Nhờ đó lực lượng Mỹ dần dần chiếm ưu thế và từ cuối 1943 bắt đầu giành thế chủ động. Từ 1944, Mỹ phản công toàn diện, chiếm lại quần đảo Marianna, các đảo Saipan, Guam, Tinian; máy bay Mỹ từ Trung Quốc bay đến ném bom đất Nhật, phá huỷ các cơ sở sản xuất và căn cứ quân sự khiến cho Nhật ngày càng thiếu vũ khí, trang bị. Sau khi mất quần đảo Marianna, tinh thần chiến đấu của quân Nhật sa sút hẳn, nhiều người đã nghĩ tới thất bại. Từ ngày máy bay Mỹ thường xuyên ném bom đất Nhật, mọi hoạt động kinh tế, sản xuất công nghiệp bị thiệt hại ngày càng nặng, sản xuất vũ khí giảm sút nghiêm trọng, ảnh hưởng tới hiệu suất chiến đấu của lính Nhật.
Trước tình hình thiếu máy bay tàu chiến, Bộ Thống soái Nhật quyết định áp dụng chiến thuật đánh bom tự sát bằng máy bay, tầu ngầm bỏ túi và ngư lôi người lái. Chiến thuật mới này đã gây khó khăn và thiệt hại lớn cho Mỹ, nhưng cũng rất bất lợi cho Nhật vì mất gần hết phi công giỏi, trong khi Nhật đang thiếu phi công và việc đào tạo 1 phi công lâu hơn việc chế tạo 1 máy bay. Trong trận Mỹ tấn công đảo Okinawa, 193 máy bay cảm tử Kamikaze Nhật tấn công hạm đội Mỹ, có 169 chiếc bị pháo phòng không và máy bay Mỹ bắn rơi, chỉ còn vài chục chiếc lao trúng mục tiêu. Tổng cộng đã có hơn 2200 phi công Kamikaze chết, đây là một thiệt hại không thể bù đắp nổi. Sau đó máy bay Nhật không còn có thể cất cánh được nữa, máy bay Mỹ càng tự do khống chế bầu trời, tự do bắn phá, ném bom bất cứ mục tiêu nào.
Ngày ngày hàng nghìn máy bay Mỹ tung hoành trên bầu trời Nhật, ném bom rải thảm xuống các đô thị. Mỹ chủ yếu dùng bom cháy, để gây tâm lý sợ hãi vì hầu hết nhà dân Nhật đều là nhà gỗ rất dễ bắt lửa và cháy lan ra xung quanh. Mỹ hay ném bom ban đêm, lửa cháy sáng rực trời gây hiệu quả tâm lý sợ hãi trong dân Nhật, vả lại ban đêm khó cứu chữa, sáng ra chỉ còn lại cảnh hoang tàn trông cực kỳ thảm thương.
Hầu như toàn bộ các nhà máy quân sự đều trúng bom, 64 đô thị Nhật biến thành đống tro tàn. Riêng cuộc ném bom rải thảm Tokyo hai ngày 9 và 10 tháng 3.1945 đã làm 100 nghìn người chết cháy. Máy bay ném bom kiểu mới của Mỹ là pháo đài bay B-29 bay rất cao, máy bay Nhật (lúc đó đã bị diệt gần hết) và pháo cao xạ Nhật không với tới, từ độ cao an toàn ấy máy bay Mỹ tha hồ yên tâm rải bom xuống mà Nhật không làm gì được.
Ngày 7 tháng 5 năm 1945, nước Đức phát xít đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện. Châu Âu im tiếng súng. Thất bại thảm hại của nước Đức phát xít báo trước nước Nhật quân phiệt cũng sẽ nhanh chóng hứng chịu kết cục nhục nhã như vậy. Nhưng phát xít Nhật vẫn điên cuồng chống trả Đồng Minh. Mặt trận châu Á-Thái Bình Dương vẫn ầm vang tiếng súng.
Tháng 6, Nội các Nhật họp, phái chủ chiến chiếm đa số quyết tâm “Bản thổ quyết chiến”, “chiến đấu đến người Nhật cuối cùng”. Thiên Hoàng Hirohito im lặng trước quyết định đó.
Lúc này đảo Okinawa cách đất liền 350 dặm đã bị Mỹ chiếm. Trên đất Nhật, 2,25 triệu lục quân và 1,25 triệu hải quân chủ yếu lo cố thủ trước tin Mỹ sắp đổ bộ vào Nhật. Ngoài ra còn khoảng 3,5 triệu quân Nhật đóng ở Trung Quốc, các nước Đông Nam Á và một số đảo trên Thái Bình Dương. Nghĩa là lực lượng Nhật vẫn còn rất mạnh, Bộ Chỉ huy Tối cao Đồng minh không thể coi thường.
Ngày 16 tháng 7 năm 1945, Mỹ thử thành công bom nguyên tử. Hôm sau, Truman, Churchill và Stalin hội đàm tại Potsdam gần Berlin để bàn về tương lai nước Đức.
Đồng thời, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ J. C. Gore và Bộ trưởng Lục quân H. L. Stimson dự thảo Tuyên ngôn Potsdam về vấn đề ép Nhật đầu hàng vô điều kiện để chuẩn bị trình nguyên thủ Mỹ, Anh, Trung Quốc ký (về sau Liên Xô cũng ký Tuyên ngôn này).
