Mùa thu năm 2002, Đại hội XVI đảng CSTQ chính thức xác nhận địa vị chính trị của giai tầng xã hội mới.
Năm 2006, Hội nghị công tác Mặt trận thống nhất toàn quốc đã thống nhất định nghĩa thuộc tính xã hội của giai tầng này là “người xây dựng sự nghiệp chủ nghĩa xã hội đặc sắc TQ.”
Bắt đầu từ năm 2004, hằng năm TW đảng CSTQ đều định kỳ tổ chức lớp nghiên cứu lý luận nhân sĩ “giai tầng xã hội mới” tại Học viện CNXH trung ương, mỗi kỳ trên dưới 50 người đến từ các tỉnh thành khu trong cả nước.
Trước Đại hội XVII, tại diễn đàn với chủ đề “Thời đại Tư bản Trung Quốc đang đến và thách thức” tổ chức tại Vũ Hán, tháng 8/2007, nhà kinh tế học, Phó chủ tịch Liên hiệp Công thương toàn quốc Cố Thắng Trở đã phát biểu đề dẫn phân tích vấn đề “giai tầng xã hội mới”. Nhiều chuyên gia học giả, quan chức, các nhà quản lý, các chủ doanh nghiệp, một số nhân sĩ đã có những ý kiến tham gia phong phú.
Giai tầng xã hội mới, đúng là không “mới”, đã xuất hiện, tồn tại và phát triển ít nhất cũng đã 20 năm nay, mà cái “mới” là những năm gần đây nêu lên thành vấn đề nổi bật. Theo Bộ trưởng Mặt trận thống nhất Trần Hỷ Khánh do hai bối cảnh thực tế đặt ra:
Thứ nhất, mùa thu 2007 Đại hội XVII của Đảng, tiếp theo mùa xuân 2008 Hội nghị Nhân đại toàn quốc và Hội nghị Chính hiệp toàn quốc thay nhiệm kỳ, lúc đó sẽ có càng nhiều đảng viên Cộng sản trong “giai tầng xã hội mới” (theo thống kê đến cuối năm 2006 có 32,2% chủ doanh nghiệp tư doanh là đảng viên Cộng sản) sẽ trở thành đại biểu Đại hội Đảng, còn có càng nhiều nhân sĩ “giai tầng xã hội mới” ngoài đảng đã và sẽ vào Nhân đại hoặc Chính hiệp và sẽ đảm nhận thực chức chánh hoặc phó của cơ cấu chính phủ (đến cuối năm 2006 trong các chủ doanh nghiệp tư doanh đã có trên 9.000 người được bầu là đại biểu Nhân đại từ cấp huyện trở lên và trên 30.000 người được bầu là ủy viên Chính hiệp từ cấp huyện trở lên cả nước.)
Thứ hai, trong con mắt công chúng xã hội “giai tầng xã hội mới” là một quần thể trôi nổi bên ngoài thể chế, trong đó có một số có những hành vi không lành mạnh, phạm pháp trong làm ăn kinh tế, làm cho sự nhìn nhận đánh giá của công chúng đối với họ là phức tạp, nhiều chiều. Về phía nhà nước muốn đưa ra sự đánh giá chính diện để định hướng dư luận xã hội.
1) Nhận diện “giai tầng xã hội mới”.
Qui mô giai tầng này, ngành thống kê nhà nước chưa đưa ra được con số xác thực. Nhưng theo ước tính của Phó Bộ trưởng Bộ mặt trận thống nhất TW Trần Hỷ Khánh, giai tầng xã hội mới đến năm 2008 có khoảng 50 triệu người, cộng thêm tất cả số nhân viên làm việc các ngành liên quan, tổng số có khoảng 150 triệu người (11,5% dân số), họ nắm và quản lý 10.000 tỷ nhân dân tệ tiền vốn.
