Những góc nhìn Văn hoá

Xung quanh câu chuyện nguyên mẫu của nhân vật Hoàng trong "Đôi mắt"

1.Những người hay quen nghĩ trang nghiêm, đạo mạo về hoạt động sáng tạo văn chương sẽ khó thấy một sự thật này: Nhiều khi cái nguyên cơ thúc đẩy người ta cầm bút lại rất tình cờ, bất thường, tầm thường, thậm chí có vẻ như là ba vạ và dớ dẩn nữa. Anh nung nấu một ý tưởng nào đó đã lâu, thế rồi cái ý tưởng ấy cứ đeo đuổi, ám ảnh anh. Nhưng khổ một nỗi, nó cứ nằm ì trong tâm não anh, nó không thể cất cánh lên được để hoá thân thành chữ nghĩa; lắm lúc anh đã phát chán, đã muốn bỏ, thôi không thèm đeo bám nó làm gì nữa... Thế rồi bỗng một hôm, một nguyên cớ ngoại cảnh rất bất ngờ từ đâu bắn vào não bộ, như thể que diêm xẹt vào lần vỏ diêm sinh, và mau chóng thành đám cháy, đám cháy chói loà, rực rỡ không cưỡng lại được.

Nam Cao trong cuộc đời sáng tạo của mình đã có được vài ba lần gặp may như thế. Một trong những lần may mắn hiếm hoi ấy, nhà văn đã cho ra đời thiên truyện Đôi mắt thật sâu sắc, nổi trội. Đó là cái lần vào quãng năm 47 - 48, đang trong thời gian anh tự nguyện  đi làm "một anh tuyên truyền viên nhãi nhép" ở khu Ba và Việt Bắc, bỗng một hôm anh cất công lên thăm gia đình nhà văn Vũ Bằng đang ở một vùng tản cư. Chuyến đi này chắc công phu lắm. Đúng như nhà văn Vũ Bằng nhớ lại: "Đến lúc ra ngoài kháng chiến, một hôm anh (Nam Cao - VG) lù lù đi vào nhà tôi và đến bây giờ tôi cũng không biết tại sao anh lại tìm được nơi tôi ở hay như vậy. Anh ở chơi với tôi hai ngày hai đêm. Hỏi có gì lạ không, anh bảo cũng thường thôi. Anh làm thư kí cho ông Nguyễn Sơn. Vẫn gặp anh em cũ. Tây thế nào nó cũng thua anh ạ.  Tôi mấy lần suýt chết vì bom. Nhưng có lẽ mình khổ quá nên trời đền bù cho được sống để nhìn thấy thực dân cút cả đi (...). Nam Cao vẫn bẽn lẽn thẹn thò như thế, tóc vẫn bờm như thế, mà tâm tính vẫn hồn nhiên như thế. Không biết hút thuốc lá, vẫn không uống rượu. Cả đời chưa đọc truyện Tam quốc bao giờ. Nhân có bộ Tam quốc do Phan Kế Bính dịch, nhà in Lê Văn Phúc ấn hành, tôi thắp một ngọn đèn dầu, bỏ màn xuống, hai anh em cùng đọc. Lần thứ nhất và cũng là lần duy nhất tôi thấy Nam Cao cười lớn tiếng lúc Tào Tháo giết Lã Bá Sa. Cái đêm hôm ấy, sau này anh thuật lại trong một bài đăng trên tạp chí Văn nghệ của mặt trận. Và chính nhờ bài ấy tôi biết Nam Cao cũng có cảm tình với tôi"(1). Ở một chỗ khác, Vũ Bằng cho biết kỹ hơn về những lần Nam Cao đi về chỗ gia đình ông trong thời gian mấy năm tản cư ấy: "Nam Cao được nghỉ xả hơi về nằm khoèo với tôi, ăn cơm với cà chua và rau cải, uống nước chè tươi nhắm với tóp mỡ" (2).

Hoá ra là thế ! Họ là những người bạn thân thiết của nhau, tin cậy yêu quý nhau, có thể bỗ bã với nhau, gặp được nhau là thấy hỉ hả sung sướng, chẳng cần phải ý tứ, giữ kẽ nhau điều gì (3).

