Những góc nhìn Văn hoá

Sự nghiệp văn học Đinh Hùng (VI)

 2.1.3. Cảm hứng tâm linh trong thơ Đinh Hùng

            “Hãy hiểu lấy cái tâm linh của ngươi.” (Upanishad)

            Từ lâu rồi, R. Tagore đã viết: “Con người sở dĩ tiến bước là để thoả mãn những nhu cầu đối với nó còn cần thiết hơn là cơm ăn áo mặc. Nó theo đuổi tìm kiếm chính mình. Lịch sử của con người là lịch sử của cuộc du hành của nó về cái chưa biết, đi tìm sự thực hiện cái bản ngã bất diệt của mình, thực hiện tâm linh mình” [87, tr.42].

 

Vậy “tâm linh” là gì? Không dễ để có thể trả lời câu hỏi này, tuy nhiên có thể hiểu đơn giản: “tâm linh” là linh hồn, tinh thần, là “trí sáng suốt như thấy trước được việc sẽ xảy ra”, là “tính chất thiêng liêng của tâm tư tình cảm” [51, tr.1646]. Thêm nữa, “tâm linh” còn là “nền tảng vững chắc, là hằng số vĩnh cửu của nhiều mối quan hệ, đặc biệt là mối quan hệ của đời sống con người với thế lực siêu nhiên, huyền bí của tôn giáo”[59].

Như thế, cảm hứng tâm linh là cảm hứng được bắt nguồn từ những tâm tư tình cảm, niềm tin tôn giáo có tính chất thiêng liêng mà thi nhân đã nắm bắt được nó, tận hưởng nó để tạo thành thơ. Và trong thơ Đinh Hùng, ta dễ nhận thấy có rất nhiều bài có sự hiện diện của cảm hứng tâm linh. Đây là điều tất yếu, bởi nhiều lí do mà chúng tôi sẽ nêu ra sau. Còn bây giờ, một câu hỏi được đặt ra: Phải chăng đã âm thầm tồn tại một “dòng văn học tâm linh” tồn tại từ xưa đến nay trên thế giới?

Người viết xin kể lên một vài nhà thơ nổi tiếng trên thế giới mà hầu hết các thi phẩm của họ được sáng tác chủ yếu trong cảm thức tâm linh như: Walt Whitman, Emily Dickinson, Rabindranath Tagore, Basho, Omar Khayyam, Rumi,  Goethe… Còn ở Việt Nam, ngoài những vị thiền sư như Phật hoàng Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Mãn Giác…mà những bài thơ, bài kệ của họ hiển nhiên là được viết trong cảm thức tâm linh, ta không thể bỏ qua được hai nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ Mới là Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên.

Trở lại với Đinh Hùng, sau đây là những nguyên nhân khiến cho sự hiện diện của cảm hứng tâm linh trong thơ ông trở thành một điều tất yếu:

Thứ nhất, như chúng ta đã biết, Đinh Hùng là người mà ngay từ thuở thiếu thời đã phải chịu nhiều chấn thương tâm lí vì những cái chết của người thân. Do đó, Đinh Hùng cảm nhận sâu sắc được cái lẽ vô thường của cuộc đời rồi sớm tìm lấy một chỗ dựa tâm linh cho mình cũng là điều dễ hiểu. Cũng vì lí do đấy nên ta thấy trong các tác phẩm của ông, cái chết thường trở đi trở lại như một người bạn thiết thân, mà đã viết về cái chết thì khó lòng không dấn bước đi vào cái địa hạt tâm linh. Thêm nữa, vì nhiều nỗi đau thương, mất mát trong một khoảng thời gian ngắn ập đến như thế đã đẩy tình cảm của Đinh Hùng lên mức độ cùng cực, trở nên thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Bằng chứng là đây:

