Những góc nhìn Văn hoá

Hành trình Truyện Kiều từ thế kỷ XIX đến thế kỷ XXI [II]

2. Nguồn gốc cốt truyện và vấn đề nghiên cứu so sánh truyện Kiều với Kim Vân Kiều truyện:

Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều trên cơ sở vay mượn cốt truyện của một tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc ra đời khoảng cuối Minh đầu Thanh- Kim Vân Kiều truyện. Nhưng các nhà nghiên cứu đã khẳng định hết sức đúng đắn đây không phải là hiện tượng dịch văn học mà là sự sáng tạo mới, đây là hiện tượng hoán cốt đoạt thai. Mặt khác, lại cần nói rằng giao lưu văn học qua lại giữa các dân tộc là một điều bình thường xưa nay. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Riêng đối với tiếng Hán, theo sưu tầm của học giả Trần ích Nguyên, đã có tổng cộng 7 bản dịch ngược Truyện Kiều ra thơ chữ Hán do cả người Việt và người Hoa thực hiện, bản sớm nhất là Vương Kim diễn tự truyện của Nguyễn Khôi, được chép lại năm 1915; bản muộn nhất là  Hán dịch Kim Vân Kiều Nam âm thi tập  của Trương Cam Vũ (một thầy thuốc người Hoa ở Chợ Lớn) ra đời năm 1961[1]. Năm 2006, tiếp tục xuất hiện bản dịch Truyện Kiều ra chữ Hán với tên gọi Kim Vân Kiều truyện của La Trường Sơn[2], nâng tổng số bản dịch ra Hán văn lên 8 bản.

Kim Vân Kiều truyện là cuốn tiểu thuyết chữ Hán gồm hai mươi hồi, do một tác giả không rõ tên thật, bút hiệu là “Thanh Tâm Tài Nhân” sáng tác trong khoảng thời gian cuối thế kỷ XVII- đầu thế kỷ XVIII [3]

Kim Vân Kiều truyện, cũng như nhiều tiểu thuyết truyền thống khác Trung Quốc, được sáng tác trên nền tảng một câu chuyện có thực về Vương Thúy Kiều. Câu chuyện này đã được chép lại dưới dạng lịch sử, đã được các nhà viết truyện ký và hý khúc khai thác qua hàng trăm năm. Thanh Tâm Tài Nhân đã kế thừa và phát triển cốt truyện  để hư cấu thành một tác phẩm có qui mô bề thế và có ảnh hưởng nhất định đối với văn học Trung Quốc, nhất là đối với văn học các nước trong khu vực văn hóa chữ Hán.

Trong công trình khảo cứu có qui mô nhất cho đến nay về quá trình diễn biến của câu chuyện Vương Thúy Kiều, Trần ích Nguyên cho biết có hai nguồn dẫn đến Kim Vân Kiều truyện là nguồn sử liệu và nguồn tiểu thuyết bút ký, hý khúc. Các truyền thuyết lịch sử đều nói Vương Thúy Kiều là người đã sống với Từ Hải, trùm cướp miền Chiết Giang năm thứ 35 niên hiệu Gia Tĩnh (1556) ví dụ như sách Nụy biến sự lược do Thái Cửu Đức soạn năm Gia Tĩnh thứ 37 (1558) đã nhắc đến hai “ái cơ” của Từ Hải mà không cho biết tên cụ thể. Nhưng chỉ đến Mao Khôn (mạc khách của Hồ Tôn Hiến, đã chứng kiến việc đánh dẹp Từ Hải) với sách Từ Hải bản mạt ( còn gọi là Kỷ tiễu trừ Từ Hải bản mạt) mới nói rõ tên hai cô hầu- ca kỹ ( chứ không gọi là ái cơ) là Vương Thúy Kiều và Lục Khu. Ngoài nguồn sử liệu, sau năm Gia Tĩnh đời Minh, các tiểu thuyết, bút ký, hý khúc  cũng tăng dần lên. Mở đầu là Vương Kiều Nhi truyện của Từ Học Mô (1552- 1593) dài gần 800 chữ. Có thêm 3 tiểu thuyết, truyện ký tiếp theo tác phẩm này đã ra đời trước Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Cũng theo Trần ích Nguyên, đã có 3 tác phẩm hý khúc và nhiều vở truyền kỳ khác về Vương Thúy Kiều. Vũ Đình Trác cũng cung cấp thông tin bổ sung về các nguồn tài liệu khác nhau như chính sử, dã sử, văn tuyển viết về câu chuyện Vương Thúy Kiều[4], song cũng chưa được hệ thống đầy đủ như Trần Ích Nguyên. Nhìn tổng thể, “từ truyền thuyết trong tư liệu lịch sử đến tiểu thuyết, hý khúc, chúng ta thấy việc hình thành nên truyện Vương Thúy Kiều chủ yếu bắt đầu từ truyền thuyết dân gian, các tác gia văn nhân dựa vào truyền thuyết dân gian có thể chứng thực bằng tư liệu lịch sử mà ghi chép lại, đồng thời có cải biên và sáng tạo thêm, thế là sản sinh ra một lượng lớn tác phẩm tiểu thuyết và hý khúc, khiến cho hình tượng nhân vật Vương Thúy Kiều không ngừng được đầy đặn thêm” [5] . Nhìn vào tình hình khai thác câu chuyện Vương Thúy Kiều của các văn nhân Trung Quốc, dễ thấy đây là một câu chuyện hấp dẫn, thu hút sự quan tâm của nhiều người.