Và cái sự nung nấu vấn đề Đôi mắt kia trong một lần về thăm Vũ Bằng đã tìm được ra nguyên cớ. Bài thơ dự kiến giờ đã có tứ thơ ! Mà không chỉ có nguyên cớ không thôi, may mắn hơn, còn có hẳn một nguyên mẫu nữa kia: Anh bạn văn Vũ Bằng đi tản cư cứ lửng lửng lơ lơ, xem chừng có vẻ còn lừng khừng, không ngả hẳn rõ ràng về bên nào, rất khó xét đoán. Chủ đề thì đã có sẵn, nhân vật đây, bối cảnh đây, các chi tiết ngồn ngộn ra đây. Đúng như người bắt được của giời cho !... Có lẽ Nam Cao đã viết một mạch đầy hứng khởi câu chuyện Đôi mắt này. 

            2. Tài năng dựng truyện và miêu tả nhân vật của Nam Cao phải nói là đã đứng vào hàng cự phách ngay từ những năm trước cách mạng. Tài năng ấy đã có dễ đến 6 - 7 năm nay chưa có đất dụng võ, bây giờ mới được "tháo cũi sổ lồng" hả hê, đắc địa. Một làng quê vùng bán sơn địa nơi tản cư, phía trên kia sát gần là khu căn cứ địa kháng chiến, phía dưới xa một chút thôi là khu đô thị tạm chiếm mà cách đây mới chỉ ít ngày Vũ Bằng cùng biết bao nhiêu người vừa  từ đó ra đi. Giả định là có một anh nhà văn sống trong cái làng tản cư đó "chẳng yêu một cái gì, chẳng làm gì. Chúng nó chỉ có tài chửi đổng" (Nhật ký ở rừng)... Với một khả năng mẫn cảm tinh nhạy vốn có của người nghệ sĩ, Nam Cao đã chộp được một hoàn cảnh điển hình - một hoàn cảnh đầy ưu thế, nơi chứa chấp các tình huống có khả năng cọ sát nhân vật, dồn đẩy nhân vật, giúp cho mọi hoạt động, suy nghĩ, ăn nói, tâm tính của nhân vật được phát huy hết mức. Đây chính là một trong những yêu cầu của nguyên tắc điển hình hoá trong văn xuôi tự sự của chủ nghĩa hiện thực. Nam Cao đã rất xuất sắc ở điểm này. Một hoàn cảnh điển hình mới có thể là điều kiện đảm bảo cho sự xuất hiện một nhân vật điển hình. Đến lượt nó, nhân vật điển hình này vừa mang ý nghĩa đại diện tiêu biểu cho một thời đoạn lịch sử cụ thể, lại vừa là một cá thể sống động vượt qua khỏi hoàn cảnh cụ thể được miêu tả trong tác phẩm để trở thành nhân vật của cuộc đời rộng lớn, lâu dài. Hoàng trong tác phẩm Đôi mắt là một trường hợp như vậy, thực sự là một nhân vật điển hình độc đáo. Người đọc dễ dàng thống nhất với nhau ở mấy điểm sau đây:

Thứ nhất, không chú trọng vào việc khai thác và miêu tả hành động nhân vật (nhân vật hầu như không có những hành động đủ sức gây ra các biến cố), cũng không chú trọng vào quá trình tâm lý như trước đây vẫn thường làm (tuy vẫn có nhưng rất đơn giản), Nam Cao tập trung khai thác các chi tiết thuộc diện mạo bề ngoài và thế giới tiện nghi của nhân vật một cách đặc biệt chọn lọc và sắc nét. Cùng với chúng là các chi tiết thuộc về sinh hoạt tinh thần, tất cả đã dựng lên được một anh trí thức trưởng giả, lạc lõng, xa lạ với cuộc sống chung quanh.