Bằng những lời tự thuật trong lá thư chữ đỏ- tôi được biết là sau ngày người con gái tên Liên từ trần, Đinh Hùng bỏ đi.(…) Vì hoang mang, tuyệt vọng và điên cuồng nhất. Vượt Hồng Hà, bỏ Hà Nội, chàng trẻ tuổi, khóc ngất không mang theo gì hết ngoài nỗi khổ đau và một tấm hình. Đó là di vật cuối cùng của Liên, sự được nhìn thấy duy nhất còn lại của người nằm dưới mộ. Liên mất rồi nhưng tôi không chịu tin như vậy. Không. Nghìn lần không. Cái chết của hoa và ánh sáng, nắng và mặt trời, nơi tôi là vĩnh viễn hoài nghi và phủ nhận. Bởi tôi vẫn ghen tuông ghê gớm như khi nàng còn sống. Tấm hình đặt trên một mặt bàn dạy học, tôi sẽ giết chết những kẻ nào dám động chạm tới. Tôi úp sấp tấm hình xuống cho ngoài tôi, không một kẻ thứ hai nào được nhìn thấy mặt trời [96].

Và đây cũng là nguyên nhân chủ yếu quyết định đến sự hiện diện của cảm hứng tâm linh trong thơ Đinh Hùng.

Nguyên nhân thứ hai là việc Đinh Hùng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chủ nghĩa tượng trưng, một trào lưu văn học mà sự ra đời của nó có mối liên hệ với thuyết thần cảm (Illuminisme) Đức. Và cần nói thêm rằng, thuyết thần cảm Đức “chủ trương thế giới hữu hình là hình ảnh của một thế giới vô hình…Giữa hai thế giới đó có những điều tương ứng. Người thụ pháp là người nhận biết được những điều tương ứng đó, và nếu cần, có thể nhờ đó mà có những quyền lực thiêng liêng” [49, tr.47]. Ngoài ra, thơ tượng trưng có bản chất và mục đích là khám phá một thế giới mới bí ẩn. Nó gắn liền với tư duy tương hợp vì khởi đi từ quan niệm về sự tương ứng giữa hai thế giới hữu hình và vô hình. Như thế, cùng với những hình thức biểu hiện trong sáng tác như: ngôn từ gợi cảm, nhạc tính được đề cao, biểu tượng ám gợi…các yếu tố kể trên đã dọn đường, đã vỡ để hạt giống của cảm hứng tâm linh nẩy mầm.

Trước khi đi vào nguyên nhân thứ ba, chúng ta hãy đọc lại những dòng chữ sau đây của Tạ Tỵ, một người bạn thân thiết của chàng thi sĩ họ Đinh:

Hương nha phiến thoáng ngát trong không gian. Tôi bước lên thềm cao, căn nhà trống trải âm u dưới ngọn dạ đăng cháy leo lét ở một góc, chỉ vừa đủ soi sáng một khoảnh nhỏ. Tiếng kêu xè xè của nhựa thuốc phiện trên ngọn lửa làm tôi thấy nôn nao. (…) Tôi đứng yên ở mái hiên nhìn vào. Trước mắt tôi, dưới làn khói mỏng manh tựa tơ. Đinh Hùng nằm nhỏ nhoi như đứa bé. Mái tóc nặng nề lẫn vào bóng tối. Đôi mắt tinh anh không còn nữa, nó mở nửa vời dài dại. Tôi biết Đinh Hùng đang nhập mộng. (…) Đinh Hùng cất tiếng ngâm bài “Tìm bóng tử thần”. Giọng ngâm của Đinh Hùng se xiết. Ánh dạ đăng le lói với hoa bấc rung rinh làm tôi có cảm giác như tiếng thơ vọng từ đáy mồ. Vì dấn thân quá sớm, nhất là dấn thân vào một địa hạt phức tạp đầy rẫy ưu phiền, Đinh Hùng đốt cháy thân phận chẳng những trên đầu ngọn bấc mà còn ở men rượu và thú cầm ca sênh phách. Đinh Hùng huỷ hoại hoa niên trong những đêm dài Dạ Lạc qua các cửa Ô, cũng như đắm chìm tâm tư vào đáy ly cay đắng…[96].

Rõ ràng Tạ Tỵ đã cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin quan trọng để có thể lí giải nhiều điều về tâm lí sáng tạo của Đinh Hùng. Kết hợp với nhiều nguồn thông tin khác, chúng tôi có thể khẳng định việc Đinh Hùng sử dụng thuốc phiện để nhập mộng, để tìm đến cái thế giới của ảo giác, để tìm thi hứng, để tạo ra những câu thơ trong trạng thái xuất thần… là điều có thật.

