Những góc nhìn Văn hoá

Tính lịch sử : khả năng và mức độ qua tiểu thuyết Bà chúa Chè

Trong lịch sử nước ta, Tuyên phi Đặng Thị Huệ là một trong những nhân vật nữ không những được người đời sau, mà cả người đương thời cũng bình phẩm, đánh giá trái chiều nhau nhiều nhất, chắc chắn còn hơn cả nữ học sĩ Nguyễn Thị Lộ. Đó là bởi cuộc đời người đẹp này không chỉ gắn với số phận một danh thần, danh nhân như Nguyễn Trãi mà gắn với thăng trầm của phủ Chúa, cũng tức là gắn với thịnh suy một giai đoạn lịch sử của  đất nước ở thế kỷ XVIII. Vì vậy trong văn học Việt Nam, Tuyên phi từ lâu đã trở thành hình tượng nhân vật không ngừng được nhuận sắc, gia công. Dưới bút của nhiếu tác giả khác nhau, nhân vật Đặng Thị Huệ ngưng tụ cảm ngộ khác nhau về đời người và về thời đại mà họ mong muốn biểu đạt bằng trí óc và con tim của mình.

Trong số những nhà văn viết về Đặng Thị Huệ, Nguyễn Triệu Luật là người viết sớm nhất qua tiểu thuyết Bà chúa Chè, xuất bản năm 1938.

Thông thường, trong sáng tác văn học và phê bình văn học về đề tài lịch sử, vấn đề chân thực lịch sử thường được nhắc tới nhiều nhất. Đó vừa là một mục tiêu sáng tác mà người viết tiểu thuyết lịch sử theo đuổi, cũng vừa là thước đo để người phê bình văn học đánh giá tác phẩm văn học viết về đề tài lịch sử. Chân thực lịch sử dùng trong lĩnh vực văn học được tạo lập trên cơ sở mối quan hệ giữa văn học về đề tài lịch sử với sự thực lịch sử. Chân thực lịch sử sở dĩ được thường xuyên bàn đến, thì một nguyên nhân khá hiện thực là dường như sự chân thực ấy có thể kiểm nghiệm được vì văn học về đề tài lịch sử có đặc trưng lớn nhất là dựa vào lịch sử, tức là có tính lịch sử. Tính lịch sử ấy thường thể hiện ở hai phương diện : một là dựa vào những sự kiện đã thực sự xảy ra, những nhân vật đã thực sự tồn tại trong lịch sử ; hai là dựa vào sử liệu mà lịch sử để lại, bao gồm ghi chép của nhà sử học, cổ vật được tìm thấy, kể cả thần thoại, truyền thuyết lịch sử truyền miệng trong dân gian cùng tác phẩm văn học do lịch sử để lại. Như thế, nếu chia theo hình thái của nó, thì lịch sử mà sáng tác văn học về đề tài lịch sử đề cập tới,  có ba loại : một là lịch sử từng thực sụ tồn tại được gọi là lịch sử nguyên sinh ; hai là những gì lịch sử để lại gọi là lịch sử để lại , ba là thuật kể lịch sử của văn học về đề tài lịch sử, tức lịch sử thuật kể.

Ở trường hợp Bà chúa Chè, lịch sử nguyên sinh về giai đoạn này không có. Hơn hai chục năm trước đây, khi viết luận án tiến sĩ về đề tài Hoàng Lê nhất thống chí, tôi đã bỏ công tìm đọc sách sử viết bằng chữ Hán, kể cả công và tư, về giai đoạn cuối thế kỷ XVIII  ở thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, thư viện Viện Sử học và thư viện Quốc gia, nhưng chỉ tìm được một số chi tiết nhỏ, nội dung không có gì đáng kể so với những điều Hoàng Lê nhất thống chí đã viết. Trái lại sách không phải sách sử do cá nhân viết như Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ lại có những trang ghi chép sự kiện xảy ra và nhân vật tồn tại đương thời, bổ sung được cho lịch sử ở giai đoạn này. Thế là có một hiện tượng tréo ngoe là lịch sử lại phải dựa vào một bộ tiểu thuyết chương hồi rất đậm tính lịch sử là Hoàng Lê nhất thống chí (luận án tiến sĩ của tôi đã chứng minh Hoàng Lê nhất thống chí là tiểu thuyết lịch sử). Chính vì vậy cụ Ngô Tất Tố lấy làm bất bình lắm, khi dịch cụ đã bỏ chương hồi, chia lại đoạn để sách thành sách sử chứ không phải tiểu thuyết. Nhưng ý định tốt đẹp chủ quan ấy chẳng thể lật ngược sự thật. Cho đến nay, rất nhiều nhà nghiên cứu lịch sử viết về giai đoạn này đều phải trích dẫn từ cuốn tiểu thuyết chương hồi nói trên, kể cả sự kiện trọng đại là chiến dịch Đông Đa cũng không ngoại lệ.