Thứ hai, ngôn ngữ đối thoại giữa hai nhân vật được dụng công hết mức. Đây là thủ pháp đắc địa nhất, là yếu tố nghệ thuật chính yếu làm nên sức hấp dẫn của tác phẩm. Hoàng là một tay ăn nói rất sắc sảo, cái sắc sảo của một anh sống bằng nghề chữ nghĩa, một cái lưỡi nhọn có hạng. Nam Cao càng để cho Hoàng ăn nói sắc sảo, hay ho, thú vị bao nhiêu thì nhân vật lại càng hiện ra như là một kẻ nhẫn tâm, độc địa bấy nhiêu. Khi nội dung đối thoại chuyển hướng sang những đối tượng không phải là nhân dân, mà là các lãnh tụ, chính khách chẳng hạn, thì sự sắc sảo vẫn giữ nguyên, nhưng không còn sự cay độc nữa, khẩu khí giờ đây đã chuyển sang màu sắc của sự tán dóc, chuyện phiếm phòng trà.

Thứ ba, là sự dụng công vào các chi tiết nghệ thuật. Nhân vật Hoàng trong thiên truyện ngắn này có ba chi tiết nghệ thuật đặc biệt trọng lượng: Con chó béc - giê xuất hiện đầu truyện kéo theo sự liên tưởng đến những ngày gia đình Hoàng ở Hà Nội trước kia, hai vợ chồng thi nhau kể tội người nhà quê đến mức "nỗi khinh bỉ của anh phì cả ra ngoài theo cái bĩu môi dài thườn thượt. Mũi anh nhăn lại như ngửi thấy mùi xác thối"; và chi tiết Hoàng cho rằng cần "phải viết một cái gì để ghi lại cái thời này. Nếu khéo làm còn có thể hay bằng mấy cái Số đỏ của Vũ Trọng Phụng". Ngoài ba chi tiết ấy còn có một chi tiết "kinh người" nữa ở phần cuối truyện: "Mỗi khi đến đoạn hay anh lại vỗ đùi kêu: Tài thật ! Tài thật ! Tài đến thế là cùng ! Tiên sư anh Tào Tháo !...". Các nhà giảng văn đã bình giảng rất hay về mấy chi tiết thần tình này, xin phép không nói lại nữa(4).

Nhấn mạnh mấy dụng công nghệ thuật xuất sắc như vậy để muốn nói rằng Hoàng đã trở thành một nhân vật điển hình độc đáo, có nét khác biệt ngay cả với nhân vật trí thức trong sáng tạo của Nam Cao những năm trước cách mạng. Bút pháp Nam Cao không ngừng vận động và biến đổi trên cơ sở những hạt nhân cốt lõi đã được định hình từ những Chí Phèo, Lão Hạc, Giăng sáng, Đời thừa... Nhân vật Hoàng rõ ràng đã hiện ra như một trí thức trưởng giả, ích kỉ, có phần tàn nhẫn, đồng thời là một nhà văn lạc lõng, lệch lạc, rất gần với cái mà người ta quen gọi là "phản động". Nhờ việc xây dựng nhân vật Hoàng như một phản  đề đối với nhân vật Độ như một chính đề, vấn đề Đôi mắt hiện lên sống động và giàu sức thuyết phục. Chả thế mà nhà văn Tô Hoài coi tác phẩm này là một tuyên ngôn nghệ thuật của một thế hệ nhà văn đi theo kháng chiến. Tác phẩm Đôi mắt xứng đáng được tôn vinh như vậy.

3. Sức sống của một truyện ngắn, tiểu thuyết, suy cho cùng là phụ thuộc vào sức sống của nhân vật. Đôi mắt không nằm ngoài quy luật này, mà ở đây nhân vật Hoàng chính là một hiện thân đầy sức thuyết phục. Nhưng nếu lần trở về nguồn mạch của sự sáng tạo thì mọi sự thẩm định sẽ không còn đóng khung trong bản thân tác phẩm nữa, mà có liên quan đến vấn đề nguyên cớ và nguyên mẫu, đến sự tiếp nhận không vô tư của bạn đọc. Số là một vài chi tiết ít nhiều có liên quan đến đời tư của Vũ Bằng dưới bàn tay nhào nặn, tái tạo như thể phù phép của Nam Cao đã góp phần tạo dựng nên một chân dung nhân vật sắc nét và tạo ấn tượng mạnh mẽ đối với bạn đọc. Tự mỗi chi tiết mang sức thuyết phục lớn, lại cộng thêm những lời đồn thổi trong giới văn chương, khiến không ít người đã đồng nhất nhân vật Hoàng với nhà văn Vũ Bằng. Mặc dù, trên thực tế, chưa có một lần giấy trắng mực đen, nhưng sự "xuất bản miệng" như vậy của những người trong giới, nhất là trong giới văn chương học đường, không phải là hiếm gặp.