 Và như ta đã biết, các nhà thơ tượng trưng đặc biệt coi trọng trực giác, một sự nhận thức đặc biệt: trực tiếp, cảm tính, không qua tư duy suy lí của lí trí, của trí tuệ. Với họ, trực giác giữ “vai trò chủ đạo trong nhận thức và sáng tác nghệ thuật, được đồng nhất với sự bừng ngộ thần bí, với sự khải thị, với trạng thái kích động cao”[49, tr.297] để dẫn người ta vào một thế giới chợt nhận ra, rất gần với với trạng thái tư duy nghệ thuật kiểu trực cảm tâm linh trong tác phẩm của các thiền sư. Thêm nữa, các nhà thơ siêu thực cũng rất chú trọng và đề cao năng lực trực giác. Bởi những nghệ sĩ theo chủ nghĩa siêu thực quan niệm: cái chân lí đích thực của thực tại thì nằm ở vô thức (giấc mơ, ảo giác, mê sảng, những hình bóng thần bí…) và nghệ thuật thì cần phải đưa chúng ra, mang vào và biểu hiện chúng trong tác phẩm nhờ trực giác. Do vậy, trong sáng tác, những nghệ sĩ của chủ nghĩa siêu thực thường sử dụng thuật thôi miên và thuốc phiện để có thể tạo ra những tác phẩm  trong trạng thái nửa tỉnh nửa mơ nhằm biểu đạt vô thức. Và Đinh Hùng cũng không là ngoại lệ. Điều này giải thích vì sao mà trong thơ ông lại có nhiều câu thơ mang ý vị, hơi hướng siêu thực đến như thế. Và khi xem xét nhiều trường hợp những nhà văn đương thời với Đinh Hùng, ta sẽ dễ dàng nhận ra những người mà trong thơ họ có sự xuất hiện của cảm hứng tâm linh đều chịu ảnh hưởng của một trong hai hoặc là cả hai trào lưu văn học siêu thực và tượng trưng.

Như vậy, bằng việc tìm đến trạng thái “nhập mộng” để sáng tác, vô hình trung,  Đinh Hùng đã tạo điều kiện thuận lợi cho cảm hứng tâm linh xuất hiện và in đậm dấu ấn trong thơ ông.

Ta hãy cùng trở lại với bài thơ Đám ma tôi để thấy cảm hứng tâm linh đã đi vào thơ ông, đã bén rễ và trở thành cảm hứng chủ đạo xuyên suốt trong các tác phẩm Đinh Hùng từ đó trở về sau như thế nào.

Không cần tin theo một học thuyết nào, hãy cứ tin rằng tôi có một linh-hồn và linh-hồn tôi bất tử. Cho nên lúc ấy “nó” đứng ở đầu giường, thoát ra khỏi cái thân hình nằm kia, hình như lấy làm thú vị lắm. Thấy nhiều nước mắt thế, nó đã sắp ngậm ngùi nhưng còn phân vân... 

Thêm nữa:

Đám ma tôi cử vào một ngày chủ nhật. Như thế thì vui, vì chọn đám ma vào ngày chủ nhật hẳn có đông người viếng đưa.

Vào những năm 40 của thế kỉ trước, một tác phẩm từ đầu đến cuối chỉ xoay quanh việc chết chóc, ma chay, đưa đám đã là một việc hết sức lạ lùng huống hồ gì khi tác giả lại viết về cái đám tang của chính mình với một giọng điệu giễu cợt chẳng chút e dè, kiêng kị như thế thì quả là xưa nay chỉ có một. Và có ai ngờ rằng người viết ra những dòng chữ “đáng sợ” ấy chưa quá hai mươi mốt tuổi?... Bởi vì như chúng tôi đã nói, với chàng Hoài Điệp cái chết lúc này đã trở thành một người bạn thân thiết nên chàng hoàn toàn thoải mái khi nói về nó, nên chàng hoàn toàn thản nhiên đối với cái chết:

Tôi chết đi thản-nhiên quá bởi vì chỉ làm cái việc dĩ-nhiên của Người: đã sống rồi phải chết.