Giai tầng xã hội mới có các đặc điểm chủ yếu:
Thứ nhất, nguồn đến đa dạng:
Phần lớn là từ công nhân, nông dân, cán bộ và phần tử tri thức chuyển hóa đến. Quá trình chuyển hóa của họ có thể qui thành mấy làn sóng:
- “Về lại thành phố”: làn sóng thanh niên tri thức thập kỷ 70, 80 thế kỷ trước xuống nông thôn (trong đại cách mạng văn hóa), nay về lại thành phố;
- “Xuống biển”: làn sóng “xuống biển” của cán bộ nhà nước và nhân viên khoa học kỹ thuật xuống vùng ven biển vào thập kỷ 90 thế kỷ trước. Một loạt cán bộ khoa học kỹ thuật giỏi chuyển sang làm chuyên gia kinh tế;
- “Chuyển chế độ”: Trong quá trình chuyển đổi chế độ xí nghiệp quốc hữu và xí nghiệp tập thể, hàng loạt cán bộ, công nhân xí nghiệp quốc hữu, xã viên xí nghiệp tập thể thực hiện chuyển đổi thân phận;
- “Phục viên”: Hàng loạt quân nhân phục viên, trong quá trình kiếm sống chuyển dần sang đội ngũ giai tầng xã hội mới;
- “Về nước” (hải qui): Lưu học sinh trước đây học xong không muốn về nước, nay tình hình trong nước ngày càng phát triển, chính sách thu hút nhân tài đưa ra, hàng loạt trở về nước.
Qua điều tra, trong chủ doanh nghiệp tư nhân có 37% đã từng làm trong doanh nghiệp nhà nước, 32,2% là đảng viên Cộng sản; 10% đã từng là cán bộ cơ quan nhà nước; trên dưới 20% đã từng đi bộ đội; hàng vạn là lưu học sinh trở về làm doanh nghiệp. Nhìn tổng quát phần lớn là phần tử tri thức, chủ yếu hoạt động trong khu vực ngoài công hữu, tổ chức kinh tế mới, tổ chức xã hội mới và tập trung ở vùng phát triển mạnh ven biển.
Thứ hai, Kết cấu có tính đa tầng, tính đồng chất thấp, luôn biến động, không ngừng phân hóa.
Trong giai tầng xã hội mới vừa có người kinh doanh cá thể trong kinh tế không chính qui, vừa có nhà doanh nghiệp kiểu khoa học kỹ thuật; vừa có người lao động phổ thong tìm lại việc làm, cũng có nhân sĩ chuyên gia có kiến thức khoa học kỹ thuật; vừa có công ty nhỏ kinh doanh của gia tộc, cũng có công ty lớn xuyên quốc gia nước ngoài đầu tư; vừa có kinh tế “phái hải qui”(nước ngoài vè) kiểu hàm lượng tri thức cao, cũng có kinh tế tiểu nông kiểu tập trung nhiều lao động. Khác với thể chế xã hội truyền thống, cũng khác với thời kỳ kinh tế kế hoạch thống nhất tập trung, ngày nay sau khi xuất hiện giai tầng xã hội mới, tính lưu động của con người không ngừng tăng mạnh, giai tầng xã hội không ngừng phân hóa, nội bộ giai tầng xã hội mới xuất hiện “thế hệ nguyên sinh” và “thế hệ mới sinh” cùng tồn tại.
Thứ ba, Quan niệm có tính đa dạng, chỉ hướng lợi ích giữa họ khác nhau lớn.
Phần lớn thành viên giai tầng xã hội mới có ý thức chủ thể tự lực tự cường mạnh, có tinh thần khai phá dám đi trước người khác, nhưng chỉ hướng lợi ích giữa họ với nhau là rất khác nhau. Chủ doanh nghiệp tư nhân hy vọng thị trường càng mở cửa, quyền lợi kinh tế được pháp luật và chính sách bảo hộ càng nhiều. Tầng lớp “áo trắng” của xí nghiệp vốn nước ngoài càng chú ý đến sự ổn định xã hội và bảo đảm phúc lợi. Viên chức tự do lại càng hy vọng trong sự chuyển động xã hội thực hiện chuyển dịch đi lên công bằng. Nhóm này là năng động nhất, sôi động nhất, hoạt động sớm nhất kinh tế thị trường, đồng thời cũng là nhóm có ý thức kinh tế thị trường tương đối mạnh và đa nguyên hóa về quan niệm giá trị .
Thứ tư, Là một quần thể sáng nghiệp, là người tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho xã hội.
