Số đền thờ (Mosque) tổng cộng trên phần đất Thổ Nhĩ Kỳ lên tới con số 85,000 (Tám mươi lăm ngàn ngôi).
Chúng tôi, 34 người, tất cả là Việt Nam, trừ một ông rể Mỹ cùng nhau đến nơi này vào mùa thu. Phần đông các anh chị tới từ Washington DC. Chỉ có hai chúng tôi và bốn anh chị nữa đến từ tiểu bang khác. Thời tiết dễ chịu, trong tháng mười một, không lạnh lắm so với miền đông hay miền tây bắc nước Mỹ. Thỉnh thoảng có ngày gió thu se lạnh nhưng không thấy có lá vàng và đâu đâu cũng chỉ có một màu xanh của thông và những cây olive.
Trên những chuyến xe bus đi xuyên qua năm (5) thành phố. Từ Istanbul đến Bursa, Ayvalik, Kusadasi và Antalya. Khi nhìn ra ngoài cửa kính xe, chúng tôi có cảm tưởng như bất cứ một góc phố nào, hay một ngã rẽ nào, hoặc sau một cánh đồng cỏ, sau một đàn cừu đều có một hay hai cái tháp của nguyện đường nhô lên. Những cái tháp có gắn loa trên đó, có thể phát ra những tiếng kêu gọi cầu kinh bất cứ lúc nào. Mặc dù thật ra chỉ có năm lần một ngày.
Thành phố với ánh đèn cao ốc, hay nhà cửa mái ngói đỏ, cánh đồng cỏ xanh với đàn cừu đang cúi đầu gặm cỏ đều thấm đẫm lời kinh. Tiếng kinh vọng vào khách sạn, đánh thức chúng tôi buổi sáng tinh mơ, tiếng kinh khiến chúng tôi đứng sững lại lắng nghe giữa buổi trưa đang đi ngoài phố và nhắc chúng tôi biết là mặt trời sắp lặn hay đã lặn được hai tiếng rồi. Tiếng kinh giúp cho du khách khi vào viếng những ngôi đền (Mosque) biết mình đang chiêm ngắm một cái gì đó liên quan về một tín ngưỡng rất hấp dẫn, và cũng rất phức tạp.
Lời cầu thả xuống không gian
Mười phương thức dậy bàng hoàng gọi nhau
Đám mây trắng bay về đâu
Lòng tin trải thảm dập đầu, câu kinh. (tmt)
Những di tích đền đài còn sót lại trên mặt đất trong quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ, là những chứng tích của một nền văn minh Hy Lạp La Mã, Byzantine và Ottoman cổ xưa. Đẹp và buồn. Nó đẹp vì ở thế kỷ này không có một đền đài nào có thể so sánh được. Một cái đẹp xây dựng bằng trí tưởng tượng, trên những bàn tay không của những con người thời đó chứ không phải bằng những dụng cụ máy móc hiện đại thời văn minh thế kỷ này. Nó buồn vì bây giờ chỉ còn lại những đống gạch đá vụn dưới gót chân du khách, và một vài cái cột chơi vơi hắt lên bầu trời xanh.
Ở Istanbul hai ngày, chúng tôi được xem hai ngôi Blue Mosque, cung điện Tokapi Palace và Hagia Sofia. Ngôi Blue Mosque là nơi chúng tôi được đến trước tiên.
Blue Mosque,nhà thờ Hồi giáo Sultan Ahmed (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Sultanahmet Camii) là một nhà thờ Hồi giáo lịch sử tại Istanbul, thành phố lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ và kinh đô của Đế quốc Ottoman (1453-1923). Nhà thờ Hồi giáo này thường được gọi là Thánh đường Xanh do gạch màu xanh ốp tường và nội thất của nó.
Nó được xây dựng giữa giai đoạn năm 1609 và 1616, dưới triều vua Ahmed I.