Ngay từ tháng 5, Gore đã kiến nghị với Tổng thống Truman là chỉ cần Tuyên ngôn này đưa ra tiền đề Nhật có thể giữ lại chế độ Thiên Hoàng, thì chắc chắn Nhật sẽ chấp nhận đầu hàng ngay. Thế nhưng hồi ấy dư luận Mỹ và đa số quan chức trong Chính phủ Mỹ đều đòi đưa Thiên Hoàng ra xét xử tội ác chiến tranh, phản đối giữ lại chế độ Thiên Hoàng. Stimson đành đề nghị Truman dùng hình thức phi chính thức để truyền đạt cho phía Nhật biết ý định nói trên của Mỹ.
Ngày 26 tháng 7, Tuyên ngôn Potsdam chính thức công bố. Máy bay Mỹ thả xuống khắp đất Nhật hàng triệu tờ truyền đơn in Tuyên ngôn này bằng tiếng Nhật. Điều 13 của Tuyên ngôn viết: “Chính phủ Nhật phải tuyên bố toàn bộ quân đội Nhật lập tức đầu hàng vô điều kiện”, “Bất cứ sự lựa chọn nào khác đều chỉ có thể dẫn đến sự huỷ diệt nhanh chóng và toàn diện của nước Nhật”.
Sakomizu, Chánh Văn phòng Chính phủ Nhật nhớ lại tình hình lúc ấy:
Nhà đương cục phía ta thận trọng nghiên cứu từng câu từng chữ của Tuyên ngôn này, và tôi xin nói thẳng ra là lúc ấy đã đi đến kết luận ta chỉ có thể dùng nó để làm cơ sở chấm dứt chiến tranh, ngoài ra không còn cách nào khác. Bộ trưởng ngoại giao ĐH còn bàn chuyện phải chăng hội nghị Chính phủ nên thừa nhận như vậy... Thế nhưng Bộ trưởng Lục quân lại chủ trương “Ta đang nhờ Liên Xô làm trung gian để điều đình (với Mỹ), nay đang chờ trả lời, do đó nên chờ bao giờ có hồi âm thì hãy quyết định làm gì.” Thế là mọi người quyết định chờ đợi, nói cách khác, trước khi có hồi âm thì ta không tỏ thái độ gì về bản Truyên ngôn này. (“Sự thật của việc ngừng chiến”, 1989. Viết tắt Sđd1)
8. Nhật nhờ Liên Xô làm trung gian điều đình với Mỹ
Quả thật, từ đầu tháng 7, Chính phủ Nhật đã nhờ Liên Xô làm trung gian điều đình để hoà giải với Mỹ, dựa trên cơ sở Hiệp ước Trung lập Nhật-Xô (ký 13.4.1941) đến 3.1946 mới hết hạn.
Về chuyện này, Thiên Hoàng Hirohito nhớ lại:
Sở dĩ phải chọn Liên Xô làm trung gian là vì các nước khác đều yếu, nếu có đứng ra điều đình thì cũng bị Mỹ, Anh áp chế, do đó dẫn đến việc đầu hàng vô điều kiện bất lợi. Liên Xô vừa có thực lực lại có tình nghĩa ký hiệp ước trung lập với ta. Tóm lại có 2 lý do như vậy... Thế nhưng rất khó nhận định Liên Xô là một nước có thành ý, bởi thế trước tiên phải thăm dò thực hư. Chúng tôi quyết định triển khai cuộc hội đàm Koki Hirota (cựu Bộ trưởng ngoại giao) với Yakov A. Malik (Đại sứ Liên Xô tại Nhật) với nội dung: chỉ cần họ chịu xuất khẩu dầu mỏ cho ta thì cho dù ta phải biếu đảo Nam Kurin và Mãn châu cho họ cũng được...
Thế nhưng cho tới thượng tuần tháng 7, phía Liên Xô vẫn bặt vô âm tín. Mà tôi thì cần phải làm xong các việc liên quan trước khi hội nghị Potsdam bắt đầu, nếu để chậm trễ thì sẽ rất bị động. Thế là tôi bàn với Suzuki (Thủ tướng Nhật), quyết định chấm dứt cuộc hội đàm Hirota-Malik mà trực tiếp giao thiệp với Chính phủ Liên Xô.
Việc này liên quan đến chuyện cử ai đi Moscow. Về đại thể đã kết luận Konoe (cựu Thủ tướng) là thích hợp, nhưng sợ Konoe không nhận, nên tôi quyết định trực tiếp gặp ông ta nói chuyện... Đầu tháng 7 tôi gọi Konoe đến và nói với ông ta là nhiệm vụ này khó khăn đấy, nhưng đề nghị ông nhất định phải gắng hết sức mà làm. Konoe nói dù phải chết cũng làm và nhận quyết định ấy. (“Tự bạch của Thiên Hoàng Showa”, 1995. Sđd2)
Nhưng rồi việc cử người đi Liên Xô bị đình lại vì ngày 9. 7, các đại thần Arita và Kido đề nghị nhà vua nên trực tiếp giảng hoà với Mỹ, Anh.
Tuy vậy Thiên Hoàng Hirohito vẫn cố chấp nhờ Liên Xô môi giới điều đình, vì thế cho tới ngày 26 tháng 7, Bộ trưởng Lục quân Anami đã mượn cớ nhà vua có chủ trương như vậy để cố ý trì hoãn việc chấp nhận Tuyên ngôn Potsdam. Thật ra, sau khi thấy Đức đầu hàng và Liên Xô tập kết quân đội sang Viễn Đông, Anami cho rằng việc nhờ Liên Xô làm môi giới đàm phán với Mỹ, Anh cũng là một thượng sách để tránh chạm trán với Liên Xô.
Dưới sức ép của nhà vua và quân đội, Thủ tướng Suzuki đã không trả lời yêu cầu của Tuyên ngôn Potsdam./.