Một số tài liệu nghiên cứu của Việt Nam viết rằng Kim Vân Kiều truyện là một tác phẩm bình thường trong văn học Trung Quốc. Nhận xét đó không thật chính xác. Kim Vân Kiều truyện là đỉnh cao của sự phát triển câu chuyện Vương Thúy Kiều, có ảnh hưởng không nhỏ đến nhiều hiện tượng văn học Trung Quốc. Viết về  nghệ thuật của Kim Vân Kiều truyện , Trần ích Nguyên cho biết : “Toàn bộ cuốn truyện thông qua hai lần vào nhà chứa, ba lần hoàn lương, mười mấy năm khổ nạn dày vò, đã hết sức tinh tế để cho Vương Thúy Kiều theo những biến đổi của đời sống hiện thực mà không ngừng làm phong phú và phát triển tính cách cực kỳ nhẫn nại của mình, hình thành trọn vẹn một hình tượng nữ tính hơn hẳn người cùng lứa, đả phá căn bệnh chung của tiểu thuyết thông tục là loại hình hóa nhân vật... Nghệ thuật miêu tả cao minh nhường ấy, không nghi ngờ gì nữa, là sự đột phá quan trọng trong lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, vì thế truyện có ảnh hưởng không nhỏ. Ngoài Thu Hổ Khâu, Hổ phách chủy đầu đời Thanh ra, truyền kỳ Song Thúy viên của Hạ Bỉnh Hoành giữa đời Thanh cũng là được cải biên từ Kim Vân Kiều truyện. Thậm chí một phần nội dung của Lục dã tiên tung của Lý Bách Xuyên, Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần cũng có thể được Kim Vân Kiều truyện gợi mở”[6]. Nhận định này tất nhiên cần được cụ thể hóa hơn nữa, rất có thể là gợi ý cho những nghiên cứu so sánh tương lai.

Kim Vân Kiều truyện có ảnh hưởng khá rộng ở nước ngoài. Theo ghi chép về số sách Trung Quốc chở bằng thuyền sang Nhật Bản thì năm 1754, tiểu thuyết này đã có mặt ở Nhật Bản, đến năm 1763, Tây Điền Duy Tắc dịch sang tiếng Nhật cho xuất bản dưới tên Thông tục Kim Kiều truyện, sau đó Khúc Đình Mã Cầm (1767-1848) lại cải biên bản dịch thành tiểu thuyết Nhật Bản Phong tục kim ngư truyện. Có nhiều tác phẩm văn học Nhật Bản trong khoảng từ 1789- 1817 đã chịu ảnh hưởng rõ rệt của Kim Vân Kiều truyện [7] . Nhà Đông phương học người Nga B.L. Riftin có một thông tin thú vị: “ở đầu thế kỷ mười chín, nhà Trung Quốc học và Mãn Châu học A. Vladykin (1761-1811) đã dịch tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện từ bản tiếng Mãn Châu (sang tiếng Nga-TNT); nhưng không may là nó vẫn chưa được xuất bản” [8].  Ông cho biết thêm là bản dịch này hiện đang được lưu giữ tại Viện Đông phương học thành phố Saint- Petersburg. Vậy là đến thế kỷ XIX, câu chuyện về Vương Thúy Kiều đã xuất hiện trong các văn bản tiếng Hán, tiếng Nhật, tiếng Mãn Châu, tiếng Nga và tiếng Việt. Kim Vân Kiều truyện  không đến nỗi tầm thường như một số người ở nước ta vẫn nghĩ.