Bà chúa Chè không có lịch sử nguyên sinh để mà dựa, tác giả đã dựa vào hai nguồn chính là lịch sử để lại và lịch sử thuật kể. Đọc Bà chúa Chè, chúng ta thấy tác giả đã tận dụng được truyền thuyết dân gian về Tuyên phi, ý kiến đánh giá về bà được truyền lại từ người làng Bịu ở Kinh Bắc v.v…., nhưng chủ yếu là từ lịch sử thuật kể : Hoàng Lê nhất thống chí mà bản dịch tiếng Việt có từ năm 1912 do Cát Thành dịch.  Chúng tôi thử so sánh một vài chương giữa đôi bên.

Tác giả sáng tác Bà chúa Chè ngoài dựng lại cuộc đời vui ít khổ nhiều của cô gái tài sắc một thời, của một Tuyên phi “quyền nghiêng thiẻn hạ” làm đảo lộn cả phủ Chúa ra, dường như tác giả còn muốn bày tỏ triết lý : khôn ngoan, mưu mẹo đến mấy để thỏa mãn dục vọng thì kết quả rồi cũng bằng không. Tác giả đã  lẩy ra những sự kiện chính liên quan trực tiêp đến mục tiêu sáng tác ở Hoàng Lê nhất thống chí để làm khung, phần nào còn thiếu là chỗ để cho tác giả vận dụng kiến thức lịch sử và sức tưởng tượng của mình.

Ở đây, đoạn còn thiếu là đoạn đời của Đặng Thị Huệ trước khi vào phủ chúa và tác giả đã dành trọn chương I để thể hiện. Chính chương mở đầu này đã làm khởi sắc cả năm chương sau, khiến ai đã đọc hẳn không thể dừng lại. Ở chương này có sự nhào trộn khá hài hòa khéo léo giữa bút pháp của tiểu thuyết mới đương thời với cách viết của tiểu thuyết cổ điển truyền thống. Khung cảnh làng quê với cánh đồng chiêm ngút ngàn, với chợ, với cầu, với gánh bún riêu, với các cô thôn nữ hái chè yếm nhiễu đỏ, váy sồi thâm  tươi xinh như nụ hoa hàm tiếu …khiến người đọc liên tưởng tới cách viết về nông thôn của tiểu thuyết mới hồi ấy. Còn ngày tháng, địa danh, nhân danh chính xác trong truyện lại cho thấy tác giả muốn làm bạn đọc tin rằng những gì mình viết là có thật như tiểu thuyết chữ Hán ở ta thường làm. Câu, chữ Hán sử dụng trong tự sự và đối thoại giữa các nhân vật ở chương này (cũng những chương sau), cũng là điều thường thấy trong các gia đình Hán học đầu thế kỷ XX, có tác dụng gây không khí cổ xưa khớp với thời quá khứ thịnh hành Hán học mà truyện phản ánh. Điều này cho thấy tác giả hiểu biết sâu rộng về cả hai phương diện Tây học và Hán học, vì vậy thỉnh thoảng kiến thức phong phú về cả hai phương diện nói trên lại vuột ra khỏi sức kìm nén của tác giả để trào ra trên trang truyện. Mặc dù không một tư liệu nào cho biết Huệ là con cái nhà ai, nhưng từ ghi chép “Việc gì chúa cũng bàn với nàng” của một vài bản Hoàng Lê nhất thống chí trong tổng số 16 dị bản, tác giả cho Huệ là con cụ đồ cũng hợp lý bởi việc chúa đem bàn chắc hẳn không phải việc nhỏ mọn thường ngày mà là những việc có tầm quan trọng nhất định, nguời dự bàn được ắt phải là người có học thức.