Chết đi trong một buổi chiều còn trẻ, người con trai mười bẩy tuổi là tôi sẽ không bao giờ sợ chết như những người khôn ngoan lại đi sống hàng mấy chục năm giời.

Điều này khiến người viết không thể không nghĩ đến những dòng thơ của nữ sĩ ẩn tu Emily Dickinson, nhà thơ của cái chết, trong bài Because  I could not stop for Death (Vì tôi không thể đón chờ Tử Thần):

Because I could not stop for Death,

He kindly stopped for me;

The carriage held but just ourselves

And immortality.

Since then ‘tis centuries, and yet each

Feels shorter than the day

I first surmised the horse’s heads

Were toward eternity.

Dịch thơ:

Bởi vì tôi không thể đón chờ cái chết

Nên dịu dàng anh ấy đón chờ tôi

Chỉ hai chúng tôi trên cỗ xe huyền ấy

Và bất tử mà thôi.

Từ đó hàng bao thế kỉ

Mà như ngắn hơn một ngày

Tôi ngờ những đầu ngựa ấy

Đang vươn về vĩnh cửu bay

(Nhật Chiêu dịch)

Ngạc nhiên và thú vị khi ta nhận ra nhiều điểm tương đồng của hai thi sĩ đến từ hai nền văn hoá khác nhau ở hai thời đại khác nhau. Rõ ràng, trong bài thơ trên, Emily Dickinson đã xem cái chết là vĩnh cửu và Tử Thần, người tình vĩnh cửu của nhân loại, là tình nhân của mình. Như thế liệu có khác gì với Đinh Hùng khi ông viết: “Ngày mai tìm bóng Tử Thần mà yêu”? Tất nhiên, còn có nhiều thi sĩ khác xem  Thần Chết là người tình của mình như R. Tagore, như Khalih Gibran… nhưng quả thật là có sự khác biệt tương đối rõ ràng giữa họ với Đinh Hùng và nữ sĩ được xem là “người mẹ của thi ca Mỹ”. Như trường hợp của Tagore,  ta thấy rõ ràng cái chết chưa bao giờ là một nỗi ám ảnh với ông mà giống như một phương tiện, một người bạn đồng hành với vị “Chúa tể mặt trời” trên con đường thực nghiệm tâm linh; mặt khác, “người tình” trong thơ ông vừa có nghĩa là một người tình thực thể, vừa có nghĩa là tử thần, là cuộc đời và cũng chính là Thượng đế. Còn trong những câu thơ chúng tôi đã dẫn ra của Đinh Hùng và Emily Dickinson, “người tình” ở đây chỉ đơn giản là thần chết, hiện thân của vĩnh cửu.  Ngoài ra, một điểm chung khác khá thú vị của hai thi sĩ này chính là họ rất nhạy cảm với cái vô thường của đời sống. Với Emily thì con người nào có khác chi giọt sương đâu vì “định mệnh quá mênh mông” mà “cuộc đời sao phù ảo” quá, mới sinh ra đó mà “thoáng chốc đi vào biển”, vào chốn “vô cùng không biết, mang mang” (trong bài “Giọt sương”). Còn Đinh Hùng thì đã viết như thế này: “Đèn vàng lướt bánh xe qua,/ Nhìn nhau sao rụng, canh tà như bay,/ Xin em một phút cầm tay,/ Rồi mai cát bụi, gót giầy hư không” (Nỗi lòng thu nhỏ).  

Và thêm nữa, nếu như Emily thấy cái đám tang của chính mình “lướt qua trong tâm trí và những người đưa đám khóc than…” (I felt a funeral in my brain,/And mourners, to and fro…) trong bài I felt a funeral in my brain thì chàng Hoài Điệp ở Việt Nam cũng viết về cái đám ma của chính mình. Như thế, trong cuộc hành trình tiến về vĩnh cửu, kiếm tìm sự vĩnh cửu, Đinh Hùng đã gặp Emily Dickinson. Và những câu thơ của hai người đã gặp nhau ở bến bờ siêu nghiệm, trong dòng cảm thức tâm linh.