Giai tầng xã hội mới, vừa tạo cơ hội việc làm cho mình, vừa cho xã hội. Quá trình sáng nghiệp của chủ doanh nghiệp tư nhân là quá trình tạo ra việc làm. Theo thống kê, hiện nay số việc làm trong kinh tế phi công hữu chiếm gần 75% tổng số việc làm ở thành phố và thị trấn, về vốn đầu tư chiếm gần 70% vốn đầu tư xã hội. Chỉ tính đến hết quí I/2007 đã có trên 5 triệu hộ doanh nghiệp tư nhân TQ, có hơn 69 triệu người làm việc; trên 25 triệu hộ công thương cá thể với hơn 50 triệu người làm việc. Chỉ hai loại kinh tế này đã giải quyết được hơn 110 triệu chỗ làm.
Thứ năm, Trẻ hóa, tri thức hóa là đặc trưng nổi bật của giai tầng xã hội mới, là một quần thể đầy sức sống, sức sáng tạo mới.
Thời kỳ đầu cải cách mở cửa, nhóm người đến từ đáy xã hội hoặc bị đẩy ra rìa xã hội, có thể chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong chủ doanh nghiệp tư doanh, nhưng đến sau thập kỷ 90 thế kỷ trước, xu thế tố chất tổng hợp của chủ doanh nghiệp tư doanh không ngừng nâng lên, xu thế trình độ học vấn được nâng cao, được chuyên môn hóa, tinh giỏi hóa rõ rệt.
Cải cách mở cửa lại nay, 70% sáng tạo mới kỹ thuật, 65% nguồn lợi chuyên về phát minh trong nước và 80% sản phẩm mới đều đến từ xí nghiệp vừa và nhỏ, mà xí nghiệp vừa và nhỏ đều là ngoài công hữu. Đồng thời, hàng trăm nghìn “phái hải qui” đang trở thành quần thể không thể thiếu cho kinh tế TQ cất cánh. 150 ngàn xí nghiệp khoa học kỹ thuật dân doanh đang có vai trò hết sức quan trọng đối với TQ thúc đẩy xây dựng nhà nước kiểu tự chủ sáng tạo mới, xã hội sáng tạo mới.
Thứ sáu, giai tầng xã hội mới là người sở hữu yếu tố sản xuất, phần lớn là người có thu nhập hạng trung, là quần thể phú dân cường quốc.
Trong giai tầng xã hội mới, hộ cá thể là người lao động có tư liệu sản xuất; nhân viên kỹ thuật của xí nghiệp khoa học kỹ thuật dân doanh và nhân viên kỹ thuật của xí nghiệp vốn nước ngoài thuê là người có sở hữu kỹ thuật; nhân viên làm việc cho tổ chức môi giới, viên chức nghề tự do là người có sở hữu tri thức; chủ doanh nghiệp tư nhân là người sở hữu vốn. Họ dựa vào mức cống hiến của các yếu tố sản xuất lao động, tri thức, kỹ thuật, quản lý và vốn để tham gia phân phối xã hội.
Theo điều tra, trong chủ doanh nghiệp tư nhân có 60% số người cho rằng họ là giai tầng có thu nhập hạng trung của xã hội. Chung là cho rằng, một xã hội ổn định, kết cấu xã hội nên là hình quả trám, hai đầu người giàu và người nghèo ít, người trung lưu ở giữa nhiều. Như các nước Bắc Âu, tỷ trọng tầng lớp giữa chiếm trên dưới 80%. Theo yêu cầu kết cấu xây dựng toàn diện xã hội khá giả, tỷ trọng giai tầng có thu nhập hạng trung nên không ngừng tăng lên, giai tầng xã hội mới sẽ làm lớn mạnh giai tầng có thu nhập hạng trung của TQ, sẽ ảnh hưởng lớn đến phú dân cường quốc.
2) Vai trò giai tầng xã hội mới trong tiến trình phát triển xã hội.