                                                            *****

Khẳng định sự sáng tạo của Nguyễn Du khi mượn cốt truyện Kim Vân Kiều truyện là điều đã được giới nghiên cứu Việt Nam quan tâm tìm hiểu từ khá lâu. Muốn hay không, việc so sánh hai tác phẩm đã được đặt ra và thực hiện ở các mức độ khác nhau.  Nhìn lại lịch sử nghiên cứu so sánh này dẫu sơ lược, là rất hữu ích vì từ điểm nhìn so sánh, ta có điều kiện hiểu biết sâu hơn về Truyện Kiều.

Người thuộc lớp đầu tiên đưa ra những quan sát so sánh Truyện Kiều với văn học Trung Quốc (chứ không riêng gì Kim Vân Kiều ttruyện) có lẽ là Phạm Quỳnh. Trong bài diễn thuyết năm 1924 (sau đó đăng trên tạp chí Nam Phong, số 86/ 1924), ông nói : “Cứ thực thì Truyện Kiều dẫu là đầm thấm cái tinh thần của văn hóa Tàu, dẫu là dung hòa những tài liệu của văn chương Tàu, mà có một cái đặc sắc văn chương Tàu không có. Cái đặc sắc ấy là sự “kết cấu”. Nhà văn, nhà thơ Tàu, ngoài những bài thơ văn nho nhỏ ngăn ngắn, phàm làm sách chỉ biết cách biên tập, không sánh kết cấu. Biên tập là cóp nhặt mà đặt liền lại; kết cấu là thu xếp mà gây dựng lên, thế nào cho thành một cái toàn bức các bộ phận điều hòa thích hợp với nhau, không thêm bớt được chút nào. Truyện Kiều là một cái toàn bức như thế”.  Phạm Quỳnh đã nêu ra một vấn đề quan trọng nhưng rõ ràng những lời vắn tắt như thế không đủ sức thuyết phục. Giai đoạn đầu tiên trong nghiên cứu so sánh thường chỉ dừng lại ở những nhận xét đại loại như vậy.

Người đầu tiên có ý thức so sánh khoa học hai tác phẩm chính là Đào Duy Anh. Trong công trình nghiên cứu Khảo luận về Kim Vân Kiều xuất bản năm 1943, ông đã so sánh khá chi tiết cốt truyện để khẳng định “Nguyễn Du giữ nguyên sự tích của tiểu thuyết Tàu, hầu như không thêm bớt chút gì” và đưa ra nhận xét về kết cấu na ná như của Phạm Quỳnh “song nguyên văn thì tự thuật rườm rà, tỷ mỉ, kết cấu theo một trật tự dễ dàng đơn giản, mà Nguyễn Du  thì châm chước và sắp đặt lại thành một tổ chức có giàn giã chặt chịa, có mạch lạc khít khao”[9] . Nhưng Đào Duy Anh  đã tiến xa khi so sánh tỉ mỉ để chỉ ra những khác biệt quan trọng giữa hai tác phẩm. Ông viết : “Ta phải nhận rằng Nguyễn Du đã hoán cốt đoạt thai[10] Kim Vân Kiều truyện , mà tạo thành một tác phẩm hoàn toàn mới. Nguyên văn thì tự thuật rất tỷ mỷ mà khô khan, chú ý đến những chi tiết không quan hệ và hay tả thực những cảnh tượng dễ kích động tai mắt người ta. Nguyễn Du thì tự sự rất vắn tắt gọn gàng, chỉ kể những việc quan trọng, mà vừa tự thuật vừa nghị luận, khiến văn có hứng thú luôn. Phàm những đoạn mô tả duy thực thô bỉ, những đoạn thuyết lý dông dài, ông đều bỏ cả, lại chú ý đặc biệt về sự tả tình và tả cảnh... Về tính tình của các nhân vật, thì những người  trong Kim Vân Kiều truyện vốn là những người gần với sự thực, những người ta có thể tin rằng đã từng sống ở nước Tàu đồng thời với Kim, Vân, Kiều. Nguyễn Du tuy không tả thực, nhưng lại là một tay tâm lý học sành, nên đã biến hóa những người ấy thành những người không riêng gì của nước Tàu bấy giờ mà chung cả mọi đời mọi xứ. Ta có thể nói rằng Nguyễn Du đã lý tưởng hóa các nhân vật thành những nhân vật điển hình vậy”[11]. Những nhận xét khái quát trên đây đã nói được bản chất của sáng tạo Nguyễn Du nên ta sẽ bắt gặp tinh thần của những nhận xét đó trong những công trình nghiên cứu so sánh hai tác phẩm của các nhà nghiên cứu đi sau- chúng tôi không nói là các công trình sau chịu ảnh hưởng. Chẳng hạn, ta có thể bắt gặp nhận định khá tương đồng và có phần gay gắt, của Hoài Thanh năm 1949 :“Những con người của Thanh Tâm Tài Nhân chỉ là những bộ xương. Nguyễn Du đã biến những bộ xơng thành những con người thực. Nguyễn Du đã biến thành yêu, ghét, giận , hờn, cái điều ở Thanh Tâm Tài Nhân chỉ là ý yêu, ý ghét, ý giận, ý hờn. Nguyễn Du đã truyền sức sống vào trong bức vẽ” [12]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc cũng có những nhận xét tương đồng với Đào Duy Anh: “Nguyễn Du đã bỏ đi những chi tiết kể lể dài dòng, những đoạn miêu tả có tính chất tự nhiên chủ nghĩa, nhiều khi thô bỉ, có hại đối với mỹ cảm người đọc, và không nhằm phục vụ cho chủ đề của tác phẩm. Đồng thời nhà thơ thêm vào đó rất nhiều đoạn tả cảnh, tả tình nhằm nêu rõ tính cách và tâm trạng nhân vật...Ngay cả khi Nguyễn Du giữ lại những tình tiết cũ của Thanh Tâm Tài Nhân, thì đó cũng không phải là giữ lại nguyên vẹn, không có sáng tạo. Cả trong những trường hợp này, Nguyễn Du đều có cảm lại, nhận thức lại, sắp xếp lại, nghĩa là Nguyễn Du chỉ giữ lại những gì phù hợp với những điều trông thấy, từng trải của mình và thể hiện nó bằng một ngòi bút tràn đầy cảm xúc của một nhà thơ chân chính” [13]. Bước tiến của Nguyễn Lộc là ông đã phân tích chi tiết sáng tạo của Nguyễn Du trong việc thể hiện các nhân vật, tiêu biểu là Thúy Kiều.