Đã thế, nếu cứ nhăm nhăm đối chiếu vào tiểu sử Vũ Bằng, quả là có thấy những hành vi chính trị đáng "khả nghi": Năm 1948 từ vùng tản cư dinh tê vào thành Hà Nội, ở trong thành đã viết cho nhiều tờ báo, kể cả những tờ thân Pháp, thân Nhật; đến năm 1954 lại di cư vào Nam, mặc dù đã có người của tổ chức Văn nghệ kháng chiến viết thư tha thiết vận động ở lại; suốt từ đó cho đến ngày miền Nam giải phóng, ông hoạt động báo chí ở Sài Gòn và đã có lúc làm báo cho một tổ chức báo chí lớn của chế độ Diệm v.v và v.v…Thế là từ một con người thực ngoài đời (được Nam Cao khai thác, vay mượn một vài chi tiết) đã nhập vào nhân vật Hoàng trong Đôi mắt, rồi đến lượt nhân vật này lại nhập vào thân phận Vũ Bằng thực ngoài đời, tư cách nhà văn Vũ Bằng nhanh chóng trở thành một hư truyền,  và là một  hư truyền theo chiều nghịch, đầy bất lợi cho thanh danh tác giả. Hư truyền này được khởi lên từ cái ngày ông dinh tê vào thành, lại được dịp loang rộng ra, được củng cố thêm bằng Đôi mắt ngay từ khi tác phẩm vừa ra đời, và vẫn tồn tại nguyên cho đến tận ngày hôm nay, khi mà nhà văn Vũ Bằng đã giã từ cõi thế được 15 năm chẵn - thời gian đúng bằng đoạn đời dâu bể của nàng Kiều. Cũng đến tận hôm nay chúng ta mới được biết Vũ Bằng là một chiến sĩ tình báo cách mạng, mới biết hoá ra  Vũ Bằng dinh tê vào thành là do sự điều động của tổ chức, mới biết năm 1954 ông vào Nam cũng là đi theo chỉ thị của tổ chức phân công. Để tạo cho mình một vỏ bọc an toàn nhất nhằm che mắt kẻ thù, còn gì  tốt hơn là  chủ động hứng lấy một "cái án" dinh tê, chịu mang tiếng là quay lưng với cách mạng và kháng chiến, cộng tác với Pháp, Nhật trước kia và Mỹ - Diệm sau này v.v. Ông đã là một nhà văn - chiến sĩ, vừa viết văn làm báo một cách hợp pháp trong lòng địch, vừa hoạt động tình báo cống hiến một cách thầm lặng cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc.