Sau khi khảo sát, chúng tôi nhận thấy: dù ra đời vào thời gian nào đi chăng nữa thì những thi phẩm mang cảm hứng tâm linh của Đinh Hùng vẫn thể hiện được nhất quán cái chất dị thường, độc đáo của ông. Không khó để có thể tìm thấy trong thơ Đinh Hùng những câu thơ có màu sắc tâm linh rõ nét thế này:

Hồn tự thủa xa nhà

Chốn ăn nằm bất trắc.

Đường u linh huyền mặc,

Bơ vơ bóng thuyền ma,

Ôi thể phách trăng tà!

Hư vô khơi lồng ngực

Phấn hương nào thổn thức

Sớm thoát trên làn da?

Tâm linh đừng huyễn hoặc,

Ta hát lên lầu ngà.

Anh đã chết trong lời ca đồng thiếp,

Khi ngón tay Em đưa hướng linh kỳ.

Sương khói bạc chiều rừng

Thành quách bến Sông Mê

Những ngọn đèn hồn lênh đênh trôi về kiếp trước

Ôi cửa động mù sương, mưa bay tiềm thức!

Anh theo em đi hết chuyến luân hồi…

(Lời ca đồng thiếp)

Đồng thiếp có nghĩa là sự phù phép giúp gặp được linh hồn người thân đã khuất. Như thế, ta có thể xem đây như một “bài ca hạnh ngộ”, một bài ca cầu hồn được Đinh Hùng tạo ra trong trạng thái “nửa chiêm bao lệ nhoà”. Bài ca ấy trỗi đi từ đôi môi của chàng thi sĩ si tình- một linh hồn đang lạc lõng trên cõi trần đi tìm một nửa đã mất: nàng Liên. Rõ ràng, Đinh Hùng là một kẻ cô đơn; Đinh Hùng là một kẻ tuyệt vọng; Đinh Hùng là một kẻ bị lưu đày trên đảo hoang bi kịch… Cho nên, Đinh Hùng phải kéo lê nỗi sầu muộn, đớn đau của mình mà đi suốt trăm năm, cho “hết chuyến luân hồi”…

Liệu có thể tìm được ở một thi sĩ nào khác trong nền thi ca Việt Nam những câu thơ “Gửi người dưới mộ” đau xót đến thế này?

Trời cuối thu rồi – Em ở đâu?

Nằm trong đất lạnh chắc em sầu?

Thu ơi! Đánh thức hồn ma dậy,

Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu.

Em mộng về đâu?

Em mất về đâu?

Từng đêm tôi nguyện, tôi cầu,

Đấy màu hương khói là mầu mắt xưa.

Một lần nữa, chúng ta nhận ra rằng: cái cảm hứng tâm linh trong Đinh Hùng, trong thơ ông chủ yếu dậy lên từ cái chết. Người đã chết nhưng chưa bao giờ thôi sống trong lòng ông. Sống và chết, giữa chúng là khoảng cách âm-dương, giữa chúng là cả một cuộc đời, giữa chúng là bi kịch của kiếp người. Và Đinh Hùng luôn muốn xoá nhoà, muốn san lấp đi cái khoảng cách ấy, cái khoảng cách mà ông đã ví như “vạn lí trường thành”. Do đó, dễ thấy sự lưỡng phân  lưỡng hợp nổi bật lên trong thơ ông là sự hợp nhất, đồng nhất thực tại và mộng ảo, cả sự sống và cái chết. Như thế, có gì lạ đâu khi thi sĩ luôn tìm cách vượt qua cái ranh giới tử-sinh để “đánh thức hồn ma dậy”; để nghe người yêu “ngồi bên cửa mộ kể nỗi niềm”; để hỏi người đã khuất  “Nắm xương khô lạnh còn ân ái?/ Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình?” Hơn nữa, ông còn khẳng định: “Mê em, ta thoát thân hình,/ Nhập hồn cây cỏ, đa tình mỗi đêm”. Và  đúng là điều này “thật là điên cuồng kì dị mà cũng thật là thơ mộng” như Phạm Việt Tuyền đã nhận xét [110].