Cũng giống như nhiều nhà thờ Hồi giáo khác, nó cũng bao gồm một ngôi mộ của người sáng lập, một madrasah (trường học) và một hospice. Trong khi vẫn còn được sử dụng như một nhà thờ Hồi giáo, Thánh đường Hồi giáo Sultan Ahmed cũng đã trở thành một điểm thu hút du lịch phổ biến của thành phố Istanhbul.
Chính nơi này là di tích của nhiều hoàng triều La Mã để lại cho nhân loại. Từ năm 1299 đến 1922, các vua nhà Ottoman cai trị một đế quốc xuyên lục địa rộng lớn. Lúc hùng mạnh nhất, Đế quốc Ottoman trải dài từ Hungary ở phía bắc đến Somalia ở phía nam, và từ Algérie ở phía tây đến Iraq ở phía đông.
Những năm đầu của đế quốc Ottoman được kể lại trong nhiều câu chuyện khác nhau mà rất khó xác định là lịch sử hay truyền thuyết; tuy nhiên, phần lớn sử gia điều tin rằng đế quốc này ra đời năm 1299 và vị vua đầu tiên là Osman I, Hãn vương của bộ lạc Kayı người Thổ Oghuz. Đế quốc Ottoman mà ông sáng lập đã tồn tại trong 6 thế kỷ, với 36 vị vua.
Vị vua cuối cùng (thứ 36) rời Istanbul 1922 và qua đời tại nước Ý cùng năm. Kết thúc một triều đại vua chúa.
Cung điện Tokapi cùng trên một vùng đất sát cạnh Blue Mosque
Trước khi đi vào thưởng ngoạn từng phần của hoàng thành, người hướng dẫn vừa chỉ những mô hình cung điện Tokapi Palacenguy nga vừa cho biết mỗi khu vực của cung điện này được dùng để làm gì. Từ tòa nhà để phân xử công tội của người dân (Tòa án thời đó) đến thư viện, học viện cho cả triều đình. Những khu dự trữ kim cương, vàng bạc giá trị nhất nhì trên thế giới của hoàng gia. Tôi thấy có cả chiếc nôi cho em bé sơ sinh làm bằng vàng ròng, kim cương, và những viên ngọc quý. Theo con mắt của người mẹ bình thường, tôi thấy thật tội nghiệp cho hoàng tử nào bị đặt ngủ trong một chiếc nôi như vậy, nó chẳng thể nào êm ái bằng cái nôi làm bằng vải và bông gòn được.
Trong vương cung này còn có những dẫy nhà được xem là một bảo tàng viện chưng bầy những di vật quý giá như: chiếc gậy của Moses dùng dẫn đường cho dân Do Thái về Đất Hứa, dấu chân in trên cát của Muhammad và xương sọ của thánh John. (Tôi tìm không ra cái xương sọ này, vì đông du khách quá.)
Trong chu vi đền đài này đã biết bao nhiêu hoàng đế qua đời, bao nhiêu hoàng tử nối ngôi. Vị hoàng đế nào có bao nhiêu bà vợ, bao nhiêu cung tần mỹ nữ, bao nhiêu kẻ hầu và bao nhiêu đầu bếp? Các hoàng tử con của hoàng hậu, con của thứ phi giết nhau, ngai vàng rung động mỗi lần thay đổi một triều đại.
Hóa ra ở đâu cũng thế, nước nào có cung điện là có chúa có vua, có cả một triều đại hoàng kim và nước mắt.
Thế mà có những chàng thi sĩ trắng tay vẫn hay mơ mộng:
Ta thấy ta là Đường Minh Hoàng
Trong cung nhớ nàng Dương Quý Phi. (Xuân Diệu)
Ngôi mosque nổi tiếng thứ hai của Istanbul là Hagia Sophia
Sophia, tiếng Hy Lạp là trí tuệ thần thánh. Ban đầu là một Vương cung thánh đường Chính thống giáo, sau là thánh đường Hồi giáo, và nay là một viện bảo tàng ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Đặc biệt nổi tiếng vì vòm trần lớn, tòa nhà này được xem là hình ảnh thu nhỏ của kiến trúc Byzantine. Đây đã từng là nhà thờ lớn nhất thế giới trong vòng gần 1000 năm, cho đến khi nhà thờ Seville Trung Cổ hoàn thành vào năm 1520.