Nhìn chung, các công trình so sánh ở giai đoạn nghiên cứu đầu tiên đều triển khai theo cách đối chiếu giữa hai tác phẩm để tính đếm những khác biệt cụ thể và xác định lý do vì sao có sự khác biệt ấy. Các nghiên cứu loại này  thường tiến hành so sánh nhân vật, cốt truyện, cảm hứng chủ đạo (triết lý) của hai tác phẩm. Cả ở trong nước cũng như ở hải ngoại, các nhà nghiên cứu Việt Nam đều cố gắng tìm ra sự khác biệt để nêu bật tính ưu việt hơn hẳn của Truyện Kiều đối với Kim Vân Kiều truyện.  Vũ Đình Trác với luận án Tiến sĩ bảo vệ tại Nhật Bản năm 1984. Trong công trình này, ông đã “đếm” được 17 điểm khác biệt có thể cho thấy tư tưởng nhân bản của Nguyễn Du đã chi phối đến cách xử lý những tình tiết cụ thể. Những nhận xét của ông có mới, có cũ. Ví dụ, về việc Nguyễn Du tránh phơi bày lộ liễu cảnh ăn chơi đàng điếm chốn thanh lâu, Nguyễn Du tận tả những cung đàn bạc mệnh...là những phát hiện đã được nhiều nhà nghiên cứu trong nước đã nói đến. Song, có một số điểm mới như : trong cuộc đối thoại đầu tiên ở vườn Thúy, “nguyên tác đã để Thúy Kiều trở thành chủ động, nói năng huyên thuyên và tống tình Kim Trọng một cách khiêu khích. Nguyễn Du trái lại, trả Thúy Kiều về với bản tính thanh cao của giai nhân tài trí, để cho Kim trọng trở thành chủ động, theo quan niệm Dương chinh phục Âm”. Hoặc “những cảnh báo oán của Thúy Kiều trong truyện Hán văn có vẻ nhuốm màu bạo dâm (sadism) biểu lộ hết ác tâm của kẻ báo thù và đường lối dã man của xã hội loài người. Dưới ngòi bút Nguyễn Du, những cảnh đó cần phải có tối thiểu, để trọn ý nghĩa nhân quả và tâm lý thường tình của con người, nhưng ông muốn tránh mọi cử chỉ và hành động vô nhân đạo” [14] . ở trong nước, các so sánh tương tự rất phong phú. Tiêu biểu cho cách đi vào so sánh chi tiết có thể kể đến bài viết của Lê Xuân Lít “Truyện Kiều- Kim Vân Kiều truyện nhìn từ góc độ chi tiết”. Trong bài viết này, ông đã đối chiếu tỉ mỉ một số điểm khác biệt giữa hai tác phẩm như tại sao ở Truyện Kiều, Vương ông ( bố của Kiều) chỉ có họ mà không có tên (nguyên truyện có tên) ? Vương bà là ai? Thúy Vân có thạo thơ phú ? Thúy Kiều quê ở đâu ? [15] v.v...Một công trình mang tính đối chiếu tỉ mỉ đến triệt để hơn cả là cuốn Truyện Kiều đối chiếu của Phạm Đan Quế, trong đó so sánh hai tác phẩm theo từng hồi. Nhưng mục tiêu của sách này vẫn thống nhất với các công trình nghiên cứu so sánh đã có, tìm xem Nguyễn Du thêm bớt và xử lý khác cốt truyện của nguyên truyện ra sao. Phạm Đan Quế viết: “Về cốt truyện, hệ thống nhân vật, thứ tự trình bày các sự kiện, những vấn đề luân lý, triết lý và đôi khi cả các chi tiết, Nguyễn Du đã dựa rất nhiều vào bản gốc của Thanh Tâm Tài Tử. Tuy nhiên, ông đã chỉ chọn những sự việc chính, lược bỏ nhiều những đoạn rườm rà và có khi tóm tắt trong một số ít câu cả một đoạn dài trong truyện. Và sự khác nhau cơ bản là ở chỗ: các sự kiện trong Kim Vân Kiều là sự kiện chắp nối còn trong Truyện Kiều là sự kiện hữu cơ. Nguyễn Du đã đổi mới Kim Vân Kiều bằng cách thay đổi các quan hệ số lượng giữa các bộ phận như bạn đọc sẽ thấy trong bản so sánh từng hồi tiếp theo đây và nhất là khi đi vào từng chi tiết, từng đoạn văn cụ thể” [16]. Những bảng thống kê số liệu rất chi tiết giúp cho các nhà nghiên cứu so sánh rút ngắn công việc của mình, song thực ra các nhận định dựa trên phương pháp so sánh chi tiết của hai tác phẩm mang tính sự kiện này không có gì thật sự mới mẻ so với các nghiên cứu từ Đào Duy Anh.