Chương II viết về cuộc tranh giành lòng sủng ái của chúa Trịnh Sâm, cũng là tranh giành ngôi thứ của ba bà phi Ngọc Hoan, Ngọc Khoan và Trần Thị Lộc. Tâm trạng, mưu toan,  tính toán do ghen tuông, do dục vọng của đàn bà đưọc tác giả thể hiện khá trọn vẹn cả tình lẫn lý ở chương này. Trong chương này, nhân vật chính Dương Ngọc Hoan được tác giả kể từ năm 16 tuổi nàng vào Lượng phủ, được sủng ái hơn ba năm thì bị cô gái quê làng Ném Đông tuy đã 20 tuổi nhưng vẫn sắc nước hương trời là Trần Thị Lộc chiếm mất chỗ. Hoạn quan Khê Trung hầu thương Ngọc Hoan như con gái vì nàng bản tính mềm mại, thùy mị. Ông bàn với nàng tìm người hầu xinh đẹp là Ngọc Khoan, cho Ngọc Khoan lọt mắt chúa, thế là chúa bỏ quên Thị Lộc.  Cái kế “lấy sắc chữa bệnh háo sắc” của Khê Trung chỉ đạt mức “không được ăn thì đạp đổ” cho bõ tức, Ngọc Hoan vẫn bị chúa bỏ quên cả năm trời, vì thế khi gặp dịp chúa chỉ truyền miệng đòi Ngọc Khoan lên hầu, Khê Trung đã “đới tội lập công” bằng cách giả vờ nghe lầm, đưa Ngọc Hoan lên thay. Ba đêm liền như thế, nàng có thai, sinh được con trai là Tông, nhưng chúa vẫn không muốn nhận là con đich. Sau đó Ngọc Hoan lại bị rơi vào quên lãng

Sự việc diễn ra không đầy một trang dịch trong Hoàng Lê nhất thống chí đã được tác giả thêm da đắp thịt thành một chương đầy đặn và sinh động, nhưng chi tiết chính thì đã đổi khác. Ở Hoàng Lê nhất thống chí, Dương Ngọc Hoan quê Long Phúc, nhờ chị gái là cung tần của Trịnh Doanh (cha Trịnh Sâm) mà được kén vào làm cung tần của chúa, “nhưng từ sau khi vào cung. nàng vẫn ngày đêm sống cô quạnh”. Nàng kể giấc mơ được thần cho tấm đoạn vẽ đầu rồng với Khê Trung, hoạn quan này biết chắc là điềm sinh con trai nên giả vờ nghe lầm “Khoan” thành “Hoan” mà tác thành cho nàng, “trải qua một trận mưa móc liền có thai ngay”. “Chúa tự nghĩ đầu rồng tuy có khí tượng làm vua nhưng là rồng vẽ, lại chỉ có đầu không có đuôi, như vậy chưa hẳn là điềm tốt cả. Vả lại ở triều trước, Trịnh Cối, Trịnh Lệ cũng do người Long Phúc đẻ ra và đều mưu sự phản nghịch mà không thành. Do đó chúa có ý không vui”.

Chương III dành kể cái gan dám đường đột dâng hoa cho chúa Trịnh Sâm của Đặng Thị Huệ để từ người hầu của tiệp dư Trần Thị Lộc trở thành vợ yêu của chúa. Bà tiệp dư đã ngoại tam tuần vẫn còn hi vọng thả người hầu xinh đẹp của mình để “câu lại tấm lòng luyến ái của đấng quân vương”, kết quả vẫn là đi theo vết xe đổ của Ngọc Hoan. Ở chương này, đoạn viết về buổi uống trà sáng sớm của chúa được miêu tả rất hay, để lại ấn tượng sâu sắc, thú vị cho bạn đọc mà người đi trước đã bình luận rồi. Còn một đoạn nữa, mặc dù tham khảo sách Tàu để liệt kê 24 thì ứng với 24 ngọn gió làm nở 24 thứ hoa phần nào lạc ra khỏi mạch truyện, song theo tôi cũng làm sáng tỏ cái lệ mỗi sáng thị nữ dâng hoa lên chúa.

Nối tiếp là chương IV : Mưa móc tẩm nhuần và hệ quả tất yếu là chương V : Giữ Cán bỏ Tông rồi kết thúc bằng chương VI : Huy quận với Tuyên phi. Những chương này ngoài việc theo sát những sự kiện chính trong Hoàng Lê nhất thống chí ra, đều có viết thêm và sửa đổi.

