Nhìn ra thế giới

Kỹ xảo đàm phán của Trung Quốc

 Năm 1999, Nhà xuất bản Thời Anh – Đài Bắc - Đài Loan xuất bản cuốn “Trung Cộng đàm phán như thế nào” của học giả Đài Loan Ngô Trường Chí dày trên 300 trang (chữ Trung quốc) gồm các chương như sau :

Chương I. Lời nói đầu;

Chương II. Hòa đàm thời cuộc chiến Quốc (dân đảng) Cộng (sản đảng)    (năm 1937);

Chương III. Đàm phán Trùng Khánh (năm 1945);

Chương IV. Đàm phán Quốc Cộng năm 1949.

Chương V. Đàm phán Trung Anh vấn đề Hồng Kông;

Chương VI. Đàm phán vấn đề Ma Cao (năm 1986 - 1987);

Chương VII. So sánh đấnh giá hành vi đàm phán Trung Cộng;

Kết luận.

Phụ lục. Tài liệu tham khảo

                                                                                  *

                                                                            *         *

Dưới đây là bản tóm lược những nội dung chính của cuốn sách.

I. Một số kiến thức chung về đàm phán..

Một chuyên gia về khoa hoc đàm phán của Mỹ nói rằng “Thế giới là một bàn đàm phán, mọi người tự giác hay không tự giác đều tham gia đàm phán.”

Đàm phánm là một nghệ thuật và cũng là một khoa học. Người ta dùng đàm phán để giải quyết tranh chấp mâu thuẫn, thuyết phục đối phương, hòa giải mâu thuẩn, giữ vững nguyên tắc, lập trường và yêu cầu lợi ích của mình.

Đàm phán là nhu cầu cho xã hội phát triển, giao lưu của con người, là thủ đọan giải quyết xung đột xã hội, là sản phẩm của cạnh tranh xã hội.

Động lực nguồn của sự tồn tại loài người là nhu cầu. Nhưng nhu cầu và các loại điều kiện của nhu cầu loài người là khác nhau đã dẫn đến loài người cạnh tranh nhau. Đàm phán cũng là chất bôi trơn để điều tiết mâu thuẫn xã hội. Dùng đàm phán có lợi hơn dùng vũ lực để giải quyết mâu thuẫn.

Đàm phán đã trải qua thời kỳ dài lịch sử. Lịch sử có ghi chép bằng văn tự về đàm phán sớm nhất là cuộc đàm phán về quấn sự của vương triều Ai cập cổ đại vào năm 1296 trước công nguyên. Còn hỉệp ước đa biên không xâm lược nhau sớm nhất là vào năm 651 trước công nguyên của Trung quốc. Đàm phán đã trải qua giai đoạn cổ điển và đang bước vào giai đoạn đàm phán hiện đại.

Đàm phán cổ điển có các tính chất đặc trưng : thường xuyên, chủ động, chú trọng lập trường nguyên tắc. Về hình thức là rất hoàn bị, nhưng về nội dung do hạn chế lịch sử về nhận thức, coi đàm phán là thủ đoạn phụ trợ cho chiến tranh.

Giai đoạn đàm phán hiện đại được hình thành khi văn minh tinh thần và văn minh vật chất phát triển lên, có tính chất đặc trưng chung là : tính phổ biến, tính tự giác và cân bằng lợi ích. Đàm phán của cân bằng lợi ích là cơ sở của tăng cường hợp tác nhân loại. Văn minh nhân loại càng cao, thủ đoạn của đàm phán ngày càng có hiệu quả, phạm vi càng rộng.

Trong thế kỷ 20 đã có trên 400.000 cuộc đàm phán, mỗi năm tăng 1.100 cuộc.

Đối tượng đàm phán có tính rộng rãi và không xác định, tính đa dạng và tùy cơ trong đàm phán, tính hợp tác và tính cạnh tranh trong đàm phán. Về mặt khoa học người ta khuyến nghị cần kiên trì nguyên tắc thực sự cầu thị, tránh chủ quan và siêu hình, phải xuất phát từ thực tế, lý luận kết hợp thực tế, không ngừng kiểm nghiệm và phát triển trong thực tiễn.

Có rất nhiều chủng loại đàm phán.

      Chia theo nội dung: đàm phán chính trị, đàm phán kinh tế, đàm phán văn hóa, đàm phán quân sự, v.v…

      Chia theo chủ thể: hai bên, nhiều bên, nội bộ, đối ngoại, đối đẳng, không đối đẳng, v.v…

      Chia theo hình thức: trực tiếp, gián tiếp,, bí mật, công khai, bằng văn bản, bằng miệng, v.v…

Nguyên tắc chung để đàm phán thành công: Trong quá trình đàm phán, người đàm phán cần tuân thủ các nguyên tắc: chân thành, thực sự, bình đẳng cùng có lợi, công bằng cạnh tranh, cầu đồng tồn dị, làm theo luật pháp, chuẩn bị chu đáo.

Nguyên tắc đàm phán là cơ sở chung của hai bên, là tổng kết khoa học của kinh nghiệm đàm phán thành công của nhân loại.

Trình tự đàm phán. Chung là chia 4 giai đọan: chuẩn bị, mở màn đàm phán, bàn bạc thương lượng, kêt cục đàm phán.

Trong giai đọan chuẩn bị, phải làm tốt mấy khâu: xác định mục tiêu đàm phán, thiết kế phương án đàm phán, tổ chức lực lượng đàm phán, làm thử đàm phán với đối thủ giả tưởng và chuẩn bị tốt tâm lý đàm phán. Sau chuẩn bị chu đáo, bước vào đàm phán chính thức.

Giai đoạn đàm phán chính thức có 6 giai đoạn nhỏ:

      a) Giai đoạn dẫn nhập: chủ yếu là người đàm phán các bên làm quen, nhận biết nhau, mấu chốt là tạo ra không khí thoái mái nhẹ nhàng, tạo thuận lợi cho đàm phán;

      b) Giai đoạn khái thuyết: Mục đích là để đối phương hiểu mục đích và cách suy nghĩ của mình, nhưng lại không để lộ đáy của mình, tìm mọi cách hiểu được đáy của đối phương;

      c) Giai đoạn biểu thị: hai bên tỏ rõ ý kiến và yêu cầu của mình, để cùng nhau bàn bạc thảo luận trong đàm phán;

      d) Giai đoạn tranh giành: Hai bên ăn miếng trả miếng, triển khai sách lược của mình để mở rộng lợi ích của phía mình, thể hiện trạng thái đối kháng và cạnh tranh, không phải một bên thắng và một bên bại, mà lợi dụng nguyên tắc “đưa ra và tiếp nhận, cho và lấy” để tìm ra phạm vi thỏa hiệp hai bên;

      đ) Giai đoạn thỏa hiệp: là bộ phận không thể thiếu trong đàm phán. Nếu không có thỏa hiệp, tranh gianh cứ tiếp tục không ngừng, đàm phán sẽ tan. Đàm phán đi đến được thỏa hiệp mới là đàm phán có thành công. Nhưng phạm vi thỏa hiệp, phải có dự kiến sẵn trong ruột, phải đạt cho được mục tiêu dự định của đàm phán. Nếu đạt không được mục tiêu gần kề của mình mà phải thỏa hiệp, là không thành công của đàm phán;

      e) Giai đoạn hiệp nghị: Qua giai đoạn tranh giành và thỏa hiệp, hai bên cho rằng về cơ bản đạt được yêu cầu của mình, là biểu thị ngã giá đồng ý, sau đó đại biểu hai bên ký tên vào hiệp nghị, tay bắt lời chào, kết thúc đàm phán.

Tố chất người đàm phán và tiêu chuẩn thành công của đàm phán:

- Yêu cầu tố chất người đàm phán rất cao, vì thực hiện mục tiêu đàm phán là dựa vào con người để hoàn thành. Vì vậy người đàm phán phải có chính trị kiên định, đạo đức tốt, tâm lý lành mạnh ổn định, có kinh nghiệm xã hội sâu rộng, kiến thức uyên bác, có năng lực đàm phán siêu việt, nghiêm khắc tuân thủ qui phạm hành vi người đàm phán.

- Tiêu chuẩn đánh giá thành công thất bại phải khoa học, khách quan, không thể dùng cảm tính chủ quan để đánh giá. Như nếu lấy có đánh gục được đối phương không, có thỏa mãn yêu cầu của mình không, được lợi nhiều ít, … để đánh giá thành bại đàm phán là không đúng.