Trần Đình Sử  đã thấy rằng không thể thỏa mãn với cách so sánh hai tác phẩm, dẫu là bám sát theo từng chi tiết như vậy. Cần có một cách so sánh trên bình diện rộng hơn, có tính hệ thống hơn. Đây chính là ý thức đổi mới phương pháp so sánh, có thể đưa việc so sánh hai tác phẩm sang giai đoạn cao hơn, hoàn chỉnh hơn. Ông viết : “Nghiên cứu so sánh Truyện Kiều hôm nay không thể đóng khung trong phạm vi so sánh tay đôi giữa hai tác phẩm Truyện Kiều Kim Vân Kiều truyện, bởi bản thân sự vay mượn và sáng tạo của Nguyễn Du nằm trong quĩ đạo của các nền văn hóa bao bọc xung quanh, Truyện Kiều là sản phẩm của hành vi sáng tạo văn hóa có bối cảnh rộng lớn (...) So sánh Truyện Kiều và văn hóa Trung Quốc đang là một đề tài để ngỏ cho những tìm tòi mới trong giao lưu tinh thần của hai dân tộc qua một kiệt tác” [17].  Ông nêu một ví dụ: chẳng hạn như cần phân tích sự hiện diện của Phật giáo và Nho giáo trong Truyện Kiều.  Về tư tưởng Nho giáo, Trần Đình Sử cho là ở đây phải nghĩ đến ảnh hưởng của Tâm học của Lục Cửu Uyên, Vương Dương Minh đời Minh. Một hướng so sánh mới mà Trần Đình Sử nên lên là so sánh hai tác phẩm về phương diện thể loại. “Trong bối cảnh ảnh hưởng của văn học Trung Quốc, Truyện Kiều là một sự lựa chọn về thể loại, và không thể không đề cập tới mối quan hệ giữa Truyện Kiều và tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc(...). Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân xét về nhiều mặt đều gần với nhóm tiểu thuyết tài tử giai nhân, nhưng lại mang thêm yếu tố thế tình, phê phán xã hội, nên có nét riêng. Về mặt lý tưởng hóa, đề cao phụ nữ, Truyện Kiều  đi theo khuynh hướng của tiểu thuyết tài tử giai nhân. Về mặt thẩm mỹ, Truyện Kiều có khuynh hướng bi kịch nhiều hơn các tiểu thuyết tài tử giai nhân tiêu biểu. Về thể loại Truyện Kiều khác với tiểu thuyết chương hồi, mà thuộc vào loại truyện thơ Nôm, vốn có trong văn học Việt Nam, và Đông Nam á. Về nhân vật, Truyện Kiều chú trọng miêu tả tâm lý hơn. Về ngôn ngữ, Nguyễn Du dùng nhiều lời độc thoại nội tâm hơn” [18]