Tòa nhà hiện nay vốn được xây dựng làm nhà thờ từ năm 532 đến năm 537 theo lệnh của Hoàng đế Byzantine Justinian, và đã là Nhà thờ Trí tuệ Thần thánh thứ III được xây dựng tại địa điểm này (hai nhà thờ trước đã bị phá hủy bởi quân phiến loạn). Tòa nhà được thiết kế bởi hai kiến trúc sư Isidore xứ Miletus và Anthemius xứ Tralles. Nhà thờ có một bộ sưu tập các thánh tích và có một bức tường tranh bằng bạc dài 15 m. Đây là nhà thờ trung tâm của Giáo hội Chính thống giáo Đông phương trong gần 1000 năm.
Năm 1453, Constantinopolis bị đế quốc Ottoman chiếm. Vua Mehmed II biến tòa nhà thành một nhà thờ Hồi giáo. Chuông khánh, bàn thờ, tường tranh bị gỡ bỏ, nhiều phần tường khảm tranh Mosiac bị trát vữa đè lên. Các chi tiết kiến trúc Hồi giáo, chẳng hạn mihrab, minbar và 4 minaret ở bên ngoài, được xây thêm trong thời của các Ottoman. Tòa nhà là nơi thờ phụng của Hồi giáo cho đến năm 1935, khi nó được chính phủ Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ chuyển thành một viện bảo tàng.
Trong gần 500 năm, Hagia Sophia là thánh đường Hồi giáo chính của Istanbul, làm mẫu hình cho nhiều nhà thờ Hồi giáo Ottoman khác.
Tuy đôi khi nhà thờ được gọi là Sancta Sophia theo tiếng La Tinh, giống với cách gọi dành cho thánh Sophia, nhưng sophia là cách chuyển tự Latin cho từ trí tuệ hay sự khôn ngoan trong tiếng Hy lạp, nghĩa là Đền Trí tuệ Thần thánh của Chúa, và ngôi đền thánh được dành để tôn kính trí tuệ của Chúa chứ không phải vị thánh có tên Sophia.
Tôi ngước mặt nhìn lên vòm cung của nhà thờ với những hoa văn dát vàng, dát bạc mỹ thuật, tinh xảo rồi hạ mắt thấp xuống một chút. Ngay giữa nơi cao nhất của trung tâm nhà thờ là hình Đức Mẹ bồng Thiên Chúa đang cúi xuống nhìn nhân loại.
Hóa ra người Hồi Giáo xóa bỏ tất cả những gì thuộc về Cơ Đốc giáo, nhưng vẫn giữ lại hình ảnh giá trị và linh thiêng nhất.
Chúng tôi được ngồi phà đi trên biển Bosporus.
Thổ Nhĩ Kỳ là một quốc gia duy nhất trên thế giới có phần đất trên hai bờ lục địa Á và Âu.
Trên các bờ của eo biển này có khá đông dân cư sinh sống, do thành phố Istanbul (dân số ít nhất là 11 triệu người) nằm ở cả hai bờ của nó. Eo biển Bosporus, hay eo biển Bospho, là một eo biển chia cắt phần thuộc châu Âu (Rumeli) của Thổ Nhĩ Kỳ với phần thuộc châu Á (Anatolia) của nước này. Nó nối biển Marmara (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Marmara Denizi) với biển Đen (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Karadeniz). Eo biển Bosporus dài 30 km, với chiều rộng lớn nhất 3,7 km ở lối vào phía bắc và chiều rộng nhỏ nhất 0,75 km nằm giữa hai pháo đài Anadoluhisari và Rumelihisari. Độ sâu dao động trong khoảng từ 36 đến 124 mét tính theo giữa luồng.