Một cái nhìn thực sự khoa học phải xuất phát từ chính bản thân tác phẩm. Hoàng là một nhân vật văn học, là một sản phẩm nghệ thuật. Hoàng đi từ một vài chi tiết thuộc về nguyên mẫu Vũ Bằng, lấy đó làm nguyên cớ, chứ Hoàng tuyệt nhiên không phải là Vũ Bằng. Đến đây, câu nói có tính chất kinh điển của nhà văn Lỗ Tấn mà không mấy ai không biết lại có sức thuyết phục kì lạ. Ông viết: "Đại để những việc viết ra đều có một chút duyên do nghe thấy hoặc trông thấy, nhưng quyết không dùng nguyên một sự thực ấy, mà chỉ lấy một phần rồi cải tạo thêm, phát triển ra cho đến khi hầu như có thể phát biểu trọn vẹn ý kiến của tôi mới thôi. Nguyên mẫu nhân vật cũng vậy, không dùng một người nào, thường là miệng ở Triết Giang, mặt ở Bắc Kinh, áo quần ở Sơn Tây, là một vai trò được ghép lại" (5). Nam Cao đã thực sự đi theo cách thức này một cách vững vàng và hiệu quả. Đây là nguyên tắc hư cấu và điển hình hoá nghệ thuật mà bất cứ cây bút hiện thực bậc thầy nào cũng phải đi theo. Nếu nhìn vào các sáng tác của Nam Cao những năm trước cách mạng, ta thấy hầu hết các tác phẩm thuộc đề tài trí thức đều mang tính tự truyện, khá rõ bóng dáng của chính bản thân ông và gia cảnh của ông. Bên cạnh các nhân vật chính là nhà văn, nhà giáo còn có hình ảnh các bà vợ của họ. Hầu hết các bà vợ đều đáo để cả, đều chua ngoa, đanh đá, dằn hắt, đay nghiến, thậm chí có lúc ích kỉ và tàn nhẫn (cũng chỉ vì khổ quá mà nên). Các nhà nghiên cứu đều cho rằng trong hình ảnh nhân vật các bà vợ ấy có thấp thoáng dáng nét của bà vợ Nam Cao, chỉ có điều giữa các nhân vật văn học đó và con người thực ngoài đời đối lập hẳn nhau về bản chất. Chắc hẳn là một vài dáng nét thuộc ngoại hình, cử chỉ, vài câu nói, vài thói quen... của nguyên mẫu đã được khai thác. Kể cả một vài khiếm khuyết về tâm tính của nguyên mẫu (nếu có, "nhân vô thập toàn" mà !) - chúng không cơ bản, không là bản chất, chỉ là những hiện tượng bề ngoài - cũng đã được biến thành vật liệu để xây dựng nhân vật, được phóng đại lên hết cỡ để trở thành những nét bản chất chính của nhân vật. Như vậy hình ảnh nhân vật các bà vợ trong sáng tạo Nam Cao so với nguyên mẫu là những hình ảnh trái chiều. Ví dụ này cho thấy việc khai thác nguyên mẫu không phải bao giờ cũng theo cách thức thuận chiều, đồng hướng với nguyên mẫu, nghĩa là tính cách nguyên mẫu xấu tốt thế nào sẽ đi vào nhân vật như thế ấy. Còn có một cách nữa là hư cấu, khai thác nghịch chiều, trái hướng với nguyên mẫu, nguyên mẫu vốn là người tốt khi đi vào tác phẩm lại trở thành một chân dung biếm hoạ hoặc hí hoạ. Nhân vật Hoàng trong Đôi mắt hẳn là một trường hợp được hư cấu nghịch chiều như vậy.

Nội chỉ một điều trên đây thôi cũng cho phép chúng ta đã đến lúc thanh toán được cái nhìn gán ghép, suy diễn về nhân vật Hoàng, cho rằng Hoàng là Vũ Bằng, hoặc Nam Cao viết ra để ám chỉ Vũ Bằng. Một nhân cách cao quý như Nam Cao không bao giờ chịu để cho ngòi bút của mình mang cái tiếng đi ám chỉ người khác, bất kể đó là ai. Chắc hẳn, cũng như mỗi khi suy tư về văn chương, Nam Cao sẽ không ngần ngại cho đó là một hành vi "bất lương", "đê tiện", "bỉ ổi", "khốn nạn" - những từ thường vang  lên dõng dạc trong tác phẩm của ông những năm trước cách mạng.

Vả lại, một "lí lịch đỏ" của nhà văn - chiến sĩ Vũ Bằng cũng đã là một minh chứng hùng hồn góp phần hoá giải triệt để cho cái hư truyền tai hại kia, trả lại cho Vũ Bằng một nhân cách và tầm vóc mà ông xứng đáng được hưởng. Có thể nói rằng từ nay trở đi, nhà văn Vũ Bằng mới thực sự được đứng trong đội ngũ của những nhà văn cách mạng, các sáng tạo của ông mới thực sự được coi là một trong những thành tựu có giá trị của nền văn học dân tộc.