Những đề nghị của Trần Đình Sử có ý nghĩa quan trọng đối với việc tìm phương pháp so sánh mới giữa Truyện Kiều Kim Vân Kiều truyện. Một trong những hạn chế của các nghiên cứu so sánh trước đây có nguyên nhân là ít tính đến sự khác biệt thể loại giữa hai tác phẩm. Nhiều học giả Việt Nam khen Nguyễn Du đã lược bớt những  đoạn tự sự của nguyên truyện, cho rằng nguyên truyện kể lể dông dài mà không thấy rằng sự sống còn của văn xuôi tự sự là chi tiết. Ngược lại, Đổng Văn Thành, một nhà nghiên cứu Trung Quốc lại phê phán Nguyễn Du có lập trường chính thống, hạ thấp Từ Hải vì  đã lược tả uy thế quân sự của Từ Hải  vốn được nguyên truyện tả tỉ mỉ qua trận đánh giữa Từ Hải với quan quân triều đình, với bút pháp khoa trương. Nhưng ông quên mất một điều cơ bản là thơ không thể nào tả chi tiết tỉ mỉ như văn xuôi được. Đổng Văn Thành cũng phê Nguyễn Du hay khoe kiến thức văn học uyên bác nhưng mắc sai lầm chồng chất, vận dụng không đúng, chẳng hạn như miêu tả tiếng đàn của Kiều gảy cho Kim Trọng nghe trong buổi gặp gỡ đầu tiên, Nguyễn Du đã kể tên bốn khúc nhạc cổ điển  trong đó không một khúc nào biểu hiện nỗi lòng người thiếu nữ đang yêu [19]. Nhưng ông cũng quên mất rằng nói như vậy là giả định tiếng đàn của Kiều được tả thực, nhưng trong ngôn ngữ thơ, Nguyễn Du miêu tả theo bút pháp tượng trưng, cốt dựng lên tiếng đàn bạc mệnh nói chung [20]. Đổng Văn Thành đã xuất phát từ góc độ thể loại văn xuôi tự sự để nhìn Truyện Kiều tuy khác với góc nhìn từ truyện thơ để xét đoán Kim Vân Kiều truyện của một số nhà nghiên cứu Việt Nam nhưng bản chất vấn đề là một. Rõ ràng cần thiết tính đến vai trò của thể loại khi so sánh hai tác phẩm thì mới tránh được nhận xét một chiều. Những bản thống kê so sánh về số lượng câu thơ lục bát hay số trang chữ Hán được dành cho một nội dung nào đó ít có ý nghĩa khoa học là vì vậy.