Cũng như Chế Lan Viên, Đinh Hùng đã tạo ra một thế giới dị biệt với những xương người trắng hếu, những nấm mồ…và cả những cô hồn. Trước hết, chúng ta hãy đọc lại những câu thơ sau của Phan Ngọc Hoan:

Hỡi những hồn yêu tinh trong bóng tối

 Những thương vong uổng tử đáy mồ sâu

Hãy hiện lên trong ta lời truyền gọi

Đem cho ta, bây hỡi, chiếc đầu lâu.

(Xương vỡ máu trào)

Trên một nắm mộ tàn ta nhặt được

Khớp xương ma trắng tựa não cân người

Tuỷ đã cạn, nhưng vẫn đầm hơi ướt

Máu tuy khô, còn đượm khí tanh hôi.

(Xương khô)

Hãy tìm cho ta một nấm mộ hoang tàn

Đào đất lên, cậy cả nắp hòm săng

Hãy chôn chặt thân ta vào chốn ấy

Ta sẽ uống máu lan cùng tuỷ chảy

Ta sẽ nhai thịt nát với xương khô…

(Máu xương)

Và đây là những câu thơ của Đinh Hùng:

Giữa hoang địa hiện hồn toà u ngục.

Bừng mắt dậy lửa hồi sinh đỏ rực,

Thịt xương về trong cổ mộ xôn xao.

Hoả thiêu rồi! làn tử khí lên cao,

Chiều tái tạo bâng khuâng từng ngọn cỏ.

(Mê hồn ca)

Hài cốt lung linh, gấm phủ hồn,

Lìa vai, tinh thể khóc cô đơn.

Gợn màu lăng kính, trăng kinh dị,

Chắn nẻo luân hồi cánh cửa son.

                        Anh sẽ hồi sinh, Em tái sinh,

                        Hoà đôi thể chất, một thân hình.

                        Giác quan biển động, mưa đồng thiếp,

                        Trên thịt da đau, núi quặn mình.

(Trái tim hồng ngọc)

 Có thể nhận ra rằng trong Điêu tàn, Chế Lan Viên Phan Ngọc Hoan đã đẩy những câu thơ của mình lên cấp độ cao nhất của khả năng biểu cảm để khắc hoạ một thế giới đổ vỡ, tàn lụi làm người ta kinh sợ; cái nhìn của Chế Lan Viên được đặt trong cái chết, được đặt giữa lòng thế giới của cái chết mà phòng chiếu ra xung quanh. Còn Đinh Hùng thì đã viết ra những câu thơ mang nặng tính thần cảm trên trong khi đặt điểm nhìn hướng về cái chết – điểm nhìn đặt ở cái ranh giới giữa mộng và thực trong ham muốn xoá nhoà cái đường biên tử - sinh. Ở đây, điều chúng tôi muốn nhấn mạnh chính là sự khác biệt trong cái nhìn của hai nhà thơ: cùng một đối tượng là thế giới của cái chết, Chế Lan Viên nhìn thấy sự điêu tàn; Đinh Hùng còn thấy cả phượng hoàng tái sinh từ tàn tro. Vì thế giới ấy có Liên. Vì thế giới ấy là vĩnh cửu. Vì thế giới ấy dung chứa những khát vọng của Đinh Hùng, khát vọng “hoà đôi thể chất một thân hình”:

Đôi ta vào hội oan hồn,

Âm dương tái hợp-

Ồ! đây là cuộc tân hôn dị kì!

Nguyệt hoa mặc áo huyền vi,

Màu nghê thường đó – trời ơi! xiêm y biến hình!  

(Cầu hồn)

Vì trong cái thế giới ấy, thế giới bên kia thực tại, Liên tồn tại với tư cách như một nữ Bồ tát với khả năng cứu rỗi, dù hãy còn xa xăm:

Em vẫn là trăng xa rất xa

Là sao Thiên Trúc, cát Hằng Hà

Dáng em thu nhỏ trong lời nguyện

Phơ phất hồn thiêng cánh bướm ma.

Gót nhỏ lên thuyền một kiếp xưa

Em về, trăng mọc bến Chân Như

Người em hơi thở say mùi huệ

Mây trắng vương buồn mắt thái sơ.