Tiêu chuẩn đàm phàn đúng đắn là từ 4 mặt để xét:

- Mỗi bên đếu là người thắng lợi, không phải kết cục bên này ép bên kia, nuốt bên kia, mà là thống nhất giữa cạnh tranh và hợp tác;

- Yêu cầu của mỗi bên đều có thể được thỏa mãn về cơ bản;

- Kết cục đàm phán phù hợp lợi ích chỉnh thể và lợi ich lâu dài của phía mình;

- Đàm phán cần phù hợp quan niệm hiệu suất của xã hội hiện đại.

Bất cứ đàm phán nào phù hợp 4 tiêu chuẩn trên là có thể coi là đàm phán thành công.

Như vậy đàm phán phải là một môn nghệ thuật, khoa học, không thể không học mà tự biết được, mà phải học thực sự.

Kỹ xảo nghệ thuật và sách lược đàm phán.

Đàm phán là sự đọ sức về trí tuệ, lời nói, tâm lý của người đàm phán. Kỹ xảo và sách lược đàm phán là được hình thành trong thời kỳ dài lịch sử của nhân loại, là kết tinh thực tiễn vĩ đại của loài người, khái quát lại có mấy điểm nổi bật nhất là:

      a) Kỹ xảo của lôgích đàm phán, như sách lược tính thời cơ trong đàm phán chính trị; tìm phương pháp phá vỡ thế gay cấn trong đàm phán kinh tế đều thông qua vận dụng kỹ xảo lôgích.

      b) Kỹ xảo trong ngôn từ đàm phán. Đàm phán là dựa vào lời nói để truyền đi và trao đổi thông tin. Kỹ xảo ngôn từ đàm phán gồm nghệ thuật ngôn từ có lời nói và ngôn từ không có lời nói, ngoài ra còn có kỹ xảo không gian giao tiếp con người.

Kỹ xảo ngôn từ có lời nói gồm: nghe, hỏi, đáp, thuật, trình bày và thuyết phục. Kỹ xảo ngôn từ không có lời nói gồm: kỹ xảo ngôn ngữ thân thể, kỹ xảo ngôn ngữ vật thể. Không thể coi thường vai trò của kỹ xảo ngôn ngữ không lời nói trong đàm phán (như động tác Môlôtốp ôm chặt cánh tay phải Churchil sau kết thúc đàm phán Xô-Anh chống bọn Mut-xô-li-ni, có hàm ý sâu xa). Lời nói hài hước có tác dụng phá tan không khí nặng nề trong đàm phán.

Ngoài ra còn có kỹ xảo sách lược khác trong đàm phán như các phép thả khí cầu thăm dò (ném đá hỏi đường), phép thông tin, kế không thành, dương đông kích tây, bới lông tìm vết, hồi ký lịch sử, xuất kỳ chế thắng, thời hạn cuối cùng.

II. Cách thức đàm phán của Trung Cộng.

Đàm phán đã trở thành một bộ phận của đời sống nhân loại, cũng là thủ đoạn quan trọng của cá nhân, xã hội, cho đến quốc gia dùng để xử lý xung đột lợi ích. Nhưng lý luận khoa học về đàm phán đang trong quá trình hình thành.

Các giới khoa học về đàm phán đã bằng cách tiếp cận nơi có số cuộc đàm phán của Trung quốc vào các thời kỳ khác nhau để phân tích tìm ra đặc điểm hành vi đàm phán của Trung Cộng. Gồm đàm phán Quốc-Cộng năm 1937, đàm phán Trùng khành năm 1945, đàm phán Quốc-Cộng năm 1949, đàm phán Trung-Anh về Hồng kông và đàm phán Trung-Bồ về Ma-cao.

Trong 5 cuộc đàm phán đó, 3 cuộc đầu là đàm phán nội bộ, 2 cuộc sau là đàm phán đối ngoại. Trong đàm phán nội bộ cũng như đối ngoại có lúc đối đẳng, có lúc không đối đẳng quyền lực và thực lực thay đổi từng thời kỳ của mỗi bên, dẫn đến sách lược và hành vi đàm phán của Trung Cộng cũng khác nhau:

Thực lực của Trung cộng và Quốc dân đảng.

Thời gian             Quân Q dân đảng          Quân đảng C.sản             Tỷ lệ

Tháng 7-1946         4,3 triệu quân               1,2 triệu quân                 3,58/1

Tháng 6-1947         3,73  -     -                     1,95  -    -                        1,9/1

Tháng 6-1948         3,65  -     -                     2,8    -    -                        1,3/1

Tháng 6-1949         1,149 -    -                     4,00  -    -                        0,3/1

 Quyền lực Trung Công qua các thời kỳ.

 

Cáccuộcđà/phán

        Mạnh

          Yếu

     Ghi chú

Đàphán Qu/Cộng

         (1937)

   Chính phủ

Quốc dân đảng

Đảng Cộng sản      Trung quốc.      

Không đối đẳng

Đàm phán Trùng khánh (1945)        

   Chính phủ

Quốc dân đảng

Đảng Cộng sản

   Trung quốc

Đảng CSTQ có năng lực thách thức CP QD đảng

Đàm phán Quốc-Cộng (1949)

Đảng Cộng sản

  Trung quốc

    Chinh phủ

Quốc dân đảng

Không đối đẳng.

      Đàm phán

     Trung-Anh

  Trung Cộng

      Anh quốc

Anh có con bài Hiệp ước kinh tế và dân ý.

       Đàm phán

       Trung-Bồ

    Trung Cộng

    Bồ Đào Nha

Không đối đẳng.

                                                                                                                                                                                                                                                                                   

Hành vi đàm phán các giai đoạn của Trung Cộng.

Các đà/phán  Cứng rắn   Kiên trì   Nhương bộ   Yếu ớt  Hợp tác  Cứng+Mềm

Đà/phán QC         -               -               +                  -             -                +

 (1937)

Đà/phánTrgkhah   -              +               -                  -              -                +              

  (1945)

Đà/phán QC          +              +               -                  -              -                -

   (1949)

Đà/phán Trg/Anh   -              +               -                  -               -               +

Đà/phán Trg/Bồ     -               -               -                   -              +               +    

 

Thời gian, không gian, thực lực, quyền lực các bên khác nhau, hành vi đàm phán của Trung cộng cũng khác nhau qua từng cuộc đàm phán. Qua phân tích nghiên cứu kết quả sau mỗi cuộc đàm phán, qui nạp lại rút ra một số đặc điểm hành vi đàm phán của Trung Cộng như sau:

- Đàm phán Quốc - Cộng thời chống Nhật (1937), rút ra 11 đặc điểm:

1) Phối hợp về tuyên truyền;                    2) Phối hợp về tổ chức;

3) Kiên trì về nguyên tắc     ;                    4) Đề cao chủ nghĩa dân tộc;

5) Sách lược tính giai đoạn;                      6) Tranh thủ sự đồng tình ủng hộ;

7) Kết quả có tính không-tổng;                  8) Lợi dụng tính mâu thuẫn;

9) Tạo ra khủng hoảng;                            10) Dùng Mặt trận thống nhất   

11) Kiên trì quyết tâm đến cùng.                     chống nhau;

(Không – Tổng = Zero – Sum, một bên không được gì, một bên được tất cả, được tổng.)

- Đàm phán Trùng Khánh (1945), rút ra 9 điểm:

 1)Trước tiên xác định rõ nguyên tắc đàm phán;

2) Cùng ngôn ngữ, nhưng giải thích khác nhau;

3) Xây dựng quan hệ;                                 4) Chuẩn bị đầy đủ;

5) Ngụy trang thiệnchí, tạo hình ảnh giả;    6) Đàm phán hòa không-không;

7) Hành vi khác nhau khi quyền lực khác nhau;

8) Đặc tính người đàm phán;                  9) Mô thức tư tưởng bọn phỉ.

- Đàm phán Quốc-Cộng (1949), rút ra 9 điểm:

1) Công kích trung tâm lãnh đạo;             2) Tác phong ngang ngược, dữ dội;

3) Mô thức không – tổng;                         4) Lựa chọn đại biểu đàm phán;

5) Tạo ra hòa bình cục bộ;                        6) Cùng sử dụng hòa và chiến;

7) Kiên trì nguyên tắc;                              8) Thái độ không chút thỏa hiệp;

9) Lời nói phần nhiều là uy hiếp, coi khinh.