Mọi người đếu biết, ngay cả nhà sử học trong khi viết sử cũng không tránh khỏi có tưởng tượng nhất định đối với lịch sử, cũng phải giám định, lựa chọn sử liệu và lựa chọn, cân nhắc cả lời thuật kể những sử liệu ấy.Vậy thì nhà tiểu thuyết lịch sử và nhà viết sử khác nhau ở chỗ nào ?  Có thể thấy, ba điểm khác nhau giữa đôi bên như sau :

Một là, khi giám định và lựa chọn sử liệu, nhà viết sử chú ý chọn đúng, bỏ sai, còn nhà tiểu thuyết lịch sử dù biết là sai nhưng vẫn cứ chọn. Nhà viết sử ghi chép sự thật xảy ra trong quá khứ, chỉ cần nói rõ được điều mình muốn nói, thì dù sự thật đó có khô khan, vô vị thì họ vẫn cứ chép như thực, còn nhà tiểu thuyết lịch sử thì bất kể, chức trách của họ là biến bình thường thành thần kỳ, viết sao cho sự việc bình thường nhất cũng làm người đọc kinh ngạc. Ví như việc phế con trưởng, lập con thứ trong phủ chúa Trịnh Sâm, người đương thời đã viết lời bình luận bằng chữ Hán như sau : “Về việc phế con trưởng lập con thứ, ai cũng cho là do Đặng thị, riêng tôi bảo không phải do Đặng thị mà là do chúa. Lại cũng không phải do chúa mà là do giấc mộng của thái phi. Sao lại như thế ? Khi thái phi được triệu là do lầm lẫn của Khê Trung, chúa đã có lòng không vui, đó là điều thứ nhất dần dần dẫn đến phế lập. Đến khi con trẻ đã sinh ra mà chúa không nhận lời lạy mừng thì việc phế lập mười phần đã được nửa. Đương lúc ấy, Đặng thị chưa được sủng ái mà con là Cán cũng chưa ra đời thì quả thật ai làm và ai sinh được con nhỏ cũng ắt có việc phế lập, huống chi Đặng thị vừa được sủng ái mà con là Cán lại thông minh !”. Lời bình luận này được nhà viết sử Ngô Cao Lãng, đỗ hương cống khoa Đinh Mão (1807), tác giả sách Hậu Lê lịch triều tạp kỷ, cho là của “người họ Ngô ở Thanh Oai”. Như vậy việc phế lập không phải tội của Đặng Thị Huệ, nhưng nhà tiểu thuyết lịch sử nào cũng chọn cái sai này, bởi vì theo họ. “một sự việc không thể xảy ra nhưng có thể làm người ta tin được thì đáng chọn hơn là một sự việc có thể xảy ra nhưng lại khiến người ta khó tin” (Aristốt : Thi học).

Hai là, khi giải thích lịch sử, nhà viét sử thường cố gắng giải thích cho khoa học, còn nhà tiểu thuyết lịch sử thì chọn cách giải thích có tính nghệ thuật, sao cho quanh co, hấp dẫn. Ví như việc Dương Ngọc Hoan tuy được kén vào cung nhưng ngày đêm vẫn cô quạnh. Sự thực lịch sử thế nào không rõ, chỉ biết HoàngLê nhất thống chí giải thích, đó là vì nhờ chị gái (tức dì ghẻ của Trịnh Sâm) Ngọc Hoan mới được vào cung, không phải do Trịnh Sâm lựa chọn. Ở Bà chúa Chè, tác giả dành chương II giải thích nỗi cô quạnh của Ngọc Hoan sau hơn ba năm được ân ái cùng chúa là do sự xuất hiện của Trần Thị Lộc. Thế là dẫn tới vòng luẩn quẩn : Ngọc Hoan mượn Ngọc Khoan để đánh bật Thị Lộc rồi Thị Lộc bị bỏ xó hơn mười năm lại theo vết xe đổ ấy, mượn Thị Huệ để níu kéo tình yêu của chúa.

Về việc này, người đương thời khuyết danh có lời bình rất hay : “Đặng thị được yết kiến chúa thực là do tiệp dư Ngọc Vịnh (ở Bà chúa Chè đổi thành Trần Thị Lộc) tác thành. Đặng thị được sủng ái, Ngọc Vịnh liền bị bỏ rơi. Ngạn ngữ có câu : Đứt đòn giằng, đòn giằng rơi ách văng. Đáng cười !”. Trong câu ngạn ngữ viết bằng chữ Nôm này, đứt đòn giằng chỉ việc “đứt niềm yêu”, có lẽ thế !       