Tính hợp pháp của sự xuất hiện và tồn tại của giai tầng xã hội mới đã được xác định. Còn nhìn nhận vai trò giai tầng xã hội mới đối với quá trình xây dựng phát triển đất nước có mấy mức độ, mấy cách xác định:
- Là người xây dựng sự nghiệp CNXH đặc sắc Trung quốc. Đây là quan điểm mà Đại hội XVI xác định, nhìn nhận từ góc độ đóng góp yếu tố sản xuất đối với phát triển đất nước mà 6 loại người trong giai tầng xã hội mới có sở hữu và đóng góp, hợp tác, bổ sung cho nhau cùng phát triển, chứ không theo quan điểm hữu sản hay vô sản, bóc lột hay không bóc lột, tiến bộ hay không tiến bộ, đối lập hay không đối lập như trước.
- Là chủ thể xã hội, là cơ sở của thực hiện hài hòa và ổn định xã hội, là lực lượng quan trọng của phát triển kinh tế xã hội TQ. Đây là xác định được nêu lên trong “Ý kiến về củng cố và mở rộng tăng cường Mặt trận thống nhất trong giai đoạn mới, thế kỷ mới ” của TW đảng CSTQ tháng 11/2006. Sở dĩ xác định như vậy là xuất phát từ mô hình kết cấu xã hội tương lai là hình quả trám, hai tầng lớp quá giàu và quá nghèo thì nhỏ, còn ở giửa là tầng lớp trung lưu thì phình to. Mặt khác thực trạng qui mô số người và thực lực kinh tế, năng lực đóng góp cho phát triển kinh tế xã hội TQ hiện nay và sau này sẽ ngày càng lớn.
Vai trò giai tầng xã hội mới đã được định vị, nhưng để trở thành hiện thực, còn nhiều vấn đề đặt ra, chưa đủ để trở thành lực lượng của biến cách cả xã hội. Trong đó có những vấn đề về thuộc tính vốn có của bản thân giai tầng, nhưng càng nhiều là những vấn đề mà xã hội gán cho họ, chứ không phải vấn đề của tự thân họ.
Những vấn đề thuộc về nhà nước như:
- Xu thế tỷ trọng thu nhập chính phủ trong phân phối của cải xã hội không ngừng tăng lên, thu nhập quốc dân lâu nay không ngừng giảm xuông, nhà nước thu lợi nhiều, dân chúng thu được ít, khó tích lũy của cải, hạn chế qui mô tầng lớp xã hội mới tăng lên;
- Gánh chịu thuế tương đối nặng, hạn chế tính tích cực làm giàu của dân chúng, hạn chế năng lực tái sản xuất của quốc dân, ảnh hưởng tăng số người gia nhập vào giai tầng xã hội mới.
- Công bằng xã hội trong cơ hội phát triển chưa thể hiện tốt. Có không ít người thông qua liên kết tiền quyền bất chính để làm giàu nhanh chóng, còn dân bình thường bị đẩy ra ngoài cơ hội làm giàu công bằng. Kết quả dẫn đến xã hội càng giàu càng tập trung vào số ít người. Tầng lớp trung lưu phát triển đi lên thì ít, đẩy xuống lớp dưới thì nhiều.
- Không ít ngành nghề vẫn là độc quyền lũng đoạn, doanh nghiệp dân doanh, xí nghiệp cá thể khó mà có cơ hội cạnh tranh phát triển công bằng.
- Không ít chế độ chính sách ràng buộc xí nghiệp vừa và nhỏ phát triển chưa được tháo dỡ, cải cách hoàn thiện.
- Bảo đảm xã hội cơ bản như y tế chữa bệnh, học hành của con cái chưa được hoàn thiện, nên không ít người chỉ vì bị bệnh nặng hoặc trả học phí cho con là lại tụt khỏi tầng lớp trung lưu.
Còn những đòi hỏi của họ cũng giản đơn và trực tiếp là cần có môi trường pháp trị công bằng, kinh tế thị trường qui phạm và chính phủ hữu hiệu. Trên thực tế mức độ họ quan tâm các mặt này còn bức thiết hơn cả tầng lớp tư sản lớn. Bởi vì tầng lớp tư sản lớn có thể thông qua các phương thức khác như hối lộ, xã hội đen, thâm nhập tầng cao chính trị, v.v… để bảo hộ mình, còn tầng lớp xã hội mới với số lượng đông đảo không thể và không có điều kiện để thông qua các phương thức đó để bảo hộ mình, mà chỉ thông qua con đường pháp trị để xây dựng một qui tắc phổ biến để tự bảo hộ mình.