4. Phụ lục: Lẽ ra bài viết này có thể kết thúc được rồi nhưng sẵn có mấy tư liệu trong tay liên quan tới vấn đề mà ta đang bàn, nên xin phép được công bố ra đây. Xét thấy cũng là việc làm hữu ích. Tôi đã có dịp đi gặp để hỏi mấy nhà văn cao niên về Vũ Bằng và Đôi mắt trước khi tôi công bố thông tin Vũ Bằng là nhà văn cách mạng và là chiến sĩ tình báo của ta. Ngoài ý kiến của nhà văn Tô Hoài vẫn như trong bài viết Vũ Bằng - Thương nhớ mười hai, còn có một vài ý kiến khác nữa. Có ý kiến nghiêng về phía chê trách Nam Cao, cho rằng Nam Cao viết về bạn mình như thế là không nên, là hơi ác (nhà văn Thanh Châu). Có ý kiến lại cho rằng có thể Vũ Bằng là nguyên mẫu của nhân vật Hoàng, nhưng nguyên mẫu chỉ là cái cớ để Nam Cao nói chuyện khác. Không phải là nếu lấy Vũ Bằng ra làm nguyên mẫu tức là Nam Cao "chửi" Vũ Bằng. Hai cái này rất khác nhau (nhà văn Kim Lân). Riêng anh Vũ Hoàng Tuấn - người con duy nhất của nhà văn Vũ Bằng với bà Nguyễn Thị Quỳ có kể lại với tôi rằng: Hồi theo bố mẹ đi tản cư anh đã mười một, mười hai tuổi. Nam Cao vốn là chỗ thân tình với gia đình anh. Anh nhớ rất rõ là một hôm Nam Cao về chơi thăm nhà anh ở nơi tản cư, anh thấy bố anh và Nam Cao rất hứng khởi bàn với nhau về chuyện định viết một cái gì đó. Đại khái anh vẫn nhớ là bố anh kể một thôi một hồi bằng cái giọng bực bõ về những thói xấu của bọn trưởng giả lắm tiền nhiều của dân Hà Nội đang tản cư ở làng Đàn Đông (Phủ Lý Nhân - Hà Nam) cùng nơi gia đình Vũ Bằng. Ông nói rằng có những mụ đàn bà buôn bán, mặc áo dài, cổ và tay đeo toàn vàng, nhỏm nhẻm nhai trầu, thỉnh thoảng lại lấy hai ngón tay vuốt nước trầu hai bên mép trông rất hách dịch; chiều chiều mấy bà này chờ người nông dân đem những giỏ cua tép vừa kiếm được từ dưới ruộng lên, rồi lấy chân đá đá vào giỏ, vừa hỏi mua vừa dè bỉu chê bai, ra cái vẻ ta đây thành thị hợm của, khinh người nhà quê khố rách áo ôm. Ở làng bên cạnh cũng lại có mấy ông bà sẵn của từ Hà Nội chạy về suốt ngày rủ nhau chơi tổ tôm, mạt chược, nhìn dân quê như cỏ rác... Bố anh bảo với Nam Cao "Toa viết đi ! Viết về bọn nó đi ! Moa không thể viết được ! Bọn người này đáng viết lắm !". Anh Tuấn sôi nổi: "Tôi đã từng kể chi tiết mỗi lần Nam Cao về nhà tôi chơi hay cho tôi ngồi lên đầu gối, có lần mẹ tôi bổ bưởi, nấu canh cua mời Nam Cao ăn, rồi Nam Cao bày cách chữa cho tôi nếu như chẳng may bị cua cắp tay... ở trong một bài báo đã đăng (6). Nhà tôi và chú Nam Cao thân nhau ghê lắm, không thể có chuyện lại ăng-ti nhau được...".