-Đàm phán Trung – Anh, rút ra 11 điểm:

1) Tính nhất quán từ trên xuống dưới;        2) Trước sau bất nhất;

3) Giữ vững nguyên tắc và tính co dãn về tiểu tiết;

4) Đề cao chủ nghĩa dân tộc;                       5) Tranh thủ dân ý;

6) Tính ưu tiên chính trị;                             7) Xây dựng quan hệ;

8) Lợi dụng tính bức bách về thời gian;      

9) Tính lịch sử của tâm thái người thống trị;

10)Lợi dụng báo chí truyền thông;              11) Tính mơ hồ của đàm phán.

- Đàm phán Trung-Bồ, rút ra 8 điểm:

1) Xóa bỏ hiểu lầm;                                        2) Đàm phán kiểu bầu bạn;

3) Tranh thủ dân chúng ủng hộ;                     4) Chuẩn bị đầy đủ;

5) Co dãn vận dụng;                                       6) Vận dụng báo đài;

7) Lựa chọn địa điểm;                                    8) Kiên trì nguyên tắc.

 Từ các đặc điểm rút ra trên cho thấy: 1) có số điểm lần đàm phán nào cũng sử dụng, có điểm chỉ xuất hiện khi Trung Cộng là thế yếu hoặc thế mạnh, v.v… Như kiên trì nguyên tắc cả 5 cuộc đều xuất hiện. 2) Mô thức đàm phán không - tổng (zero - Sum) có 3 lần và đều với đàm phán Quốc-Cộng. Đây là do Trung Cộng quyết giành chính quyền với Quốc dân đảng, nên không chút nhân nhượng. Tranh thủ sự ủng hộ của dân chúng cũng xuất hiện 3 lần.Về lợi dụng báo chí, lợi dụng xây dựng quan hệ, tuy ghi số lần ít hơn, nhưng thực tế Trung Cộng đều coi trọng lợi dụng hai điểm này.

Các điểm trên có điều giống nhau và khác nhau trong vận dụng khi thế yếu và thế mạnh.

Chỗ giống nhau:

1)Kiên trì nguyên tắc: Trong đàm phán năm 1937, kiên trì nguyên tắc là kiên trì sự lãnh đạo của đảng CS đối với quân đội CS, tuyệt đối không để quân đội CS bị “hòa tan” vào quân Quốc dân đảng. Trong đàm phán Trùng khánh năm 1945, Trung Cộng tranh thủ mở rộng biên chế quân đội, kiên trì chính quyền vùng Xô viết giải phóng cho đến đàm phán Quốc - Cộng năm 1949, Trung Cộng quyết không nhượng bộ 8 khoản 22 điều mà Trung Cộng đề ra. Căn cứ các điều này, chính phủ Quốc dân đảng giao lại chính quyền cho đảng CS, khác nào đầu hàng CS.

2) Mô thức đàm phán không-tổng (zero-Sum). Đàm phán năm 1937, mục tiêu Trung Cộng là làm sao không bị Quốc dân đảng tiêu diệt, do đó muốn hợp tác Quốc Cộng lần hai. Đàm phán Trùng khánh năm 1945, chỉ là bề ngoài đạt được hiệp nghị song thập, sự thực thì Trung Cộng không giao nộp 1 viên đạn, 1 khẩu súng, mà còn muốn đấu tranh đến cùng với Quốc dân đảng. Đàm phán năm 1949, tác phong ngang ngược dữ dội, Trung Cộng đưa ra điều kiện nghiệt ngã. Đàm phán Quốc Cộng về cơ bản có tính không-tổng (zero-sum).

3) Phối hợp về tuyên truyền, tổ chức. Trong đàm phán Quốc Cộng năm 1937, Trung Cộng tuyên truyền là chính phủ Quốc dân đảng không chống Nhật, động viên các đoàn thể xã hội tạo khủng hoảng gây sức ép với chính phủ, và tuyên truyền với quân đội Đông bắc (của Quốc dân đảng) là ngư\ời Trung quốc không đánh người Trung quốc.

Chỗ khác nhau:

1)Đối chọi gay gắt, hòa chiến cùng sử dụng. Ngày 14/01/1949, Tuyên ngôn về thời cuộc mà Mao Trạch Đông phát ra, còn đưa 8 điều kiện. Nhưng ngày 15/01, quân đảng CSTQ vây đánh Thiên tân, sau khi lấy được Thiên tân, tiếp tục bao vây Bắc kinh, muốn cùng Phó Tác Nghĩa thương lượng giải quyết vấn đề hòa bình giải phóng Bắc kinh. Sau khi Phó Tác Nghĩa đầu hàng Trung Cộng, Trung Cộng liền tích cực triển khái xuống phía nam chuẩn bị tấn công, lúc này Trung Cộng lại chuẩn bị đàm phán với chính phủ Quốc dân đảng. qua đây chứng tỏ Trung Cộng khi đã có thực lực càng không dễ nhẹ nhàng thỏa hiệp, mà áp dụng thủ đoạn đối chọi gay gắt, hòa chiến cùng sử dụng. Cho nên, đối với Trung Cộng mà nói, đánh là để cho đàm, đàm lại phải đứng chân ở đánh, lấy đánh làm hậu thuẫn cho đàm.

2) Đưa ra đàm phán. Đàm phán Quốc Cộng năm 1937 và 1949, hai bên đưa ra trước sau là có khác nhau. Quân của đảng CS, sau lần vây quét thứ 5 của Quốc dân đảng, chỉ còn hơn 2 vạn quân. Lúc này Trung Cọng bằng mọi cách yêu cầu quân Quốc dân đảng ngừng tấn công, muốn đàm phán với Quốc dân đảng. Còn năm 1949, lại do Quốc dân đảng đưa ra trước đề nghị đàm phán, với thế phía yếu đưa ra trước yêu cầu đàm phán. Đồng thời cũng tỏ rõ khi quyền lợi thay đổi, là nẩy sinh thời cơ đàm phán.

3) Lựa chọn đại biểu đàm phán. Đàm phán năm 1949, đại biểu của đoàn Quốc dân đảng là Bành thúc Hiền, Trung Cộng cho Bành là phái CC (Chống Cộng – Contre Communis), không tiếp nhận, các người khác trong đoàn cũng phải được Trung Cộng đồng ý. Qua phân tích, những đại biểu đàm phán này, không phải đồng tình Trung Cộng, thì cũng là những nhân sỹ có quan hệ lâu dài với Trung Cộng, cho nên sau khi đàm phán tan vỡ, họ đều nhảy sang Trung Cộng.

4) Tác phong ngang ngược. Trong đàm phán năm 1949,Trung Cọng ngoài việc lựa chọn đại biểu của phía Quốc dân đảng ra, còn quyết định cả thời gian, địa điểm đàm phán. Gọi chính phủ Quốc dân đảng ở Nam kinh là chính phủ phản động, liệt các thành viên chính phủ là tội phạm chiến tranh. Khi đàm phán, đại biểu Trung cộng ở thế trên, đại biểu Quốc dân đảng ở thế dưới. Nghiễm nhiên Trung Cộng đang tiếp nhận đầu hàng. Trong đàm phán, Chu Ân Lai nhiều lần chỉ trích gay gắt Quốc dân đảng.

5) Lời nhiều uy hiếp. Năm 1937, lúc Trung Cộng ở thế yếu, hết sức nhún nhường, nào là thừa nhận Tưởng Giới Thạch là Tổng thống, luôn hô Tưởng muôn năm, đồng ý đưa quân của đảng CS nhập vào quân chính phủ, thừa nhận lấy chủ nghĩa Tam dân để xây dựng đất nước, v.v…Nay ở thế mạnh lại lật ngược 180 độ. Từ đó người ta rút ra là nghe Trung Cộng nói không bằng xem Trung Cộng làm.

Ở trên là những điểm rút ra từ đàm phán nội bộ. Còn đàm phán đối ngoại với Anh và Bồ cũng phát hiện một số điểm.

