ đoạn”. Sự biến đổi ở hai phương diện này cuối cùng sẽ dẫn đến sự sống lại trên diện rộng các quy chuẩn “giang hồ (ngầm)” trong đời sống kinh tế quốc dân.
Ba chiều của nguy cơ về độ tín nhiệm hiện nay
Khi đã hiểu được bối cảnh lớn của nguy cơ về độ tín nhiệm xã hội hiện nay, thì sẽ nhận thức được tương đối dễ dàng nguy cơ về độ tín nhiệm với tư cách là một hiện tượng. Có thể phân tích vấn đề độ tín nhiệm xã hội cụ thể của Trung Quốc từ ba tầng cấp chính trị, kinh tế và xã hội. Ở tầng cấp chính trị, nguy cơ về độ tín nhiệm được biểu hiện ở độ tín nhiệm “quan-dân” bấy lâu nay, tức vấn đề độ tín nhiệm giữa chính phủ (quan chức và công chức) với dân chúng và giữa xã hội với nhà nước; vấn đề độ tín nhiệm ở tầng cấp kinh tế, tức độ tín nhiệm giữa các chủ thể lợi ích của thị trường, chủ yếu là giữa nhà cung cấp với người tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ; cuối cùng là vấn đề độ tín nhiệm ở tầng cấp xã hội, cũng chính là giữa các thành viên xã hội nói chung, bao gồm cả vấn đề độ tín nhiệm giữa các thành viên của công ty và gia đình. Xét từ mối quan hệ giữa ba tầng cấp này, thì loại độ tín nhiệm thứ nhất lại là quan trọng nhất, bởi vì trong truyền thống văn hóa Trung Quốc, nhà nước là người ban hành và người bảo vệ các quy định, độ tín nhiệm của quốc dân đối với nhà nước, ở một chừng mực rất lớn là nền tảng của độ tín nhiệm xã hội theo ý nghĩa thông thường.
1. Độ tín nhiệm giữa chính phủ với dân chúng
Ở một quốc gia mà xã hội ngày càng thị trường hóa và tiền tệ hóa như ngày nay, chính phủ không còn cần đến những quy định như trong khế ước xã hội ngầm buổi ban đầu, mà đưa ra cho người dân một chương trình phúc lợi từ khi còn nằm nôi cho đến lúc xuống mồ. Thực ra, chỉ cần dân chúng có làm có hưởng, có được sự hồi đáp lại tương đối hợp lý thông qua thị trường, là chính phủ đã thừa hành đầy đủ được khế ước đối với xã hội. Nhưng điểm này thường khó lòng làm được, chỉ chiếm khoảng 10%-20% GDP, hơn nữa lại có thể nhận thấy hạn mức thu nhập của người lao động giảm thiểu theo từng năm. Độc quyền nhà nước được nói tới ở trên đương nhiên là nhân tố mang tính cơ cấu dài hạn quan trọng nhất, nhưng quyết không phải là nhân tố duy nhất. Trực tiếp gây hủy hoại độ tín nhiệm của dân chúng nói chung đối với chính phủ vẫn là những hành vi ngắn hạn của các quan chức chính phủ.
Một dạng hành vi ngắn hạn gây hủy hoại “khế ước xã hội” thường gặp nhất chính là sự đầu tư phi lí tính của các chính quyền địa phương. Trong hệ thống đầu tư hiện hành, đầu tư loại kinh tế chính phủ, nhất là đầu tư xây dựng cơ bản, rất dễ giành được nguồn vốn chính trị, còn các đầu tư xã hội có liên quan đến dân sinh… thì bị thiếu mất động lực. Nếu như sự kỳ vọng của dân chúng đối với các chính sách dân sinh của chính phủ mãi vẫn không thể được thực hiện như lời hứa, thì đương nhiên sẽ ảnh hưởng đến vấn đề thừa hành khế ước xã hội. Cuối cùng, ngay cả khi chính phủ có muốn tăng cường đầu tư xã hội, thì người dân cũng sẽ thực sự không coi là thật. Vô hình trung, kỳ vọng của rất nhiều tầng lớp trung lưu dựa vào chính phủ cung cấp hàng hóa công cộng cũng sẽ bị suy giảm, cuối cùng chỉ muốn “bỏ phiếu bằng chân”, hoặc nghĩ đến chuyện làm người nhập cư, hoặc tìm đủ mọi cách để quay trở lại thể chế để trở thành một thành viên trong tầng lớp sống bằng lợi tức.