Thực ra Phan Ngọc chính là nhà nghiên cứu đã áp dụng một phương pháp so sánh mới, so sánh hệ thống, so sánh trên cơ sở tìm phong cách thời đại và phong cách thể loại  của Truyện Kiều chứ không dừng lại ở việc đối chiếu những sự kiện lẻ tẻ. Ông viết : “ Muốn khảo sát Truyện Kiều như một sản phẩm của lao động sản xuất, ta phải đối lập Truyện Kiều thứ nhất, với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, xem Nguyễn Du vay mượn những gì ở tác phẩm này, gạt bỏ những gì, và thêm những gì. ở cả ba mặt này ta đều phải giải thích lý do. Tại sao Nguyễn Du lại vay mượn sự kiện này, gạt bỏ sự kiện kia, thêm vào sự kiện nọ ? Điều này không thể là ngẫu nhiên được, mà là do chỗ Nguyễn Du có một kiểu lựa chọn riêng, không giống kiểu lựa chọn của Thanh Tâm Tài Nhân, và ta phải tìm được lý do giải thích kiểu lựa chọn của tác giả. Thứ hai, trong những điều Nguyễn Du thêm vào, có cái gì là riêng của Nguyễn Du, có cái gì là chung của thời đại ? (...). Thứ ba, qua sự đối lập giữa Truyện Kiều với một bên là Thanh Tâm Tài Nhân và truyền thống văn học Trung Quốc, và một bên là truyền thống văn học thời đại, ta rút ra được những cống hiến độc đáo của Nguyễn Du” [21]. Tuy vẫn nói đến các sự kiện nhưng ông chủ trương xem xét nó trong hệ thống phong cách thể loại và phong cách thời đại. Từ đây, ông chứng minh Kim Vân Kiều truyện không hề xây dựng trên lý thuyết tài mệnh tương đố (tư tưởng chủ đạo của nó là tình và khổ), trái lại,  “khi viết Truyện Kiều , Nguyễn Du đã thay đổi chủ đề tác phẩm, chuyển chủ đề từ tìnhkhổ sang tàimệnh. Ông đã đưa tư tưởng của mình vào để tổ chức lại toàn bộ câu chuyện chứ không vay mượn nó ở Thanh Tâm Tài Nhân”[22] . Phan Ngọc trung thành với thao tác hệ thống, đã một mặt chứng minh tư tưởng tài- mệnh tương đố không phải vay mượn từ văn học Trung Quốc, mặt khác là tư tưởng được gợi ý từ chính hiện thực Việt Nam thế kỷ XVIII, khi có rất nhiều người tài hoa mà bạc mệnh. Nhận xét của ông về căn bản có thể đồng tình. Nhưng khi ông muốn loại trừ hoàn toàn khả năng vay mượn tư tưởng tài mệnh tương đố từ văn học Trung Quốc bằng cách chứng minh rằng đã tìm trong sử sách và tiểu thuyết Trung Quốc mà không thấy ở đâu có trường hợp có thể khẳng định Nguyễn Du vay mượn thì lại gây băn khoăn cho nhiều người [23]. Ngay như việc mở rộng vấn đề chữ tài sang lĩnh vực tài năng nói chung cũng có vấn đề cần thảo luận- tài ở tác phẩm này hay nói chung trong sáng tác Nguyễn Du thường qui tụ về tài văn chương nghệ thuật, về sắc đẹp. Về thể loại, Phan Ngọc đối lập phương pháp tự sự của hai tác phẩm ( ở đây chưa đề cập đến việc ông đối lập nghệ thuật tự sự của Truyện Kiều và truyện Nôm nói chung). Nếu truyền thống tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc kể thành từng hồi, mỗi hồi là hai hay nhiều mưu mô, các mưu mô liên kết nhau một cách lỏng lẻo nên các hồi là độc lập với nhau, còn “sang Truyện Kiều , chúng ta bước vào một thế giới khác hẳn. Đây là một việc làm đối lập lại truyền thống tiểu thuyết Trung Quốc, thậm chí có thể nói là chướng tai gai mắt đối với truyền thống. Trước hết, mọi mưu mô đều biến mất, chẳng còn dấu vết gì nữa. Sự việc diễn ra do cái logic khách quan của cuộc sống, không phải do mưu mô tính toán của con người...không những Nguyễn Du gạt bỏ mọi mưu mô, mà còn gạt bỏ mọi tính chất ly kỳ trong mưu mô” [24] .             Chúng tôi dẫn ra một số đoạn như trên nhằm chỉ ra hướng so sánh như Phan Ngọc, Trần Đình Sử chủ trương là một hướng đi khoa học, nhưng cần được tiếp tục hoàn thiện. Sở dĩ cần  thiết phải tiếp tục nghiên cứu so sánh như đã nói, là vì qua so sánh, chúng ta càng hiểu sâu hơn sáng tạo của Nguyễn Du.



[1] Trần ích Nguyên, Nghiên cứu câu chuyện Vương Thúy Kiều. Phạm Tú Châu dịch. NXB Lao động- Trung tâm văn hóa- ngôn ngữ Đông- Tây, 2004, tr.113-118.

[2] Bản dịch này do Nhà xuất bản Văn nghệ và Công ty văn hóa Phương Nam xuất bản, 2006, Nguyễn Khắc Phi giới thiệu.