Chỗ giống nhau:

1) Kiên trì đối với nguyên tắc.Kiên trì nguyên tắc không chỉ trong đàm phán nội bộ, mà trong bất cứ lúc nào, nơi nào, đối tượng nào, Trung Cộng vẫn kiên trì nguyên tắc. Như kiên trì chủ quyền của Trung cộng ở Hồng Kông. Lúc đầu Trung Cộng cho rằng chủ quyền Hồng Kông là không dễ đàm phán, sau đó Anh quốc nghĩ mở ra lối sau về giữ lại trị quyền (quyền cai trị), nhưng Trung Cộng kiên trì đến cùng. Hoặc vấn đề Ma cao, Bồ Đào Nha muốn sau năm 2000 giao lại Trung quốc, nhưng Trung quốc kiên quyết thu về trước năm 2000, thực tế thực hiện vào năm 1999.

2) Chủ nghĩa dân tộc. chủ nghĩa dân tộc là vũ khí lợi hại về đối ngoại của Trung Cộng. Năm 1937, Nhật xâm chiếm Trung quốc là lá bùa hộ mệnh tốt nhất của Trung cộng, đã chuyển được mục tiêu vây quét đảng CS sang chống Nhật của Quốc dân đảng. Trong đàm phán Trung - Anh, Trung Cộng cho rằng điều ước là không có hiệu lực, vì đó là sản phẩm của chủ nghĩa đế quốc thế kỷ XIX dùng chính sách pháo hãm để xâm lược Trung quốc, là sự sỉ nhục lớn đối với nhân dân Trung quốc, nhân dân Trung quốc không thể tiếp nhận. Vận dụng chủ nghĩa dân tộc đã làm tăng thêm sức nặng của Trung Cộng.

3) Vận dụng chiến lược chiến thuật. Trong các đàm phán đều lấy chiến lược chiến thuật linh hoạt để ra sức chiếm ưu thế trong đàm phán. Trong đàm phán Trung - Anh, hai bên đều có quyền lực của mình, nhưng Trung Cộng đã lấy “một nước hai chế độ” và “người Hồng Kông quản lý Hồng Kông” làm chiến lược tối cao, cùng vận động các chiến thuật phối hợp về tổ chức động viên, báo chí thông tin, động viên quần chúng bức bách thời gian, tạo quan hệ, tranh thủ đồng tình ủng hộ, v.v… làm cho “thuyết điều ước” của Anh không cách gì tiếp tục duy trì được, con bài kinh tế, dân ý đều không thể triển khai, cuối cùng chỉ có giao cho Trung Cộng cả chủ quyền và trị quyền về Hồng Kông.

 Chỗ khác nhau:

1) Tính chất và kết quả khác nhau. Chủ đề, tính chất đàm phán có nhiều loại, như rút quân, ngừng bắn, đất thực dân, hải quan, mậu dịch, v.v…

Đàm phán Quốc - Cộng chủ yếu là đàm phán quân sự, chính trị, chính quyền, là đàm phán nội bộ, giữa chính phủ với chính đảng. Kết quả cuối cùng của đàm phán là dùng vũ lực để quyết đoán.

Còn đàm phán Trung - Anh, Trung - Bồ là đàm phán có tính chính trị và ngoạị giao, đàm phán giữa nhà nước với nhà nước giải quyết vấn đề qui thuộc chủ quyền. Kết quả cuối cùng là đi đến hiệp nghị, không phải bằng vũ lực giải quyết.

2) Đàm phán kiểu bầu bạn. Đàm phán Trung - Bồ, Trung Cộng gọi là đàm phán kiểu bạn bè. Quyền lực, thực lực hai bên chênh lệch lớn, Bồ vốn đã có ý định trao trả, hai bên không có tranh chấp gì. Đây có thể là trường hợp ngoại lệ.

3) Tính lịch sử của người thống trị. Người thống trị của Trung quốc là Đặng Tiểu Bình có tâm nguyện thống nhất đất nước khi còn sống, cho nên đã đưa ra mô thức “một nước hai chế độ” không chỉ cho Hồng Kông, Ma cao, mà cả cho Đài loan.

4) Người nhảy vào khác nhau. Đàm phán năm 1937, về quốc tế có Nhật, Liên Xô đều có ảnh hưởng đến. Đàm phán Trùng khánh năm 1945, Mỹ đóng vai trò đứng giữa vòng xoay, cả Trung Cộng và Quốc dân đảng đều liên quan đến nguồn quân sự, kinh tế của Mỹ, cả hai đều nghe ngóng. Đàm phán năm 1949, chính phủ Quốc dân tìm đủ cách lôi kéo lực lượng quốc tế vào can dự, xoay chuyển, nhưng đều không được. còn đàm phán Trung - Anh, Trung - Bồ không có can dự quốc tế.      

 5)Đàm phán không - tổng và hợp tác. Trong đàm phán Quốc - Cộng, Trung Cộng lấy đàm phán làm thủ đoạn, cho nên thường chiếm ưu thế về kết quả đàm phán. Bắt đầu đàm phán từ năm 1937 đến 1949, Trung Cộng càng đàm phán, quyền lực càng lớn, điều kiện đưa ra ngày càng cao, cuối cùng kết quả của Quóc dân đảng là con số không. Trung Cộng đàm phán với Anh, Bồ về Hồng Kông, Ma cao, tuy không phải là đàm phán nội bộ, kết quả đàm phán, Trung Cộng vẫn là chiếm ưu thế. Phía Anh, Bồ còn hy vọng có quan hệ hợp tác kinh tế với Trung Cộng về sau, nên đây cũng là một mục đích cùa Anh, Bồ trong đàm phán, nên không gây ra căng thẳng.

Ngoài ra về địa điểm đàm phán Anh, Bồ, Trung Cộng chọn Bắc kinh, là nơi thiên thời địa lợi, tâm lý, v.v.. có lợi cho Trung Cộng.

 III. Tính chất đặc điểm đàm phán Trung Cộng

Từ phân tích các cuộc đàm phán trên, chỉnh lý tổng hợp lại, thì hành vi đàm phán của Trung Cộng co các tính chất đặc điểm sau:

  1. Chuẩn bị đầy đủ.

Xưa nay, Trung Cộng trước khi đàm phán đều chuẩn bị rất công phu, đầy đủ. Mao đã từng nói:”chúng ta đã cho phép đàm phán, là phải chuẩn bị một đầu óc tỉnh táo để đối phó với đối phương áp dụng chính sách Tôn Hành Giả chui vào bụng, cái quạt công chúa và yêu quái tác quái. Chỉ có chúng ta chuẩn bị đầy đủ về tinh thần, chúng ta có thể chiến thắng bất kỳ Tôn Hành Giả yêu quái tác quái nào”.

Bất cứ lúc thế yếu hay thế mạnh, Trung Cộng đều chuẩn bị kỹ lưỡng. Chung mà nói, bên ở vào thế mạnh là không muốn vào đàm phán, mà là một phương pháp vận dụng của thế yếu, làm cho bên mạnh bước vào bàn đàm phán.

Đàm phán Quốc-Cộng từ năm 1937 – 1949, Trung Cộng đều đưa ra chủ đề và phương án đàm phán. Như đàm phán năm 1937, Trung Cộng đưa ra 5 yêu cầu và 4 bảo đảm. Đàm phán Trùng khánh, Trung Cộng đưa ra 8 vấn đề (Hội nghị chính trị, Đại hội quốc dân, vấn đề tự do, Đảng chính quyền, thả chính trị phạm, vấn đề vùng giải phóng, quân đội, tiếp nhận đầu hang của Nhật). Ngoài ra Chu Ân Lai, Vương Nhược Phi còn đưa ra 11 phương án đàm phán. Tổng hợp các vấn đề này lại là tập trung vào tranh thủ quyền lực về chính trị và quân sự. Ngược lại, chính phủ Quốc dân không đưa ra phương án đàm phán nào, chỉ cho rằng Trung Cộng đưa ra vấn đề gì cũng được, nhưng lại bị Trung Cộng chỉ trích là thiếu thành ý. Lúc này chính phủ Quốc dân ở vào thế thủ không tấn công. Đàm phán năm 1949, Trung Cộng đồng ý khi đàm phán sẽ đưa ra 8 phương án, nhưng đến bàn đàm phán Trung Cộng càng đưa ra 8 khoản 22 điều. Rõ ràng, trước đàm phán Trung Cộng chuẩn bị rất kỹ càng.

Đàm phán Trung-Anh về Hồng Kông cũng vậy. Trước đàm phán đã điều chỉnh hệ thống lãnh đạo, lập Văn phòng công tác Hông Kông – Ma cao trong Quốc vụ viện, nâng cấp Ủy ban công tác Hông Kông-Ma cao lên đơn vị cấp tỉnh. Trước khi bước vào giai đoạn 2 đàm phán, sau khi Hứa Gia Đốn đến Hồng Kông từ điều chỉnh tổ chức, tranh thủ kinh phí nhân viên đến tranh thủ lòng người đều làm rất công phu. Đó đều là công việc chuẩn bị cho đàm phán.