Một dạng hành vi ngắn hạn khác chính là “thao tác hộp đen” cùng vấn đề hủ bại theo nghĩa rộng hơn. Nói chung, “thao tác hộp đen” thường gặp ở lĩnh vực kinh tế và nhân sự. Đặc biệt là chỉ hành vi tìm thuê quyền lực để dùng quyền nhằm một mưu đồ riêng nào đó trong các quá trình đấu thầu, mua sắm, tuyển dụng và rà soát. Dần dà, người dân thấu rõ chuyện này, quen đi rồi cho đó là bình thường. Cuối cùng, dân chúng nói chung sẽ nảy sinh “chứng mệt mỏi cải cách” chống lại sự hủ bại và quy chế hóa, không còn tín nhiệm coi những thứ luật và chế độ kỷ luật kiểm tra công này là “của chúng ta” nữa, và xếp các quan chức chính phủ vào hàng “của họ”, thậm chí còn phát triển thành một thứ tâm lý “thù quan chức”.
Dạng hành vi ngắn hạn cuối cùng và cũng mang tính tàn bạo nhất, đó là hành vi hách dịch của cá nhân các quan chức chính phủ và nhân viên chính phủ, mà điển hình nhất là “Vụ án Đặng Ngọc Kiều” năm 2009 và “Vụ án Lý Cương” , “Vụ án Tiền Vân Hội” năm 2010. Những sự kiện ấy vì sao lại mang tính tàn bạo, có thể dẫn đến sự đối lập không gian ảo quan-dân, cùng trạng thái “anh giải thích thế nào tôi cũng không tin”, truy tìm căn nguyên thì vẫn là nằm ở những nhân tố dài hạn dân sinh và hủ bại đã hủy hoại sâu sắc nền tảng độ tín nhiệm quan-dân.
Nếu các quan chức với tư cách đại diện cho quyền lực nhà nước mà mất tín nhiệm, luật pháp với tư cách là nguyên tắc của quyền lực nhà nước mà mất tín nhiệm, thì thứ duy nhất để dân chúng có thể tín nhiệm chính là đồng tiền có chủ quyền khống chế nhà nước toàn lực. Nói một cách khác, tất cả mọi hệ thống đều tập trung một cách đầy rủi ro vào hệ thống tiền tệ và tín dụng. Nhưng một đất nước như vậy sẽ không thể vượt qua nổi một trận lạm phát hoặc giảm phát, bởi vì người dân một khi đã phát hiện thấy đồng tiền cũng không đáng tin cậy, thì độ tín nhiệm giữa nhà nước với xã hội sẽ hoàn toàn bị đổ vỡ, các lực lượng khác nhau sẽ phải dùng đến bạo lực. Nhìn từ góc độ lịch sử và quốc gia, điều này không phải là chuyện “Ngàn lẻ một đêm”, bởi vì bên trong hệ thống kinh tế vốn cực kỳ thiếu cân đối của Trung Quốc đã ẩn chứa một sự rủi ro tiền tệ như vậy. Có nghĩa là, điều khiển vật giá đã không còn là một nhiệm vụ kinh tế nữa, mà là nhiệm vụ chính trị.
2. Độ tín nhiệm giữa các chủ thể lợi ích của thị trường
Độ tín nhiệm giữa các chủ thể lợi ích của thị trường là đề tài được xã hội chúng ta bàn luận nhiều nhất. Lấy chuyện “sữa nhiễm độc” làm ví dụ, hiện Trung Quốc năm nào cũng có đến hàng mấy vụ sự cố về an toàn thực phẩm dược phẩm, rồi chuyện “gian thương vô lương tâm” dường như càng triệt thì lại càng nổi lên, rất khó phòng ngừa. Thế là đã xuất hiện hiện tượng khôi hài là một mặt tiêu dùng trong nước không đủ, nhưng mặt khác tầng lớp trung lưu lại “ra nước ngoài vơ vét hàng hóa”. Ngoài ra, còn có vô số những gian lận thương mại, gian lận tín dụng, bẫy việc làm và các tổ chức MLM[iii] , bất luận chính phủ có ra sức kiểm tra xử lý ra sao, thì dường như cũng mãi mãi rơi vào trạng thái không thể triệt được tận gốc.