Hơn nữa trải qua vật lộn làm ăn họ càng khát vọng có một môi trường chính trị kinh tế xã hội công bằng, công minh, bình đẳng, an toàn, lành mạnh.
Bất kỳ giai tầng nào cũng vậy, khi họ đang ở trên con đường đi lên thông suốt, không ngừng phát triển, lớn mạnh, thực lực kinh tế tăng mạnh, địa vị xã hội nâng cao, tất nhiên sẽ kích thích nhiệt tình tham gia chính trị của họ, đòi hỏi không gian chính trị càng rộng rãi. Không những thế, mà còn cả không gian tham gia phát triển văn hóa nữa. Giai tầng xã hội mới cũng vậy, địa vị hợp pháp của họ đã được nhà nước thừa nhận từ lâu, trong khuôn khổ hệ thống chính trị hiện có, không thể hạn chế sự tham gia chính trị của họ, như thế là vừa không hợp pháp vừa không thể, mà cần tính toán có một không gian tham gia chính trị, văn hóa cho họ. Đây cũng là một tiêu chí quan trọng thử thách tính thích ứng của thể chế liệu có năng lực hay không dung nạp tập đoàn lợi ích mới phát sinh.
Vấn đề đối với tự thân giai tầng xã hội mới là:
Với một quần thể những người tinh anh của xã hội không chỉ có đòi hỏi quyền lợi, mà cũng cần gánh chịu trách nhiệm xã hội. Từ cải cách mở cửa lại nay, chính giai tầng xã hội mới được hưởng nhiều điều tốt của phát triển xã hội đem lại, họ càng phải có trách nhiệm xã hội hơn nữa. Nhưng trong giai đoạn lịch sử vừa qua đã thể hiện rõ nhược điểm lớn của họ là thiển cận, bảo thủ, thiếu động lực hành động đúng. Có lúc, có bộ phận lo chạy theo lợi ích trước mắt, thiếu trách nhiệm xã hội đối với phát triển kinh tế của đất nước. Một số không bằng lòng với hiện trạng của mình muốn phất lên nhanh, làm ăn chụp giựt với tâm lý may rủi, thực hiện “tiền” “quyền” giao dịch phi pháp, thậm chí có người còn mang theo “nguyên tội tư bản” trong làm ăn, làm cho hình ảnh xã hội của giai tầng không đẹp trong con mắt công chúng, sự nhìn nhận đánh giá của công chúng đối với họ càng phức tạp. Ngay cả một số người thực sự đã thuộc giai tầng xã hội mới, nhưng không muốn người khác coi mình là thuộc giai tầng xã hội mới.
Vấn đề của xã hội đối với giai tầng xã hội mới:
Mặc dầu giai tầng xã hội mới đã có đóng góp cho xã hội về nguồn vốn, thuế thu, tạo cơ hội việc làm, v,v… là rất quan trọng, nhưng với thước đo đánh giá truyền thống dân gian lại khác, “rất có tiền” kể cả nguồn tiền có được không rõ ràng, với mức độ rất lớn đã trở thành trở ngại tâm lý xã hội chủ yếu đối với đánh giá khách quan đối với giai tầng xã hội mới này. Cơ sở đạo đức của trở ngại tâm lý này chủ yếu được xây dựng từ “quan niệm tài phú truyền thống’ của xã hội Trung quốc. Một điều tra xã hội học của “Báo Thanh niên Trung quốc”, chỉ có 58,5% người được hỏi thừa nhận cống hiến của giai tầng xã hội mới đối với phát triển kinh tế xã hội là tương đối lớn. Có 50,5% người được hỏi không thừa nhận mình thuộc giai tầng xã hội mới, mặc dầu họ thừa nhận giai tầng này có cống hiến lớn cho xã hội, đời sống giàu có, trình độ văn hóa cao, nhưng nếu có thể chọn lựa, thì đến 42,3% số người muốn làm việc trong cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, chứ không muốn chọn trong lĩnh vực kinh tế tư nhân hoặc nghề tự do. Tức là trong xã hội còn tồn tại mức độ nhất định chia cắt nhân cách trong không ít người. Họ khen tốt nhưng không muốn ngồi chung cùng ghế với giai tầng xã hội mới. (Tâm trạng này thể hiện rõ trong thi tuyển công chức hàng năm, tỷ lệ chọi ngày càng cao vọt, không phải 1 chọi trăm, mà 1 chọi ngàn, hàng ngàn.)