(Trái tim hồng ngọc)

Nhưng Đinh Hùng hãy còn là một người đang sống. Như thế, giữa ông với Liên vẫn còn đó cái “vạn lí trường thành” kia và ông chỉ có thể vượt qua nó để tình tự cùng nàng Diệu Thư thông qua những cơn say, những cơn mơ và những cơn mê sảng. Để rồi những câu thơ của người thi sĩ “đi gọi bóng ma sầu trong núi hoang vu” ấy, của “sầu khách” mang “mảnh hồn đau lạc lõng dưới trăng tà” ấy sẽ đi vào lịch sử thi ca nước nhà với tư cách là những câu thơ kì dị nhất. Và có lẽ là rất lâu sau nữa, người ta hãy còn sửng sốt vì những câu thơ như thế này:

Giáng Tiên đâu? Thế kỉ gian tà,

Dạo chơi bình địa tưởng qua hải tần.

Đi đi cho hết dương trần,

Ngày mai tìm bóng Tử Thần mà yêu!

 (Tìm bóng tử thần)

Bên cạnh đó, sẽ là thiếu sót nếu tìm hiểu cảm hứng tâm linh trong thơ Đinh Hùng mà không đi vào những bài thơ được sáng tác trong những năm cuối đời của ông. Sau khi tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy là có hiện tượng cảm hứng tâm linh trong thơ Đinh Hùng đã bước ra khỏi thế giới của huyễn mộng, của cái chết và gắn với những sự kiện, những biến động của lịch sử. Hay nói một cách khác, cảm hứng tâm linh và cảm hứng lịch sử đã kết hợp lại với nhau.

Và đây là một ví dụ chứng minh cho điều chúng tôi vừa nói ở trên:

Chúng tôi mừng rỡ gọi nhau: Bình minh lên rồi!

                                                Bình minh chói rạng!

Chúng tôi run rẩy truyền đi tiếng vọng ngân dài âm hưởng ngàn thâu:

                        Quân Đội hoàn thành Cách mạng!

(…)

            Chúng tôi sẵn sàng tin- chúng tôi tin Tất Cả

            Những hiện tượng thần kì, những bóng dáng thần linh,

            Những huyễn ảnh (dù hoang đường mê hoặc) miễn sao giải thoát được u tình.

            Vì “nghiệp báo nhỡn tiền” sẽ thành Sự Thực:

            Những Suối Thần tượng trưng vô lượng bao dung tấm lòng Chư Phật

            Tay ngọc nhiệm mầu xoá hết thương đau.

            Những giọt lệ Từ Bi cứu khổ thế nhân sầu,

            Dòng lệ u huyền rung động cả pháp thân Bồ Tát.

            Thương xót chúng sinh, đá còn sa nước mắt,

            Thế kỷ này, ai bảo Đá vô minh?

 Chúng tôi trích những câu thơ trên từ bài Những dòng chữ lửa mà Đinh Hùng đã viết nhân sự kiện đảo chính chế lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Như vậy, sự hoà quyện vào nhau của cảm hứng tâm linh và cảm hứng lịch sử là điều không còn ai có thể chối cãi. Đây là một hiện tượng khá thú vị bởi vì so với các nhà thơ cùng thời với Đinh Hùng, hầu như chẳng có ai khi viết về đề tài lịch sử lại có những thi phẩm mang màu sắc tâm linh đậm nét đến như thế. Điều này không những cho thấy sự độc đáo mà còn cho thấy sự linh hoạt trong cái nhìn, trong cách đặt điểm nhìn của Đinh Hùng. Và rõ ràng ở lần này, ông đã nhìn một sự kiện lịch sử qua lăng kính tâm linh, từ điểm nhìn tâm linh thì mới có thể viết được những câu thơ như thế.

Charles Baudelaire đã viết:

Khoảng trời của các Thế giới tâm linh, không có lối vô

Cho con người bị quật ngã đang mơ tưởng và đau khổ,

Nay mở ra và đắm chìm với sức hấp dẫn của vực sâu.

(Bình minh tâm linh, Lê Trọng Bổng dịch)

Quả thật, đến với thi giới Đinh Hùng cũng là đến với “sức hấp dẫn của vực sâu” ấy.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114597344

Hôm nay

2272

Hôm qua

2320

Tuần này

2592

Tháng này

223961

Tháng qua

131357

Tất cả

114597344