[3] Theo Nhan Bảo, ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc đối với văn học Việt Nam, in trong sách Tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc ở châu á (thế kỷ XVII- thế kỷ XX) , Trần Hải Yến dịch, NXB Khoa học xã hội, 2004, tr. 228- 229. Căn cứ suy đoán: Kim Vân Kiều truyện đã du nhập vào Nhật Bản năm 1754. 

[4] Xem Vũ Đình Trác, Triết lý nhân bản Nguyễn Du, Luận án triết học bảo vệ tại Nhật Bản, bản tiếng Việt in tại Orange, California 1993. tr.253-254.

[5] Trần ích Nguyên, Sđd, tr. 24. Phải nói rằng ở Việt Nam, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã nghiên cứu công phu sự chuyển biến của cảm hứng trong các truyện kể về Vương Thúy Kiều của văn nhân Trung Quốc qua thời gian. Do khuôn khổ bài viết này, xin không thuật lại ở đây. Xem Trần Đình Sử, Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục, 2002, chương hai, mục 1. Truyện Kiều- từ sự thật lịch sử đến sáng tạo nghệ thuật, tr. 27-36.  

[6] Trần ích Nguyên, Sđd, tr. 25-26.

[7] Trần ích Nguyên, Sđd, tr. 26-27.

[8] Boris L. Riftin, The Study of Chinese Classical Literature in Russia (Nghiên cứu văn học cổ điển Trung Quốc ở Nga). T/c Asian Research Trends ( The Center for East Asian Cultural studies for Unesco. The Tokyo Bunko), N2/ 2002, tr. 53.

[9] Đào Duy Anh, Khảo luận về Kim Vân Kiều, Quan hải tùng thư xb, Huế, 1943. Chuyển dẫn theo bản in lại trong Nguyễn Du, về tác gia tác phẩm, NXB Giáo dục, 1998, tr. 343.

[10] Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển: Hoán cốt đoạt thai 換 骨 奪 胎 – “Thành tiên- Trong thi văn hay dùng ý tứ của cổ nhân mà không lặp lại từng câu từng chữ, gọi là hoán cốt đoạt thai”. Theo Hán ngữ đại từ điển: “Đoạt thai hoán cốt”奪 胎 換 骨 - nguyên là từ ngữ của Đạo giáo, chỉ việc thoát khỏi phàm thai tục cốt mà đổi thành thánh thai tiên cốt. Sau dùng chỉ việc học theo tiền nhân mà không để lộ dấu vết gì, lại thêm sáng tạo mới. Trong văn chương Trung Quốc xưa có kĩ thuật sáng tác gọi là “Đoạt thai hoán cốt pháp”. Đào Duy Anh đã công phu chọn được một thành ngữ cổ để diễn đạt súc tích, đầy ấn tượng sáng tạo của Nguyễn Du. 

[11] Đào Duy Anh, Khảo luận về Kim Vân Kiều, Sđd, tr. 357.

[12] Hoài Thanh, Quyền sống của con người trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, 1949, in lại trong Nguyễn Du, về tác gia và tác phẩm, Sđd, tr. 475.

[13] Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX. (tái bản lần thứ 3), NXB Giáo dục, 1999, tr. 336.

[14] Xem Vũ Đình Trác, Triết lý nhân bản Nguyễn Du, Sđd, tr. 271-273.

[15] Xin xem Lê Xuân Lít, Truyện Kiều- Kim Vân Kiều truyện nhìn từ góc độ chi tiết”, in trong Hai trăm năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều. NXB Giáo dục, 2005.

[16] Phạm Đan Quế, Truyện Kiều đối chiếu, Sđd, tr. 16.

[17] Trần Đình Sử, Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục, 2002, 55-56.

[18] Trần Đình Sử, Thi pháp Truyện Kiều, Sđd, tr. 57-58.

[19] Đổng Văn Thành, So sánh Truyện Kim Vân Kiều Trung Quốc và Việt Nam . Phạm Tú Châu dịch, in trong  trong Hai trăm năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều, Sđd,  tr. 1572.

[20] Xem thêm Trần Đình Sử, Thi pháp Truyện Kiều, Sđd, tr. 299.

[21] Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2001, tr. 37.

[22] Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Sđd, tr. 44.

[23] Xin xem chú thích các câu 5 và 6 của Truyện Kiều  để thấy có một truyền thống bàn về tài mệnh trong văn học Trung Quốc.

 

[24] Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Sđd, tr. 100-102.

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114561724

Hôm nay

2152

Hôm qua

2334

Tuần này

2837

Tháng này

229267

Tháng qua

122920

Tất cả

114561724