Có hai cầu xuyên qua eo biển Bosporus. Cây cầu đầu tiên là cầu Bogazici (Bosporus I) dài 1.074 mét được xây dựng xong vào năm 1973. Cây cầu thứ hai là cầu Fatih Sultan Mehmed (Bosporus II) dài 1.090 mét được hoàn thành năm 1988 cách cầu thứ nhất khoảng 5 km về phía bắc.
Cũng theo lời người hướng dẫn Tour. Marmaray- tuyến đường sắt dài 13,7km chạy theo đường hầm đang được xây dựng và dự kiến hoàn thành vào năm 2013. Khoảng 1.400 mét của đường hầm sẽ chạy dưới đáy eo biển này ở độ sâu khoảng 55 mét.
Qua ngày hôm sau chúng tôi được đưa đến ngôi đền nổi tiếng của Bursa.
Ulu Cami là nhà thờ Hồi giáo lớn nhất ở Bursa
Đây là một bước ngoặt của kiến trúc Ottoman. Một tòa nhà hình chữ nhật lớn, với hai mươi vòm sắp xếp trong bốn hàng được hỗ trợ bởi mười hai cột. Nhà thờ Hồi giáo này có hai tháp.
Khi chúng tôi bước vào, du khách phụ nữ nào không có khăn trên đầu thì sẽ được phát cho mượn ngay ở ngưỡng cửa. Sau khi cởi giầy, cho vào một chiếc túi, sách theo với mình (không được để giầy lung tung trước cửa). Trong nhà thờ có một đài phun nước, để tín đổ sử dụng.
Đài phun nước được xây ngay ở phần đầu và ngay giữa cung thờ, bốn góc có bốn chiếc tủ nhỏ đựng những chiếc khăn lông trắng, sạch sẽ. Chung quanh bồn nước có những chiếc ghế nhỏ, thấp. Chúng tôi đến, được chứng kiến những tín đồ đang thực hiện nghi thức “Thanh Tẩy” ở đài phun nước này. Những người đàn ông (không thấy đàn bà được vào chỗ này) bắt đầu cúi xuống, rửa mắt, mũi, súc miệng, rửa lưỡi. Sau đó sắn tay áo, rửa từ khuỷu tay xuống hai bàn tay. Kế tiếp rửa từ đầu gối xuống hai bàn chân. Cuối cùng dùng khăn sạch lau khô, kéo quần áo xuống chỉnh tề, bắt đầu tìm một góc trong ngôi đền, cầu nguyện.
Các mái vòm trên có hệ thống skylight nên tạo ra một ánh sáng mềm mại hắt xuống dưới, giữ một vai trò quan trọng về hệ thống ánh sáng của tòa nhà lớn. Bên dưới, theo chiều ngang có ánh sáng mờ mờ của ánh đèn nội thất, được thiết kế để cảm thấy yên bình và chiêm niệm. Các đơn vị của không gian được hình thành bởi nhiều vòm và trụ cột tạo ra một cảm giác của sự riêng tư và gần gũi. Toàn thể đền thờ này có 192 bức tường lớn, chữ viết bằng thư pháp Ottoman nổi tiếng của thời kỳ đó. Nhà thờ Hồi giáo là một trong những ví dụ vĩ đại nhất của thư pháp Hồi Giáo trên thế giới. Thư pháp được viết trên các bức tường, cột và những tranh bản mộc lớn, nhỏ. Chính trước những bức thư pháp này, tín đồ sau khi đã thanh tẩy, ngồi gấp chân trên hai đầu gối, dập đầu xuống cầu nguyện.
Phía bên ngoài nhà thờ cũng được xây một hàng vòi máy nước và ghế cho các tín đồ thanh tẩy trước khi vào đền. (Phần đông phụ nữ dùng những vòi nước này).