Vẫn như trước đây, tình yêu nồng nhiệt của tôi đối với nhà văn Nam Cao không hề suy giảm, và tôi vẫn cho rằng Đôi mắt là một tác phẩm tầm cỡ. Lại tự suy xét về bản thân, cũng đã có lúc không thể vượt qua được thói thường của miệng đời đồn thổi nên có thoáng chút bất công đối với Vũ Bằng. Khi mà tư liệu không có thì âu cũng là chuyện khó tránh khỏi. Đến hôm nay tình hình đã khác. Nhà văn Vũ Bằng - cả cuộc đời và sự nghiệp văn chương của ông đã có một địa vị vững chãi trong tôi với tất cả tình yêu và lòng kính trọng.

 

(Tạp chí Văn học, số 8- 1999. In lại trong Đời sống và đời viết [tiểu luận, phê bình- chân dung] của Văn Giá, NXB HNV, 2005)

___________________

(1) Vũ Bằng, Bốn mươi năm nói láo, Nxb Văn hoá -Thông tin, 1993.

Vũ Bằng nói về "cái bài đăng trên tạp chí Văn nghệ của Mặt trận" có lẽ đó chính là tác phẩm Đôi mắt chăng? Nếu quả đúng thế thật, mà Vũ Bằng còn khẳng định: "Chính nhờ bài ấy tôi được biết Nam Cao cũng có cảm tình với tôi" thì mới thấy họ thân nhau đến thế nào. Họ đã vui vẻ chấp nhận biến mình thành tài liệu để cho bạn mình hư cấu nghệ thuật. Thậm chí còn thấy khoái khi có bóng dáng của mình trong tác phẩm của bạn nữa. Ôi dào, có gì quan trọng đâu, cậu đưa mình vào sách của cậu là làm sang cho mình ấy chứ!…Cái cung cách của Vũ Bằng rất có thể là như thế.

(2). Vũ Bằng, Sđd

(3)Xem thêm bài Nam Cao: Nhà văn không biết khóc của Vũ Bằng đăng trên Tạp chí Văn học, SG, số 95, ra ngày 15-10-1969.

(4).Xem bài của Đỗ Kim Hồi về tác phẩm Đôi mắt, in trong Giảng văn văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, 1997.

(5). Lỗ Tấn,Tôi đã viết tiểu thuyết như thế nào? Chuyển dẫn từ Giáo trình Lý luận văn học, ĐHSP, Nxb Giáo dục, tập 1, 1986.

(6) Xem báo Tiền phong chủ nhật số 47, ra ngày 22/ 11/ 1998 và số 49, ra ngày 2/12/1998

(7)Tô Hoài, Vũ Bằng- Thương nhớ mười hai, Tạp chí Văn học, số 1- 1991.

" Trong kháng chiến chống Pháp, chuyến Nam Cao từ Hà Nam lên Việt Bắc đã gặp vợ chồng anh Vũ Bằng đương tản cư ở vùng trung du Quế Quyền trên đường vào Chi Nê. Nam Cao kể lại cho tôi nghe cuộc gặp mặt này. Rồi truyện ngắn Đôi mắt, Nam Cao viết đúng như câu chuyện của anh, chỉ có nhân vật chính được đặt tên là Hoàng (…). Đọc các hồi ký Vũ Bằng về bạn bè kháng chiến, biết được Vũ Bằng có nghe người ta kể truyện ngắn ấy của Nam Cao, và rồi Đôi mắt cũng đã đến tay anh. Vũ Bằng viết rằng anh bằng lòng Nam Cao đã miêu tả anh như thế, con người mơ màng bước vào trường kỳ kháng chiến, cái anh chàng nửa chán đời, nửa yêu đời, nửa thông minh nửa dở hơi, vừa đi kháng chiến vừa sợ kháng chiến cứ khật khưỡng trong nước sôi lửa bỏng như thế. Con người ấy bộc lộ tình cảm thước đo cuộc sống cũng đánh giá mình vậy".

            Với một cung cách như vậy, quả là Vũ Bằng lâm vào tình thế rất dễ bị hiểu lầm.

(8) Vũ Hoàng Tuấn, Vài kỷ niệm về bố tôi, in trên báo Phụ nữ Tp. Hồ chí Minh, số ra ngày 30/11/1994.

 

 

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114574616

Hôm nay

2214

Hôm qua

2317

Tuần này

22162

Tháng này

221673

Tháng qua

130677

Tất cả

114574616