Nếu nói sự mất tín nhiệm giữa chính phủ với dân chúng chủ yếu là khởi nguồn từ việc quyền lực thiếu sự cân bằng trong ngoài hữu hiệu, thì căn nguyên trực tiếp làm thiếu mất độ tín nhiệm trong phương diện kinh doanh chính là sự bất đối xứng về thông tin và thiếu vắng sự giám sát quản lý. Tính bất đối xứng về thông tin là sản phẩm tất yếu của bất cứ xã hội truyền thống chuyển đổi hình thái xã hội từ nông nghiệp sang kinh doanh nào. Ở một đất nước đã trải qua sự thử thách của hiện đại hóa, vấn đề xã hội mang tính kết cấu này đã thôi thúc sinh ra các tổ chức môi giới lớn mạnh và các quy phạm pháp luật phức tạp. Trung Quốc cũng không là ngoại lệ. Nhưng vấn đề độ tín nhiệm của thị trường Trung Quốc cũng mang tính đặc thù tự thân, điều này cần bắt tay vào phân tích từ cơ chế ưu đãi xã hội.
Như ở trên đã nói, sự lan tràn rất nhiều hành vi gian lận và các hành vi mưu lợi phi pháp khác của Trung Quốc thực sự được tạo nên bởi sự độc quyền kinh tế và tiền tệ “lợi ra từ một lỗ”. Chính bởi vì động cơ mưu lợi cá nhân trong nền kinh tế xã hội Trung Quốc hết sức mạnh, nhưng lại thiếu mất kênh mưu lợi hợp pháp. Các cá thể bất luận kiếm được tài sản bằng cách chăm chỉ tiết kiệm (thiếu vốn tài chính), hay bằng các phát minh sáng chế (thiếu sự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ), thì giá thành cũng đều tương đối cao. Trái lại, nếu bằng cách chuyển giao tài sản, độc quyền thị trường, trốn thuế, lừa đảo hoặc bằng hình thức cướp giật trá hình, thì lại thường được lợi. Nếu có được sự bảo hộ của quyền lực, thì lại càng được lợi hơn. Điều này mang tính kế tục cao độ với hành vi lừa đảo của Trung Quốc truyền thống.
Logic của sự thiếu vắng giám sát quản lý cũng gần như thế. Khác với xã hội Phương Tây dựa vào các tổ chức xã hội, vào hệ thống tư pháp và mô hình phân công các cơ quan giám sát quản lý trong chính phủ, quyền giám sát quản lý của Trung Quốc chủ yếu “tập trung” rải rác vào một hoặc một vài cơ quan chức năng của chính phủ. Dưới sự điều khiển của “chiếc gậy chỉ huy lợi ích”, những cơ quan giám sát quản lý này sẽ lựa chọn ra sao giữa “gia tăng thu nhập quản lý” với “loại bỏ mọi thứ bất hợp pháp” là điều rất dễ nhận thấy. Huống hồ nếu truy tra đến cùng thì rất có thể sẽ làm tổn hại đến lợi ích của các cơ quan ngang cấp khác, sẽ làm liên lụy đến giá thành hành chính sộp, thậm chí là cả rủi ro chính trị. Khi chính sự giám sát quản lý biến thành một loại nguồn lợi ích độc quyền, thì hệ quả của “giám sát quản lý yếu ớt” và “càng kiểm tra càng nhiều” là ra sao không cần nói cũng đã biết.
3. Độ tín nhiệm giữa các thành viên xã hội nói chung
Vấn đề độ tín nhiệm giữa các thành viên xã hội nói chung đề cập đến diện cực rộng, tức bao gồm độ tín nhiệm giữa những người thuộc các tầng lớp khác nhau và những người thuộc các khu vực khác nhau, còn bao gồm cả độ tín nhiệm “người nội bộ” giữa các thành viên trong gia đình, công ty, đơn vị và tổ chức xã hội. Sự chuyển đổi hình thái xã hội của Trung Quốc hiện nay, tương tự với sự chuyển đổi hình thái từ xã hội lễ tục sang xã hội pháp trị của Phương Tây thời hậu hiện đại trên rất nhiều phương diện, đặt ra những yêu cầu mới đối với độ tín nhiệm. Mà một biểu hiện cơ bản chính là phương thức độ tín nhiệm truyền thống được thiết lập trên cơ sở thân tộc và địa lý đã bị suy vi ở rất nhiều mặt, nhưng lại chưa tìm được thứ thay thế phù hợp.