Vấn đề cơ sở lý luận về giai tầng xã hội mới.
Từ thực tiễn phân hóa giai tầng xã hội ở các nước phát triển đã trải qua cho thấy, đều chủ yếu là do chịu sự tác động của cách mạng sản nghiệp và cách mạng kỹ thuật và quá trình diễn ra từ từ từng bước. Còn sự biến đổi kết cấu giai tầng xã hội của Trung quốc lại gắn liền với các quá trình phát triển kinh tế thị trường, biến cách thể chế kinh tế chính trị, điều chỉnh kết cấu sản nghiệp, kích thích của khoa học kỹ thuật mới và toàn cầu hóa cùng tác động vào một lúc, tốc độ nhanh, qui mô lớn, vượt qua mức bình thường chung, vì thế ranh giới giữa các giai tầng còn chưa rõ nét, vai trò xã hội luôn thay đổi. Điều này làm cho ngay bản thân giai tầng xã hội mới cũng thiếu sự đồng thuận với định vị vai trò của mình. Còn đối với xã hội nói chung cũng không thể có sự đồng thuận ngay từ đầu trước một sự vật mới xuất hiện, nên đã có những cuộc tranh cãi lớn về giai tầng xã hội mới trong những năm gần đây.
6 loại người trong giai tầng xã hội mới như phần trên đã nêu tuy là rất đa dạng, không thật đồng chất, không cùng chỉ hướng lợi ích, v.v…, nhưng do quá trình phát triển kinh tế thị trường, cải cách thể chế kinh tế, chính trị, điều chỉnh kết cấu sản nghiệp, v.v.. đã sản sinh ra họ và kéo họ gắn kết các yếu tố mà mỗi loại người sở hữu lại với nhau trong quá trình sáng tạo ra của cải của xã hội. Đây là điểm chung nhất, cơ bản nhất gắn kết họ lại với nhau trong cùng một giai tầng xã hội, mà như Đại hội XVI của đảng CSTQ đã nêu “…lao động, tri thức, kỹ thuật, quản lý và tiền vốn là cội nguồn của sáng tạo của cải xã hội”, thì giai tầng xã hội mới cũng là nguồn lực sáng tạo ra của cải xã hội Trung Quốc.
Đồng thời họ cũng là người được hưởng lợi trực tiếp của quá trình chuyển đổi, cải cách, điều chỉnh,… các mặt nói trên. Vì chính nhờ những chuyển đổi cải cách này mới có không gian cho phát triển kinh tế phi công hữu, mới có hộ cá thể, chủ doanh nghiệp tư nhân, mới có một loạt tổ chức kinh tế mới, tổ chức trung gian mới, tổ chức xã hội mới, mới có một loạt ngành nghề mới, việc làm mới, chức danh mới, v.v…mà có 6 loại người trong giai tầng xã hội mới.
Để có sự đồng thuận với giai tầng xã hội mới cũng cần chuyển đổi nhận thức từ “quan niêm truyền thống về giàu có” sang “quan niệm mới về giàu có”. Với quan niệm truyền thống Trung Quốc đối với người giàu có, nhiều tiền, là những người ngồi mát ăn bát vàng. Sự giàu có của họ đều chất đầy máu, mồ hôi, nước mắt của người nghèo khổ, là cô dặc sự bất bình đẳng, không công bằng giữa tầng lớp giàu có với người lao động nghèo khổ trong xã hội. Sự giàu có của họ không đem lại lợi ích gì cho người nghèo khổ, mà ngược lại họ càng giàu thì người nghèo càng nghèo càng khổ đau nhiều hơn. Từ đó hình thành quan niệm thù hận những người giàu có, thù hận với những đồng tiền họ có, nghi hoặc không tin cậy vào lớp người này. Với quan niệm này là khó đồng thuận với tầng lớp xã hội mới hiện nay.