Nhà thờ Hồi giáo Ulu Cami nằm trong tỉnh cũ thành phố Trung tâm của Bursa trên đại lộ Atatürk.
Con Ngựa Thành Troy
Chúng tôi tiếp tục lên xe đến Ayvalik để xem và nghe kể huyền thoại về con ngựa thành Troy.
Huyền thoại kể rằng: Hoàng tử Paris của thành Troy đem lòng yêu một phụ nữ tên là Helen, của Spartan, Hy Lạp. Nàng được coi là người đàn bà đẹp nhất thế giới. Không thể nào ngớt tư tưởng đến Helen, Paris bắt cóc nàng ra khỏi nước Hy Lạp đem về xứ sở mình ở Troy. Chồng nàng, vua Menelaus đem quân lính của mình với 1000 chiếc tầu, dẫn đầu bởi người anh của vua, là Agamemnon đến chiếm thành Troy và mang được Helen về. Vì thế chiến tranh bắt đầu cho hai nước và kéo dài gần mười năm.
Truyền thuyết còn nói rằng, họ chiến thắng nhờ có sángkiến phá những chiếc tầu của họ ra đóng thành một con ngựa gỗ thật to làm quà tặng cho Troy như món quà của kẻ bại trận dâng cho kẻ thắng trận. Dân thành Troy chẳng nghi ngờ gì khi nhận một con ngựa làm quà mà không biết bên trong bụng nó đầy binh sĩ. Chờ đến đêm khi binh sĩ Troy ngủ say trong men chiến thắng, quân Hy Lạp chui ra đánh phá thành Troy và mang được Helen trở về an toàn.
Có lẽ đã là huyền thoại thì phải đẹp, nên với những chi tiết hoang tưởng đã mang thêm vẻ đẹp cho câu chuyện. Nhưng có thật không câu chuyện mang binh sĩ trong bụng ngựa để tiêu diệt được cả một thành trì?
Cũng như có thật không một giếng Mỵ Châu, hay chỉ làm cho câu chuyện của thành Cổ Loa thêm đẹp mà lông ngỗng được mang ra trải theo vó ngựa?
Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình đi về phía những thành trì đổ nát của Kusadasi
Lòng ta là những hoàng thành đổ nát
Ngàn năm vang vọng tiếng loa xưa (Vũ Đình Liên)
Ephesus là một thành phố Hy Lạp cổ đại, và sau đó là một thành phố lớn của La Mã, trên phía Tây bờ biển của tiểu á Selçuk, tỉnh Izmir, Thổ Nhĩ Kỳ. Nó là một trong những thành phố thuộc 12 giải Ionia trong thời Hy Lạp cổ điển. Trong thời kỳ La Mã, Ephesus có dân số hơn 250.000 trong thế kỷ thứ nhất, trước Công Nguyên, được coi là một trong những thành phố lớn nhất trên vùng Địa Trung Hải.
Người ta tìm thấy thành phố nổi tiếng với các đền Artemis (hoàn thành xung quanh thành phố 550 BC), một trong bảy kỳ quan thế giới cổ đại. Một thư viện với 200,000 sách (scrolls-thời đó) được nhắc đến như món quà của Anthony tặng Cleopatra trong ngày hôn lễ. Một rạp hát có những hàng ghế ngồi dốc nhất thế giới thời đó, nên chứa được 20,000.người.
Hoàng đế Constantine đệ I, đã xây dựng lại nhiều thành phố và đã có sáng kiến xây dựng nhà vệ sinh công cộng. Mỗi buổi sáng các vị lãnh đạo quốc gia ngồi sát cạnh nhau trong nhà vệ sinh (không có vách ngăn) vừa làm vệ sinh vừa trao đổi tin tức trong ngày. Các việc quốc gia đại sự cũng được trao đổi ở đây.