Mâu thuẫn giữa “người nhập cư” với “người nguyên trú” nảy sinh ở rất nhiều thành phố lớn như Bắc Kinh… đã thuyết minh một cách đầy đủ rằng, phương thức thiết lập độ tín nhiệm chủ yếu dựa vào mạng lưới phi chính thức “người quen” như trước đây đã khó lòng thỏa mãn được nhu cầu của xã hội “người nhập cư”. Cùng với việc hàng ngàn hàng vạn lao động di cư từ nông thôn và sinh viên tràn vào các thành phố vùng duyên hải, đã không thể còn dựa vào mối quan hệ người quen để giải quyết chuyện việc làm, có được tư cách người thành phố và có được các hàng hóa công cộng một cách dễ dàng trong hoàn cảnh mới. Ngược lại, người nguyên trú trong các thành phố lớn chỉ cần dựa vào danh tính bản địa của mình là có thể được hưởng lợi từ trong sự phát triển kinh tế mà người di cư đã thúc đẩy, hơn nữa còn tiếp tục được hưởng những tiện ích ngoại ngạch xã hội người quen. Chính những chính sách đãi ngộ và xã hội từ lãnh đạo thành phố chênh lệch nhau giữa người nhập cư với người nguyên trú đã khoét sâu thêm mối mâu thuẫn này.
Mặt khác, vấn đề độ tín nhiệm trong các nhóm nghề nghiệp cũng ngày càng dẫn đến sự quan tâm rộng rãi của xã hội. Theo điều tra xã hội 10 năm gần đây, tiếng nói xã hội và độ tín nhiệm nghề nghiệp của bác sĩ, giáo viên, quan chức chính phủ và người làm luật pháp bị giảm sút nhanh chóng nhất. Một cách tương tự, những lĩnh vực này không chỉ là ngành nghề có tiếng nói xã hội tối cao ở Phương Tây hiện đại, quả thực còn là những lĩnh vực có quy tắc ngầm và đạo đức nghề nghiệp bị suy giảm hết sức nghiêm trọng.
Nguy cơ về độ tín nhiệm thậm chí đã phát triển ra cả giữa những người thông thường. “Vụ án Bành Vũ” đã thể hiện tình thế khốn cùng mà nghĩa vụ đạo đức cơ bản nhất phải đối mặt: Sự thiện lương do một phía chủ động đã bị phía bên kia lợi dụng. Mà ảnh hưởng từ điều này là sau đó đã xảy ra nhiều thảm kịch người già ngã không có ai nâng đến nỗi bị tử vong. Điều khiến cho người ta phải buông tiếng thở dài hơn là thái độ “cắp xác vòi tiền” của chủ tàu Kinh Châu ở Hồ Bắc đối với người dũng cảm làm việc nghĩa: Chỉ cần tiền chưa chồng ra là không được giao xác, lại còn cương quyết không cho nợ. Ví dụ này đủ để cho thấy sự khốn cùng đạo đức mà độ tín nhiệm xã hội cơ bản nhất hiện nay phải đối mặt: Muốn duy trì được độ tín nhiệm cơ bản nhất, thì đòi hỏi cả hai bên phải tuân thủ một đường đáy đạo đức nhất định, nhưng nếu như một bên cho rằng đường đáy đạo đức cơ bản là không có giá trị khi đem so với lợi ích kinh tế tiền tệ hóa, thì cơ sở cho độ tín nhiệm giữa những người lạ cũng tuyệt nhiên sẽ là không có.
Nếu như nói giữa nguy cơ về độ tín nhiệm phổ biến trong xã hội và nguy cơ về độ tín nhiệm trong phương diện chính trị kinh tế có điểm chung gì đó, thì tiền tệ hóa chắc chắn là một biến số quan trọng. Với tư cách là một dạng khác của quyền lực, tác động của tiền tệ đối với sự tương đối hóa giá trị và làm phân rã đạo đức là điều hiển nhiên dễ thấy. Khác với Phương Tây và Nhật Bản thời công nghiệp hóa, Trung Quốc không có lực lượng tôn giáo mạnh mẽ để làm chỗ dựa cuối cùng cho đạo đức, vì thế mà tiền tệ hóa lại càng nổi rõ đối với chức năng làm tan rã đạo đức và giá trị truyền thống. Tính đặc thù của Trung Quốc nằm rõ hơn ở chỗ đồng thời với việc mọi phương diện trong xã hội đều đang tiền tệ hóa, thể chế tín dụng đang điều khiển tiền tệ hóa lại chưa được xã hội hóa, mà là đang tiếp tục chịu sự điều khiển trực tiếp của quyền lực.