Còn sự giàu có, nhiều tiền của giai tầng xã hội mới ngày nay khác hẳn trước. Nói một cách ngắn gọn là, những tiền của tài sản của giai tầng xã hội mới, suy cho cùng chính là “nguồn tư bản chung của xã hội” được gắn vào cái tên “giai tầng xã hội mới”, nhưng không dùng hết vào tiêu xài riêng của bản thân giai tầng xã hội mới mà phần lớn dùng vào sự phát triển chung của xã hội. Cụ thể như với số tiền vốn 10.000 tỷ nhân dân tệ mà hiện nay giai tầng xã hội mới nắm và quản lý, giả dụ họ dùng cho tiêu dùng bản thân cứ cho là hết 2.000 tỷ, còn lại 8.000 tỷ dùng vào đầu tư phát triển, như dùng vào sáng tạo kỹ thuật mới, vào tái sản xuất mở rộng, v.v…Qua đó tạo ra công ăn việc làm mới, tạo ra nguồn thuế thu, đóng góp cho ngân sách nhà nước, đóng góp quĩ từ thiện xã hội, v.v… Mà nguồn vốn càng quay vòng càng đẻ ra thêm. Cứ như vậy, vòng tuần hoàn vốn cứ quay, qui mô tư bản của giai tầng xã hội mới càng lớn lên, đóng góp cho xã hội càng tăng lên. Giai tầng xã hội mới càng giàu lên thì xã hội cũng giàu theo lên, đất nước cũng sẽ mạnh theo lên, khác hẳn với sự giàu có của tầng lớp giàu có ngày xưa. Chính đây là quan niệm mới về sự giàu có đối với giai tầng xã hội mới đòi hỏi có sự chuyển đổi nhận thức trong xã hội.
Giai tầng xã hội mới xuất hiện là sản phẩm tất yêu của sự chuyển đổi xã hội, đồng thời cũng là báo hiệu sự thách thức với mô thức quản lý truyền thống “to chính phủ nhỏ xã hội”, và cảnh báo một cách sinh động về những di chứng của mô thức cũ đang chờ giải quyết, nhất là nếu các mặt cải cách thể chế chính trị, xây dựng xã hội mới không tiến cùng tiến trình hiện đại hóa, sẽ có rất nhiều vấn đề lần lượt bày ra trước mắt đòi hỏi giải quyết, mà trước hết là cần chuyển đổi chức năng, cơ cấu tổ chức chính phủ theo hướng xây dựng một chính phủ hiện đại, tạo ra quan hệ hài hòa và hiệu quả giữa chính phủ với các tổ chức xã hội.
Hầu như mọi quốc gia phát triển, trên con đường chuyển đổi đều mong muốn hình thành một “xã hội thị dân”. Bởi vì đoàn thể dân gian không chỉ có thể trở thành công cụ hữu hiệu của giám sát quyền lực, mà còn là chất bôi trơn giữa “miếu đường” với “giang hồ”, giữa “cái thiện” với “cái ác”. Xã hội thị dân thành thục, có thể để một số vấn đề xã hội được giải quyết ngay tại cơ sở, từ đó làm cho xã hội càng thêm hài hòa. Trung quốc đang trong thời kỳ chuyển đổi, sự phân công xã hội càng tinh tế, quản lý càng phức tạp, vấn đề càng đan xen, chính vì vậy càng cần lực lượng đến từ nhân dân cùng với chính phủ chung tay xây dựng xã hội mới, phát huy công năng tự quản lý, tự điều chỉnh của xã hội. Một xã hội thị dân thế này được hình thành, trưởng thành đều bắt nguồn từ sự trưởng thành của thị trường và tổ chức phi chính phủ, tức là từ sự trưởng thành, lớn mạnh của giai tầng xã hội mới.
3) Định hướng lãnh đạo chỉ đạo của đảng và nhà nước.