Đàm phán về Ma cao cũng vậy, không vì Bồ ở vào thế yếu mà không chuẩn bị kỹ.

Trong đàm phán cấp Đại sứ Trung quốc với Mỹ, Vương Bình chỉ rõ là dưới sự chỉ đạo Của Chu Ân Lai, đã chuẩn bị các mặt:

1) Trang phục, để trân trọng tham gia hội nghị quyết định chuyên viên đoàn đại biểu đều may mỗi người một bộ Tôn Trung Sơn.

2) Định ra kỷ luật đoàn đại biểu. Bất cứ chuyên viên nào đều phải tuân thủ chế độ và kỷ luật của đoàn đại biểu.

3) Diễn thử trước khi đàm phán, để ứng phó các tình huống đều làm thử trước.

4) Phân công chuyên môn: Đối với công việc khác nhau gíao cho thành viên khác nhau đảm trách.

5) Lựa chọn đầu bếp: Lựa chọn 2 đầu bếp giỏi để phục vụ mời khách gây quan hệ tốt trong thời gian hội nghị.

Chuẩn bị kỹ lưỡng trước mỗi cuộc đàm phán là đặc tính hành vi đàm phán của Trung Cộng.

2) Kiên trì nguyên tắc và co dãn về chi tiết.

Năm 1949 Mao đã từng nói:”Tính nguyên tắc của chúng ta là phải kiên định, chúng ta cũng phải vì tất cả của tính nguyên tắc, cho phép và cần thiết linh hoạt”.

Như lúc thế yếu năm 1937, hết sức nhân nhượng, thậm chí có thể đổi quân đội đảng CS thành quân cách mạng quốc dân, nhưng không thể thay đổi sự lãnh đạo của đảng CS. Trong đàm phán Trung-Anh cũng gặp xã hội không ổn định, cổ phiếu sụt xuống, nhưng không nhượng bộ chủ quyền và trị quyền đối với Hồng Kông.

Trong đàm phán Trung-Bồ, Trung Cộng kiên trì thu Ma cao về trước năm 2000. Mô thức “một nước hai chế độ”, hai chế độ ở đây, Trung Cộng cho phép về kinh tế duy trì chế độ tư bản, nhưng về chính trị dứt khoát không cho phép.

Như trong vấn đề Đài loan, lâu nay Trung Cộng vẫn kiên trì từ các vấn đề nguyên tắc: vấn đề Đài loan là vấn đề nội bộ Trung quốc, nguyên tắc một Trung quốc.

3)Tính tranh thủ quan hệ.

Trong đàm phán Trung Cộng rất tích cực xây dựng quan hệ, tranh thủ quan hệ, nhằm tạo ra môi trường tốt cho đàm phán. Việc xây dựng quan hệ được bắt đầu từ nhiều mặt, như tranh thủ tình hữu nghị trước đây trong đối thủ đàm phán, tìm lại bạn bè cũ trong đối phương, xây dựng quan hệ với phía thứ ba. Cho nên trong đàm phán năm 1937, bạn bè, thầy giáo, quen biết cũ…không ngừng gửi thư đến tác động. Đàm phán Trùng Khành, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai cũng hoạt động tích cực xây dựng các quan hệ.

Về quan hệ với phía thứ ba,Trung Cộng thường dùng danh nghĩa môi giới để tiếp xúc với đối phương. Như trong đàm phán Quốc Cộng dùng cái gọi là “Nhân sỹ dân chủ” hoặc “Đồng minh dân chủ”. Trong đàm phán Trung-Mỹ trước đây, thường dùng Liên Xô làm người thứ ba. Đàm phán chiến tranh Triều tiên, Trung Cộng dùng Anh và Ấn độ làm người trung gian. Lập lại quan hệ ngoại giao Trung - Mỹ cũng thông qua Pakistan chắp nối. Việc lựa chọn người thứ ba, tuy không có một chuẩn mực nhất định, nhưng quyết không phải là người chống lại Trung quốc. Trong tìm kiếm quan hệ với Mỹ là bằng cách tiếp cận những nhân sỹ cấp cao trong chính phủ Mỹ và có thể hiểu được quan điểm chính trị và lợi ích của Trung quốc, đồng tình với Trung quốc. Từ đó Trung quốc chú ý xây dựng quan hệ hữu nghị, thân thiết với họ, lôi kéo họ, nắm họ. Những người này đã có tác động nhất định đối với đàm phán.

Đàm phán Trung-Anh, Trung-Bồ, không có người thứ ba tham gia vào, Trung quốc không cho phép người thứ ba can thiệp. với nguyên tắc chủ quyền, đến đoàn đại biểu Hồng Kông cũng bị Trung Cộng đảy ra ngoài, không được tham gia.

4) Tính bức bách của nguyên tắc và tinh thần.

Trung Cộng thường lấy nguyên tắc hoặc tinh thần để gây sức ép đối phương, sau hội đàm thường dùng các hình thức “Nguyên tắc nào đó…”, “Kỷ yếu hội họp”, “Thông cáo chung báo chí”, “Tuyên bố chung”, v.v… để phát biểu ra ngoài, mà lấy hình thức Hiệp ước chính thức hoặc hình thức Hiệp ước rất cụ thể để xử lý. Điều này hầu như phản ứng co dãn của Trung Cộng bằng cách mơ hồ câu chữ, để có thể đàm phán sau hoặc gây sức ép hơn nữa đối phương, nhằm đưa ra căn cứ mạnh mẽ khi thực hiện “tinh thần” Hiệp nghị, đồng thời cũng phản ánh Trung Cộng không tin cậy vào phương thức dùng biện pháp pháp luật xử lý vấn đề, Trung Cộng tin tưởng vào quan hệ tốt phù hợp lợi ích quan trọng, mới là bảo đảm quan trọng nhất của Hiệp nghị chính trị. Kiểu lợi dụng tinh thần và nguyên tắc này, đều thể hiện trong các cuộc đàm phán. Như trong đàm phán Trùng khánh, Trung Cộng trước tiên đưa ra nguyên tắc hòa bình, dân chủ, tiếp đó đưa ra yêu cầu quốc gia hóa quân đội, dân chủ hóa chính trị, vấn đề chính quyền vùng giải phóng. Những yêu cầu này đều từ nguyên tắc trên mà đề ra.

 5) Xây dựng không khí êm đẹp.

Xây dựng không khí êm đẹp trong đàm phán là tác phong lâu nay của Trung Cộng, là công việc quan trọng hàng đầu. Như trong và sau khi đàm phán tổ chức cho đoàn đàm phán đi thâm quan, xem văn nghệ, chiêu đãi, v.v…

6) Tính chủ nghĩa dân tộc là trên hết.

Cộng không chỉ nhấn mạnh chủ nghĩa dân tộc, mà càng lợi dụng chủ nghĩa dân tộc, thậm chí hòa trộn với chủ nghĩa yêu nước, trở thành một sức mạnh to lớn. Cho nên trong các cuộc đàm phán đều vận dụng lực lượng này làm hậu thuẫn.

7) Tính không xác định của lời hứa.

Đàm phán Quốc – Cộng nhiều lần, tuy cũng đạt được một số Hiệp nghị, nhưng Trung Cộng đều không tuân thủ, chủ yếu là họ còn để tranh thủ càng nhiều lợi ích hơn. Thường là Hiệp nghị ký là một chuyện, nói là một chuyện, làm lại là một chuyện khác. Bề ngoài là thế, nhưng bên trong, đằng sau đều có tính toán khác và làm khác. Khi cần thiết, tạo ra khủng hoảng để bàn lại, thương lượng lại.

Như thời chống Nhật, đàm phán nhất trí là Cộng quân đổi thành quân cách mạng quốc dân. Nhưng thực tế vẫn không ngừng mở rộng thực lực, nên xẩy ra “sự kiện Tân Tứ quân”.

Sau chống Nhật, tuy Quốc –Cộng ký được “Hiệp định song thập”, nhưng trên thực tế vẫn luôn xẩy ra đụng độ.