Thiết lập độ tín nhiệm xã hội theo hình thức mới
Tái lập lại độ tín nhiệm xã hội là nhiệm vụ quan trọng trong bước xây dựng xã hội tiếp theo của Trung Quốc. Giống với rất nhiều nhiệm vụ khác, việc thiết lập độ tín nhiệm xã hội là một công trình hệ thống, đòi hỏi phải có sự cải cách chỉnh thể nền kinh tế xã hội.
Sự cải cách cơ bản nhất nằm ở phương diện kinh tế. Bao gồm giảm thiểu sự độc quyền về kinh tế, gia tăng sự tham dự của xã hội vào các chính sách kinh tế của nhà nước, ủng hộ việc xã hội hóa ngành ngân hàng và tiền tệ, cho phép các doanh nghiệp tư nhân có được nhiều không gian tự do hơn, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tư nhân, nhất là quyền sở hữu trí tuệ của trí thức, từ đó mà thay đổi một cách căn bản địa vị khó xử của xã hội trong sản xuất tín dụng. Trong điều kiện không gian hoạt động xã hội được mở rộng hơn, nhà nước cũng sẽ có thể đưa vào được hệ thống tư pháp độc lập hơn và đưa các tổ chức xã hội tham gia vào giám sát quản lý kinh tế.. Như vậy sẽ giúp ích cho việc hình thành cơ chế độ tín nhiệm giữa các chủ thể thị trường. Thực ra, sự thành công của các sàn kinh doanh mạng như trang mạng Đào Bảo… đã trở thành mô hình điển hình về việc thiết lập độ tín nhiệm kinh doanh bằng cách các thành viên xã hội được tham dự một cách bình đẳng.
Ở lĩnh vực chính trị, xác định lại khế ước giữa nhà nước với xã hội là con đường tất yếu để tăng cường độ tín nhiệm chính trị giữa nhà nước với xã hội. Nhà nước cần xây dựng một phương án cung cấp hàng hóa công cộng mới, bao gồm nhà ở, y tế, dưỡng lão và giáo dục, trên cơ sở có sự tham dự của xã hội, theo tinh thần tham dự một cách công bằng, xác định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của ba bên gia đình, xã hội và chính phủ trong đó, đồng thời được bảo vệ bằng hình thức pháp luật. Ngoài ra, trong phương diện tổ chức xã hội, nhà nước cần từng bước nới lỏng sự độc quyền đối với các tổ chức xã hội, trao quyền được biểu đạt lợi ích và tham dự vào chính trị cho các bên liên quan (stake holders) ở các tầng lớp xã hội.
Với bất cứ một xã hội hiện đại nào, độ tín nhiệm xã hội cũng không phải là hàng hóa công cộng, mà là một loại trật tự mà bất cứ một xã hội mở nào cũng đều hình thành một cách tự phát, còn nhà nước chỉ là một thành viên tham dự thứ yếu. Nguy cơ về độ tín nhiệm của xã hội Trung Quốc hiện nay, ở một chừng mực rất lớn, là bắt nguồn từ một loại trật tự xã hội “bản vị tiền tệ”. Loại trật tự này đã làm chao đảo đường đáy đạo đức của rất nhiều người, đã làm méo mó hệ thống giá trị bình thường, đã làm hủy hoại nền tảng của độ tín nhiệm giữa các bên liên quan trong thị trường và giữa các thành viên trong xã hội. Nhưng trong thực tế, kiện toàn chế độ tín nhiệm (tín dụng) của xã hội cần phối hợp nhịp nhàng với hệ thống tiền tệ vẫn có thể bền vững. Chỉ có thực hiện được “xã hội hóa” độ tín nhiệm (tín dụng) xã hội, bắt tiền tệ và quyền lực phải phục tùng mọi nhu cầu của xã hội, thì tự thân xã hội mới có thể thoát khỏi được nguy cơ về độ tín nhiệm.
Người dịch: Quốc Thanh
[i] Tiếng Pháp: “De l’esprit des lois”; tiếng Anh: “The Spirit of the Laws” -ND
[ii] “Biển” ở đây có nghĩa là “lừa gạt”, “lừa dối”. Bộ sách gồm 4 quyển, tập hợp những câu chuyện về thuật lừa gạt và cách phòng lừa gạt trong giới giang hồ -ND.
[iii] Tổ chức kinh doanh theo mạng, kinh doanh đa cấp –ND.
* Theo http://finance.qq.com/a/20120317/001240.htm: Trịnh Vĩnh Niên, Viện trưởng Viện nghiên cứu Đông Á, National University of Singapore.