Ba là nhà viết sử dù tưởng tượng về lịch sử cũng tưởng tượng dựa trên  sự thật vì  công việc viết sử không cho phép hư cấu, nếu hư cấu thì mất đi tác phong cẩn thận, nghiêm ngặt của người viết sử. Còn sáng tác văn học về đề tài lịch sử thì ngoài việc đặt mình vào sự kiện lịch sử để tưởng tượng như nhà viết sử, còn có thể hư cấu cho hợp tình hợp lý, tức là có thể viết người thật việc thật, mà cũng có thể viết người thật việc giả hoặc cả người giả việc giả

Ví như  trong Hoàng Lê nhất thống chí , cái chết của Tuyên phi chỉ gói gọn trong ba chữ “uống thuốc độc” thì ở Bà chúa Chè, chương VI, buổi lễ đại tường (giỗ lần thứ hai)  được tổ chức rất long trọng ở lăng của chúa, có đủ mặt từ Vương thượng Trịng Tông, Vương thái phi mẹ chúa. Thánh mẫu Ngọc Hoan đến Chính cung vợ Trịnh Tông. Tuyên phi chờ mọi người lễ xong, đứng cho được vào chiếu thứ nhất là chiếu dành cho chính thất của chúa mới phục xuống lễ, lễ xong thì ngã sấp xuống, “một dòng máu tuôn ra chiếu lễ”. Dựng lại buổi lễ như thế chẳng những phù hợp mà còn làm sáng tỏ lời khen hiếm hoi của một người cũng “quyền nghiêng thiên hạ” đương thời là Nguyễn Hữu Chỉnh trong Hoàng Lê nhất thống chí , hồi thứ IV : “Chết được đấy ! Ta tưởng Tuyên phi chỉ có nhan sắc, không ngờ lại tiết liệt như vậy !”. Con người tiết liệt ấy có thể nào trước đó không lâu mấy đã “goi anh xưng em” với quận Huy, bị lính Tam phủ gọi là “con đĩ Phù Đổng” được không, thì đấy có thể lại thuộc ý định hư cấu “người thật việc giả” của nhà văn, bởi nhà tiểu thuyết lịch sử một mặt tôn trọng chân thực lịch sử, mặt khác lại luôn luôn muốn thoát ra khỏi sự trói buộc của chân thực lịch sử, thả lỏng cho bản tính lấy giả làm thật của mình.

Nhà viết sử và nhà tiểu thuyết lịch sử chênh nhau là như thế. Khi sáng tác, nhà văn có thể chọn thái độ tương đối thỏa đáng, chính đáng với lịch sử, còn nhà phê bình cũng nên hiểu thiết thực hơn về hàm nghĩa của chân thực lịch sử.  Lỗ Tấn từng chia tiểu thuyết lịch sử làm hai loại : loại “bác khảo văn hiến, ngôn tất hữu cứ” (khảo rộng tư liệu, nói ắt có chứng cứ) và loại “chỉ thủ nhất điểm nhân do, tùy ý điểm nhiễm” ( chỉ lấy một chút nguyên nhân, tùy ý điểm xuyết, tô vẽ).

Như vậy, Bà chúa Chè (cũng như hai tiểu thuyết viết nối) của nhà văn Nguyễn Triệu Luật thuộc loại nào ? Theo tôi, truyện chẳng thuộc loại nào mà là ở giữa hai loại, không khô khan, gò bó như loại đầu, cũng không buông thả tùy tiện như loại thứ hai. Kiến thức song trùng—vừa am hiểu Hán học, vừa thông thạo Tây học của nhà văn quyết định điều này. Ngoài ra còn phải kể đến “sủ đức” của tác giả thể hiện rất rõ trong sáng tác, khiến tiểu thuyết lịch sử của ông, vì dựa theo một tiẻu thuyết lịch sử hết sức đặc biệt, từng và hiện nay vẫn được coi ngang với một bộ sử là Hoàng Lê nhất thống chí, có tính lịch sử rất đậm.  

                                                                          Hà Nội, đầu thu năm 2012

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114571861

Hôm nay

213

Hôm qua

2336

Tuần này

21610

Tháng này

230385

Tháng qua

129483

Tất cả

114571861