Trong đàm phán Trung - Anh, Trung Cộng nói là không đóng quân ở Hồng Kông, nhưng sau đó Đặng Tiểu Bình nói:”không đóng quân còn gọi là lãnh thổ của Trung quốc không ?” Cho nên đã đóng quân, v.v…

Trung Cộng thường nói:”Chúng tôi đã nói là chắc chắn, không làm tác động nhỏ”, nhưng thực tế qua nhiều cuộc đàm phán đã ký, đã thực hiện là không phải vậy.

8) Nắm chặt thời gian.

Bản thân việc nắm chặt thời gian là một sách lược, cũng là tính toán hiệu quả. Trong đàm phán Trung Cộng thường lấy một mốc thời gian nào đó làm kỳ hạn, nếu quá hạn định đó, Trung Cộng sẽ quyết định, không ngó tới đối phương, hoặc lấy đó làm hòa hoãn đàm phán. Như thời kỳ đầu chống Nhật, Trung Cộng lợi dụng quân Nhật tiến gần, ép chính phủ Quốc dân đảng sớm ký hiệp định, nếu không Trung Cộng sẽ tự có hành động. hoặc năm 1949, Trung Cộng trước khi muốn vượt sông, nhưng ở một số đơn vị chuẩn bị chưa xong, thì cố kéo dài đàm phán không quyết, đợi thời cơ chin muồi mới dùng thời gian ép đối phương. Đàm phán với Anh, Bồ, Trung Cộng vận dụng khâu thời gian rất chắc.

 9) Khéo dùng sức ép báo chí.

Trong quá trình đàm phán, Trung Cộng lợi dụng báo chí, một mặt để truyền đạt lập trường, chính sách của mình, mặt khác vận dụng dư luận tạo thành sức ép đối phương chấp nhận yêu cầu của họ đưa ra.

CIA trong giải mã văn kiện “hành vi đàm phán chính trị của Trung Cộng” chỉ rằng, Trung Cộng từ rất sớm đã coi báo chí là một vũ khí hết sức mạnh mẽ, và đưa ra những việc cụ thể mà Trung Cộng đã thao túng báo chí:

      (1) Ra tay trước: Trung Cộng thường giành trước thời gian trước khi đối phương đàm phán chính thức, thông qua báo chí phát biểu là có thể sẽ bàn, như 3 tuần trước khi Đặng Tiểu Bình đị Mỹ, là tiếp một đại biểu Quốc hội phỏng vấn để đưa tin.

      (2) Lợi dụng báo chí tạo ra cái bẫy. Lợi dụng báo chí tạo ra ấn tượng tiến triển tốt về quan hệ Trung-Mỹ, để khi họ đàm phán với Mỹ chiếm thế trên.

      (3) Nói bóng, nói gió, ám chỉ. Chung là, quan chức Trung Cộng không thích đả kích đích danh quan chức Mỹ, mà bằng cách gián tiếp.

      (4) Nâng cao hy vọng. Nhờ vào sức ép dư luận của báo chí tạo ra để ảnh hưởng đến chính phủ Mỹ, Trung Cộng trong quá trình đàm phán, hễ khi mong muốn của dân ý có lợi cho Trung Cộng, là tìm cách tăng mức độ của chủ đề thảo luận, nhằm làm cho báo chí tăng sức ép đối với Mỹ.

      (5) Báo chí kích động. Trung Cộng khéo vận dụng sức mạnh báo chí để ảnh hưởng đối phương, như báo chí Trung quốc nhiều lần đả kích chính sách của Mỹ, lợi dụng phê phán công khai của họ như đã dự kiến, có thể sẽ làm cho chính phủ Mỹ chuyển biến lập trường hoặc áp dụng một vài hành động hợp với ý đồ Trung Cộng.

      (6) Định ra giới hạn cho phép. Báo chí Trung quốc thường phát biểu bình luận theo tiến trình đối với mục đích là có ý, định ra mức độ giới hạn co dãn đối với chủ đề đàm phán trong con mắt của đối phương đàm phán ở nước ngoài.

Các nước phương tây như Anh cũng vận dụng dư luận, nhưng cách làm khác hẳn với cách của Trung Cộng. Trung Cộng không chỉ vận dụng công cụ báo chí của mình, tiến hành tuyên truyền toàn diện; mặt khác lại lợi dụng thủ đoạn gián tiếp làm cho báo chí tuân theo.

10, Tính kéo dài và lâu dài của đàm phán.

Đàm phán Quốc – Cộng, thực tế là qua tiếp xúc thời gian dài, từ năm 1936 đến năm 1949, gần 15 năm, qua rất nhiều lần đàm phán, trong đó có cuộc đạt hiệp nghị, có cuộc không kết được gì, lại phải đàm phán lại. Đàm phán Trung-Anh, trong hai năm chỉ hoàn thành đàm phán giai đoạn 1, sau đó còn tiến hành tiếp nhiều cuộc. Đàm phán Mỹ-Trung cấp Đại sứ ở Giơ-ne-vơ và Vác-xa-va trải qua 136 cuộc đàm phán trong 15 năm để chỉ đạt được một hiệp nghị. Đàm phán bình thường hóa Trung - Mỹ năm 1979 cũng trải qua 7 năm. Cho nên Mỹ rút ra kinh nghiệm đàm phán Với Trung Cộng là phải có sức chịu đựng dẻo dai.

Trung Cộng kéo dài quá trình đàm phán, bao gồm quyết sách chậm chạp, trên vấn đề quan trọng giữ thái độ bảo lưu để chờ đợi thời gian ưu thế xuất hiện, đồng thời cũng giành được ưu thế về tâm lý đối phương không có đủ kiên nhẫn. Nhưng quan trọng nhất là trong quá trình kéo dài, có thể tìm rõ, hiểu rõ lập trường đối phương. Cho nên Trung Cộng thường là khi bắt đầu đàm phán đều mãn đàm, hoặc để đối phương nói trước, để hiểu đối phương.

11. Tính không-tổng (zero-sum) của kết quả đàm phán.

Mục đích đảng CSTQ được thành lập là để giành chính quyền, cho nên hợp tác Quốc - Cộng lần một, Trung Cộng lấy tư cách cá nhân từng đảng viên CS gia nhập Quốc dân đảng, sau đó bị Quốc dân đảng thanh lọc. Hợp tác Quốc- Cộng lần hai, Trung Cộng vẫn với tư thế nhún thấp để thỏa hiệp với Quốc dân đảng, như đồng ý đổi phiên hiệu quân đội đảng CS, nhưng thực chất Trung Cộng không hoàn toàn qui thuận chính phủ Trung ương, vẫn trong quá trình phát triển, tăng thực lực, tiếp tục nâng cao điều kiện đàm phán. Sau thắng lợi kháng chiến, thực lực Trung Cộng tăng mạnh, yêu cầu về quyền lực quân sự và chính trị của họ cũng theo đó nâng cao. Đến năm 1949, khi thế lực Trung Cộng đủ sức tác động tình hình, Trung Cộng không cho chính phủ Quốc dân một chút cơ hội nào, dù có tác động vào, làm cho đoàn đại biểu đàm phán của chính phủ Quốc dân đảng bó tay, cộng thêm một phần lôi kéo của Trung Cộng, cuối cùng toàn bộ đoàn đàm phán đầu hàng, là điều khá nực cười trong lịch sử đàm phán.

12. Trò chơi chữ nghĩa.

Trong quá trình đàm phán, Trung Cộng thường dùng các lời hoa mỹ cảm động lòng người để che đậy động cơ thật sự và lấy đó làm cái cớ.

Trước chống Nhật, có chính trị phạm, không có trị tội làm cái cớ để công kich chính phủ Quốc dân đảng. Trên thực tế Trung Cộng chỉ với khẩu hiệu và danh từ rất động lòng làm cho đối phương trở thành người không chính nghĩa, người Mỹ đồng tình với Trung Cộng, mô tả Trung Cộng làm cải cách ruộng đất mà thôi, không phải là đảng hủ bại và coi chính phủ quốc dân là chính quyền tham ô hủ bại, Trung Cộng liền đưa ra dân chủ, tự do, đúng là phù hợp quan niệm của Mỹ, và đảng cầm quyền Quốc dân đảng đã không được sự đồng tình ủng hộ trong đàm phán.

Trung Cộng cũng thường vận dụng cách trần thuật không rõ để kích đối phương nói ra lập trường, sau đó đưa lời này vào kỷ yếu. Khi thế của Trung Cộng tăng lên, họ kiên trì chính sách của họ, đồng thời họ lấy ghi chép của năm xưa ra làm chứng cứ hai bên hiệp nghị trước. Trong quá trình đàm phán họ vận dụng một số câu chữ ám thị đại diện cho họ.