Sau sắc lệnh Thessalonica từ hoàng đế Theodosius I, ngôi đền đã bị phá hủy vào năm 401 AD bởi một đám đông do St. John Chrysostom hướng dẫn. Thành phố cũng đã bị phá hủy một phần bởi một trận động đất năm 614. Quan trọng nhất là trung tâm thương mại của thành phố, bị lún xuống vì hải cảng dần dần bị phù sa của Cayster River bồi lên.
Biển xanh biến thành nương dâu hay thành phố mất đi vì bị phù sa ăn dần vào đất liền thì cũng tang thương như nhau.
Rạp hát chỉ còn lại cái nền
Sau đó chúng tôi chia làm hai nhóm, một nhóm đi shopping, một nhóm đi viếng Ngôi nhà của Đức Mẹ. Dĩ nhiên bạn biết, tôi ở trong nhóm nào rồi.
Meryem ana (Mother Mary’s House)
Nhà Đức Mẹ không xa lắm với khu hoàng thành Ephesus đổ nát. Con đường dốc ngoằn nghèo đi lên núi Bulbus bao bọc toàn một mầu xanh của những cây olive và thông. Nơi này được coi như nơi cư trú cuối cùng của Đức Mẹ, mẹ Thiên Chúa. Tin phổ biến rộng rãi rằng thánh John đã mang Đức Mẹ đến nơi trú ẩn này theo lời ủy thác của Chúa. Trước khi Chúa chịu chết trên Thánh Giá, người đã cúi xuống trao Đức Mẹ cho thánh John và cũng chính tại Ephesus, thánh John truyền bá khắp nơi đạo Công Giáo.
Điều lạ lùng đến ngạc nhiên là một số khá đông người Hồi Giáo ở đây, coi ngôi nhà của Đức Mẹ là nơi họ tới cầu khấn những khi cần hỗ trợ trong đời sống và công nhận Mẹ Maria là mẹ của Prophet Jesus và tin vào sự thụ thai đồng trinh của Đức Mẹ. Theo lời người hướng dẫn thì họ tới đây để cầu xin một điều gì đặc biệt như: chữa bệnh, xin việc làm, thi cử và vấn đề gia đình. Từ năm 1896 ngôi nhà của mẹ được trở thành một Nguyện Đường Công Giáo và trở thành một nơi hành hương cho du khách. Phía sau nhà Mẹ, có con dốc thoai thoải, vườn cây xanh thẫm, có một bức tường với những vòi nước nhỏ, được coi như chính là nguồn nước Đức Mẹ đã uống trong những ngày cuối đời mình. Ngày nay được rất nhiều người coi như “Nước Thánh” và tin tưởng rằng nước này sẽ chữa lành bệnh, tật.
Một bức tường tiếp theo có đính đầy những mảnh vải nhỏ ghi những lời cám ơn và lời cầu xin gửi đến Đức Mẹ bằng rất nhiều ngôn ngữ khác nhau.
Tôi bước vào nhà Mẹ, nước mắt trào ra, thế thôi. Chẳng cầu xin được điều gì cả.
Sau lưng tôi là ba linh mục, hai ma sơ trong những chiếc áo dòng, đang cất tiếng lần hạt, rất khẽ. Tôi nhìn lên tượng Mẹ, nước mắt lại trào ra, thế thôi.
Tôi sinh ra ở Việt Nam, xa thật là xa, tôi phiêu bạt xứ người lâu thật là lâu. Bằng cách nào mà hôm nay tôi vào được ngôi nhà của Mẹ. Với tất cả niềm tin tôn giáo, với tôi, đó là một phép lạ, một ơn huệ linh thiêng mà tôi đang được nhận.
Hai ngày kế tiếp ở Antalya, chúng tôi được đi qua ba nơi: khu thương mại đá quý, nơi sản xuất áo da cho toàn thế giới và xưởng dệt thảm. Vào nơi bán nữ trang, chúng tôi chỉ ngó qua, không thấy ai mua. Có lẽ đây là một món hàng ít ai mua khi đi du lịch. Hoặc ai cũng có kinh nghiệm, mua một món đắt tiền quá mà phải quyết định một cách nhanh chóng là điều không nên.