Hoặc họ dùng những câu từ có tính uy hiếp không nhượng bộ.

Trong tiếp xúc giữa Mỹ với Trung quốc, phía Mỹ nghiên cứu rút ra một số câu từ thường dùng để gây sức ép như sau:

 

 

Riêng mà nói, theo cá nhân tôi…

Không phải chính thức, nhưng đưa vào bình luận của bản ghi nhớ, bình luận bắt đầu từ câu chữ đó, thường mang tính phê phán, muốn đối thủ phải tính đến nội dung của câu nói đó, nhưng không hy vọng đối phương coi đó là lập trường của quan phương chính thức, hoặc trong đàm phán sau này lại hạn chế họ.

Thẳng thắn mà nói, thực thà mà nói,…

Thông thường là tuyên bố nghiêm túc có mùi vị phê phán, hơn nữa thường có uy hiếp có tính ám thị, tức có nghĩa là nếu đối phương không nghiêm túc xem xét những ý kiến này, sẽ có hậu quả bất lợi.

Tôi được phép báo với các vị,…

Tôi được Thủ tướng giao báo cho các vị biết…

Tỏ rõ lập trường có tính yêu cầu hoặc uy hiếp, còn là quyết định của tầng cao chính thức hoặc tập thể của Trung Cộng.

Sau khi xem xét ý kiến ông, lập trường của chúng tối là…

Tỏ rõ lập trường của Trung Cộng đã có một số điều chỉnh để đáp lại ý kiến đối thủ, nhưng ở đây cũng biểu thị Trung Cộng không chuẩn bị có thỏa hiệp hơn nữa đâu.

Mở chuông phải do người treo chuông, …

Chính phủ đối phương phải chịu trách nhiệm về tình hình nào đó, Trung Cộng không cần có hành động nào hết để giải quyết vấn đề này.

Nếu quí vị làm như vậy, tự chịu mọi hậu quả, Nếu ông làm như thế, sẽ có ảnh hưởng rất xấu đến quan hệ hai bên…

Là uy hiếp trả đũa trực tiếp nhưng không rõ ràng đối phương về hành vi nào đó bằng áp dụng hành động sửa đổi của chịu trách nhiệm.

Nếu các ông làm vây, chúng tôi không ngồi nhìn…

Áp dụng từ lệnh uy hiếp cuối cùng của hành động, thông thường có mùi vị dùng vũ lực, để đáp lại về việc làm nào đó của chính phủ đối phương.

13. Tranh thủ đồng tình và ủng hộ.

Quyền lực, thực lực, chiến lược, chiến thuật của đàm phán có thể nói là hết sức quan trọng trong quá trình đàm phán. Nhưng quần chúng, tức đại chúng nói chung của đàm phán, cũng là thành phần quan trọng của đàm phán. Cái gọi là lòng người thuận nghịch, đạo lý là ở đó, nên Trung Cộng rất khéo vận dụng, mọi việc làm đều nhằm vào tranh thủ quần chúng cho mình trong các cuộc đàm phán không với Quốc dân đảng. Như trong đàm phán vấn đề Hồng Kông, Ma cao, Trung Cộng cho rằng công tác Mặt trận thống nhất phải bắt đầu từ phái hữu lớn, đặc vụ lớn, tức số nhân sỹ lớp trên của xã hội Hồng Kông, phái thân Anh, thân Mỹ, thân Đìa loan của giai cấp tư sản lớn. Đối với những người bị ngồi tù, tra tấn, v,v,,, của Trung Cộng, khi tiếp xúc trước yêu cầu thu hẹp khoảng cách “cầu đồng lớn, tồn dị hẹp” để tranh thủ thương nhân, Trung Cộng lợi dụng lợi ích kinh tế hiện có, nuôi dưỡng nhà tư bản thân Cộng xuất thân ở Hồng kông, đối với công ty, thương gia có khó khăn có lợi. Đối với các tầng lớp khác cũng tìm mọi cơ hội để tiếp xúc, mục đích đều là tranh thủ lòng người.

                                                       *

                                                   *        *

Những điểm trên, có điểm các nước Cộng sản khác cũng có, có điểm các nước nói chung đều có, chỉ có điều Trung Cộng có đặc biệt hơn. Ngoài ra, còn có một số điểm khác với các nước phương tây:

1. Tính nhất nguyên của đàm phán.

Mọi vấn đề đều dưới sự khổng chế của đảng, nhất là đàm phán đối ngoại, khi chính sách đã xác định rồi, từ Trung ương đến địa phương, các báo chí, các cơ quan được phối hợp chặt chẽ với nhau, ít có ý kiến khác nhau. Trong đàm phán Trung-Anh, phía Anh vốn cho rằng nắm dân ý làm hậu thuẫn, nhưng khi giải quyết thu hồi Hồng Kông, thì tổ chức, nhân viên tổ chức Công hội Hồng Kông, cơ cấu, đơn vị khác v,v… của Trung Cộng không có ai không phối hợp.

Học giả phương tây cho rằng, phe phái sẽ ảnh hưởng quyết định của Trung Cộng, nhưng về mặt đối ngoại, đặc biệt là vấn đề chủ quyền, lãnh thổ, quan hệ đến đại nghĩa dân tộc không có ý kiến khác nhau. Tính nhất nguyên này là khác hẳn với các nước phương tây.

2. Vận dụng khổng chế báo chí truyền thông.

Như trong vấn đề Hồng Kông (trước khi chưa thu về) Trung quốc ở Hồng Kông thông qua các thương gia Hoa kiều yêu nước nắm giới báo chí để “tác động chiều hướng dư luận” từ căn bản. Mặt khác Trung Cộng cũng thông qua khống chế xí nghiệp thuộc vốn Trung Cộng dùng vào quảng cáo của báo đài để ảnh hưởng báo đài: Trước tiên dùng vốn để vỗ cho béo và từng bước xây dựng quan hệ lệ thuộc, đến thời điểm then chốt ép phải tuân theo, nếu không theo, đồng thời rút vốn của Trung quốc, làm cho báo đài nào không nghe lời sẽ rơi vào phá sản. Ở phương tây, không cách gì khổng chế được báo chí, mà báo chí giám sát chính phủ, là vũ khi đối trọng lợi hại của chính phủ.

  1. Vận dụng của tổ chức.

Trung Cộng đã vận dụng tổ chức để thiết lập nhiều tổ chức với hình thức, nội dụng khác nhau, linh hoạt để tập hợp lực lượng. Như trước năm 1936, dưới Mặt trận thống nhất dân tộc, đứng đằng sau Trung Cộng đã tổ chức nhiều tổ chức quần chúng chống Nhật như Hội Liên hiệp học sinh cứu quốc, Đội Tiền phong giải phóng dân tộc, Hội Liên hiệp cứu quốc toàn dân, v,v,,.

4. Tính biện chứng.

Hành vi đàm phán của Trung Cộng luôn thể hiện tính biện chứng. Như Trung Cộng cho rằng:”đánh, đánh, đàm, đàm là lẽ thường của các binh gia, là hai phương thức thường dùng khi hai bên giao chiên”, “Cái giành được trên giấy không có nghĩa là cái hiện thưc”, “Đối đầu nhau, cũng xem tình thế,  trước kia không đi đàm phán là đúng, lần này đi đàm phán cũng đúng”..

Ngoài ra, đặc chất của người đàm phán Trung Cộng cũng là điểm đặc biệt, có vai trò lớn đối với kết quả đàm phán. Như Chu Ân Lai trước đây là một cao thủ đàm phán của Trung Cộng, là người có đầy đủ các tố chất kiến thức, cơ mưu, nhẫn nãi, khéo biện, mưu lược, linh hoạt co dãn, v.v…

                                                         *

                                                     *        *

Đàm phán xẩy ra là trong một không gian, thời gian nhất định, trong bối cảnh nhất định, như quyền lực thực lực ra sao, tình thế trong ngoài nước có lợi không, việc đưa ra trước sau của đàm phán thường là quan hệ đến quyền lực lớn nhỏ người tham gia của phía thứ ba. Mô thức tiến hành đàm phán là từ giai đoạn này sang giai đoạn khác. Quá trình đàm phán là quá trình vận dụng quyền lực, chiến lược và chiến thuật, từ những phân tích của các phần trước, đại thể có thể rút ra trình tự quá trình đàm phán của Trung Cộng chung là:

 A. Giai đoạn thăm dò.

1) Chuẩn bị kỹ lưỡng;                       2) Phối hợp tổ chức;     

3) Xây dựng quan hệ;                        4) Vân dụng phía thứ ba.