Chưa nơi nào tôi du lịch qua mà có nhiều cừu như Thổ Nhĩ Kỳ. Xe bus ra ngoài thành phố là thấy cừu từng đàn trên cánh đồng. Hình ảnh người đàn ông cầm cây gậy chăn một đàn cừu trông rất gần gũi và thân mật, nó gợi nhớ đến hình ảnh trong nhà thờ Công Giáo, hình Chủ chiên và đàn chiên (Con cừu còn được gọi là chiên) ý chỉ Chúa Jesus và Hội Thánh.
Ở Thổ Nhĩ Kỳ nhà hàng nào cũng có món thịt cừu là chính. Cừu giết thịt nhiều nên da cừu có dư trong việc sản xuất áo da. Kỹ nghệ áo da rất cao ở đây. Họ xuất cảng da hầu như khắp Âu Châu. Người hướng dẫn cho biết, nước Ý nhập cảng áo da của Thổ Nhĩ Kỳ, rồi chỉ việc đính những cái tags có danh hiệu nổi tiếng vào và bán ra với giá thật cao. Tại đây, họ bán được cho nhóm chúng tôi gần hai mươi chiếc jackets cho cả quý ông và quý bà. Nguyên nhân vì họ mời chúng tôi uống rượu trước, sau đó cho các cô cậu người mẫu trẻ đẹp bằng xương bằng thịt ra biểu diễn một màn trình diễn thời trang rất ngoạn mục. Mắt hoa vì sắc, đầu váng vì rượu nên chúng tôi dễ dàng móc thẻ nhựa ra trao cho những người bán hàng. Mỗi chiếc jacket trung bình từ 500 Mỹ kim trở lên. Có đắt hơn áo da ở Mỹ, nhưng quả thật, đặt tay lên da áo như đặt tay lên một tấm lụa hơn là cảm súc trên mảnh da bò.
Thảm cũng được coi là một món hàng nổi tiếng và quý giá. Thảm Trung Đông đã từ lâu đứng nhất nhì thế giới. Chúng tôi được giới thiệu những tấm thảm dệt tay bằng tơ tầm của Thổ Nhĩ Kỳ có giá từ hai, ba ngàn đến hai, ba chục ngàn. Món hàng này rất khó bán cho du khách Việt, vì giá quá cao và người Việt mình ít ai có thú chơi thảm như chơi tranh lụa, tranh thêu hay đồ gốm.
Sau tám ngày ngược xuôi trên đất lạ, rối tung đầu óc vì hình ảnh thu nhập nhiều và nhanh quá. Đền đài đổ nát chồng lên nhau, với những cái tên rất khó nhớ. Có một điều dễ nhận ra là rất ít phụ nữ xuất hiện ngoài đường phố. Trong nhà hàng, trong các tiệm bách hóa, trên đường chỉ có đàn ông và những nơi mua sắm chúng tôi ghé qua toàn đàn ông phục vụ. Phụ nữ chỉ thấy làm việc ở phi trường hay khách sạn 5 sao và trên những cánh đồng ngoại ô.
Tôi ra về mang theo những đền đài đổ nát, những phế hưng dâu bể như một bài học quý giá trong đời sống: Chẳng có gì tồn tại mãi với thời gian, và không ai làm chủ được mãi một tài sản thế gian.
Danh vọng, tiếng tăm, quyền lực, nhan sắc, rồi sẽ đi qua như đã đi qua.
Tất cả thành cổ tích
Hôm nay thành hôm qua
Tiếng thở nào tồn tại
Phiến đá nào vọng âm (tmt)
Chuyến du lịch Thổ Nhĩ Kỳ-Nov.2012
Nguồn: diendantheky.net