B. Xây dựng khuôn khổ đàm phán:

1) Tạo dựng không khí;                          2) Thăm dò đối phương;

3) Động viên lực lượng;                          4) Vận dụng báo chí;

5) Đưa ra ý kiến;                                      6) Gây sự cố;

7) Kiên trì nguyên tắc;                             8) Co dãn chi tiết

C. Sắp xếp chi tiết:

1) Kiên nhẫn chờ đợi;                               2) Kiên trì không nhượng bộ;

3) Lấy nhỏ đổi lấy cái lớn;                        4) Tạo cái mơ hồ;

5) Quan chức cấp cao rút lui.

                                                             *

                                                         *         *

Một số nhà nghiên cứu phân tích nhận xét về hành vi đàm phán của Trung Cộng.

                                 ------------------------------------------------

Các đàm phán Quốc-Cộng sau sự biến Tây an đều thực hiện ăn miếng trả miêng (pure bargaining), quan hệ hai bên đối lập, kết quả bằng không, không đi đến giải quyết vấn đề.

Hành vi đàm phán của Trung cộng lúc thế yếu, thế mạnh có khác nhau

Lúc thế yếu, thập kỷ 30 (1937) : mềm mỏng, cầu toàn nhỏ chọi lớn;

Lúc khá hơn, thập kỷ 50           : tỏ ra hiếu chiến;

Khá hơn nữa, sau này               : tỏ ra hai bên đều thắng lợi.

 Trong đàm phán, nhất là khi yếu đối chọi mạnh, thường là bộ phận rất quan trọng trong hành vi đàm phán. Cụ thể là “kết cấu quyền lực không đối đẳng” là chỉ trong đàm phán thực lực hai bên không ngang nhau. Khi một bên có tiềm lực uy hiếp càng lớn đối với bên kia, kết cấu đàm phán sẽ xuất hiện hiện tượng không cân xứng, bên yếu dễ bị chấp nhận điều kiện bên mạnh. Nếu bên yếu biết vận dụng chiến thuật, có thể tăng quyền lực, như chiến thuật liên kết đồng minh, nhân tố xung quanh. Quyền lực càng không cân xứng càng cần dựa nhiều vào chiến thuật.

Trung Cộng trong đàm phán, xưa nay quyết không nhượng bộ nguyên tắc cơ bản và vấn đề trọng đại. Trung Cộng đã dùng 10 sách lược và chiến thuật như lợi dụng khẩu hiệu và dư luận, chỉ huy thống nhất tình báo, linh hoạt sẵn sàng chiến đấu, lấy hòa che đậy chiến,…

Quốc-Cộng đàm phán từ năm 1937 – 1947 (lúc đang đánh nhau), Trung Cộng đưa ra 3 mô thức:

  1. Đưa ra phương án có tính khả biến (có thể thay đổi);
  2. Đợi tình hình trên chiến trường có lợi để tăng điều kiện;
  3.  Kéo dài thời gian trên bàn đàm phán, chuyển sang dùng tố cáo của quần chúng.

Ngoài ra, còn dùng chiến thuật tuyên truyền. chuẩn bị rất kỹ trước khi đàm phán.

Trong đàm phán Mỹ-Trung năm 1953 – 1957, Kenneth Young đã tổng kết một số đặc điểm:

      1)Người đàm phán Trung Cộng đều là “người tổ chức” điển hình, chịu sự quản lý chặt chẽ của tổ chức, không có nhiều không gian tự do lượng định;

      2) Trung Cộng khi đàm phán, thể hiện rõ truyền thống lấy người Trung quốc làm trung tâm;

      3) Quan niệm về thời gian khác nhau, thường nhẫn nại hơn người Mỹ;

      4) Hành vi, lời nói đều chịu sự chỉ đạo của ý thức hệ;

      5) Trung Cộng có khái niệm tầm ngắn, tầm dài trong đàm phán.

Các đặc điểm này, nay vẫn thể hiện trong đàm phán.

Richard H.Solomon đánh giá, đặc điểm lớn nhất trong hành vi đàm phán của Trung Cộng là xây dựng quan hệ hữu nghị. Còn Kissinger cho rằng nhân viên đàm phán Trung Cộng kiên định nguyên tắc, cực kỳ kiên nhẫn và rất cơ trí. Còn Alfred D.Wilhelm Jr cho rằng hai đặc trưng cùa hành vi đàm phán Trung Cộng là Chủ nghĩa Mác và văn hóa Trung hoa.

Trong báo cáo phân tích “Hành vi đàm phán chính trị Trung Cộng” của CIA Mỹ nêu hai đặc điểm:

      1)Giao thiệp của Trung Cộng có phong cách đặc thù, mưu sách đàm phán của họ không phải độc nhất vô nhị. Các mưu sách đàm phán và sách lược gây sức ép mà nhân viên đàm phán sử dụng cũng đã thể hiện văn hóa đặc thù của Trung quốc trong giao thiệp với các nước khác, nhưng chưa phát triển thành phương pháp đàm phán độc đắc;

      2) Trung Cộng trong đàm phán, tuy có mục đích nhất định, nhưng không phải mỗi lần đàm phán họ đều khống chế được, mà khi họ không nắm được hoàn toàn tình hình, thực hành thận trọng. Phong cách đàm phán của Trung Cộng bắt đầu từng bước học tập thông lệ quốc tế, chịu ảnh hưởng phong cách ngoại giao Nga Xô, truyền thống văn hóa và lịch sử Trung quốc.

Diệp Minh Đức và Lương Ngọc Anh phân tích đàm phán Trung Cộng, chỉ ra một số đặc trưng của hành vi đàm phán Trung Cộng:

      1) Xác định người đàm phán của đối thủ đàm phán, nhằm hiểu rõ đối thủ đàm phán, Trung Cộng sẽ trước tiên tìm hiểu tập tính đối thủ, mức độ thân sơ với Trung Cộng;

      2) Trung Cộng luôn là kiên trì lập trường của mình, tranh thủ tương đối không so đo tiểu tiết hoặc các bước cụ thể, tức không nhượng bộ về nguyên tắc lớn, còn vấn đề nhỏ tỏ ra rộng rãi với đối phương, ít đưa ra ý kiến.

      3) Đôi lúc đưa “tuyên truyền” vào sách lược đàm phán. Điền Hồng Mậu lại cho rằng, trong đàm phán Trung-Anh, trên vấn đề chủ yếu, Anh quốc đã khuất phục trước lập trường hầu như nhượng bộ hoàn toàn Trung quốc. Trong tiến trình đàm phán lộ rõ tư thế yếu đuối, một mặt phản ánh quốc lực Anh đang xuống, mặt khác chứng tỏ chính phủ đảng Bảo thủ không vì trao trả Hồng Kông mà ảnh hưởng quan hệ Anh-Trung. Đồng thời ý của Anh đối với Hồng Kông là muốn duy trì hiện trạng tự do kinh tế và phương thức sinh hoạt. Cuối cùng không địch nổi với làn sóng chủ nghĩa dân tộc được Trung Cộng cổ vũ. Trung Cộng đã dùng chủ nghĩa dân tộc để chọi lại ý đồ của Anh rất thành công. Hứa Gia Đôn đã đi vận động mọi tầng lờp Hồng Kông, kể cả cùng ăn cơm, tiếp xúc, làm binh sỹ chống đảng CS để vận động ủng hộ Trung Cộng thu hồi chủ quyền. Đã tiến hành phát động 72 Công hội ơ Hồng Kông tổ chức tọa đàm ủng hộ Trung Cộng thu hồi Hồng Kông.

Tháng 9/2001

(Đây là bản Tài liệu nghiên cứu phân tích về “Kỹ xảo đàm phán của Trung Cộng”của Cục Tình báo quân đội Đài loan, tôi đã dịch từ năm 2001. Nay tôi cung cấp lại để quí vị tham khảo.)

Người dịch:  Đặng Đình Lựu

                                                                       .

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114573857

Hôm nay

294

Hôm qua

2334

Tuần này

21403

Tháng này

220914

Tháng qua

130677

Tất cả

114573857