Trong “Ý kiến về củng cố và làm lớn mạnh Mặt trận thống nhất giai đoạn mới thế kỷ mới” của TW đảng CSTQ tháng 11/2006 đã xác định : “… giai tầng xã hội mới là người xây dựng sự nghiệp CNXH đặc sắc Trung quốc, đang phát huy vai trò quan trọng trong thúc đẩy cùng giàu có, xây dựng xã hội hài hòa XHCN, xây dựng toàn diện xã hội khá giả…..Nhân sĩ giai tầng xã hội mới là trọng điểm mới của công tác Mặt trận, với mức độ lớn nhất đoàn kết họ xung quanh đảng, phát huy đầy đủ vai trò của họ, không ngừng qui tụ lực lượng mới cho thực hiện sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa…” Giai tầng xã hội mới có vai trò vị trí hết sức quan trọng, nhưng vẫn trong giai đoạn bước đầu hình thành, về lượng cũng chỉ mới trên 11% dân số, về chất cũng còn không ít vấn đề đặt ra như trên, vì vậy TW đảng CSTQ nhấn mạnh, vừa phải khẳng định và phát huy đầy đủ vai trò quan trọng của giai tầng xã hội mới, lại phải tăng cường giáo dục dẫn dắt, thúc đẩy nhân sĩ kinh tế phi công hữu trưởng thành lành mạnh, kinh tế phi công hữu phát triển lành mạnh. TW xác định phương châm công tác 20 chữ: “tôn trọng đầy đủ, liên hệ rộng rãi, tăng cường đoàn kết, nhiệt tình giúp đỡ, tích cực dẫn dắt” đối với giai tầng xã hội mới. Trong phương pháp công tác cần “lấy xã đoàn làm khâu nút, lấy xã khu làm chỗ dựa, lấy mạng tin học làm môi giới, lấy hoạt động làm chỗ nắm.”
Sau khi có ý kiến chỉ đạo của TW, Mặt trận thống nhất đã triển khai các hoạt động:
Tổ chức công tác điều tra nghiên cứu tình hình các mặt về giai tầng xã hội mới để nắm được đầy đủ tình hình thực chất, tìm rõ qui luật phát triển, các vấn đề đặt ra, v.v..
Tổ chức các lớp nghiên cứu lý luận định kỳ hàng năm cho các nhân sĩ giai tầng xã hội mới.
Tổ chức Hội nghị công tác giai tầng xã hội mới hàng năm.
Tổ chức bình chọn vinh danh danh hiệu “người xây dựng sự nghiệp CNXH đặc sắc TQ” hàng năm bắt đầu từ năm 2005. Như lần đầu tiên đã có 99 vị được binh chọn tuyên dương và nhận giải thưởng.
Đã tiến hành công tác qui hoach tổng thể về xây dựng đội ngũ nhân sĩ đại biểu ngoài đảng trong giai tầng xã hội mới để bồi dưỡng đề bạt. Hiện nay đã có trên 10 vị nhân sĩ chuyên môn là đại biểu Nhân đại tòan quốc, là Ủy viên Chính hiệp toàn quốc. Rất nhiều vị nhân sĩ chuyên môn được giới thiệu đảm nhận Kiểm sát viên đặc biệt, Kiểm toán viên đặc biệt của Viện Kiểm sát, Bộ Giám sát. Còn có nhân sĩ chuyên môn đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo cua cơ quan Tư pháp.
Đang bắt tay xây dựng hệ thống đánh giá giai tầng xã hội mới. Hệ thống này sẽ là căn cứ tham khảo quan trọng cho đánh giá nhân sĩ giai tầng xã hội mới.
Tại các buổi lễ tuyên dương nhân sĩ đạt danh hiệu “người xây dựng…”, đã có không ít nhân sĩ nêu lên trách nhiệm của giai tầng xã hội mới đối với xã hội với cách diễn đạt khác nhau, nhưng qui lại là cần nâng cao trách nhiệm xã hội trên 5 mặt:
- Thành thực kinh doanh, kinh doanh theo pháp luật, nạp thuế theo qui định. Đây là nghĩa vụ cơ sở, nền tảng;
- Giữ gìn sự hài hòa của quan hệ bên ngoài và quan hệ nội bộ;
- Bảo về môi trường, có trách nhiệm với thế hệ con cháu mai sau;
- Quyên góp từ thiện, giúp đỡ nghèo khó;
- Kế thừa văn minh, thúc đẩy phát triển văn hóa Trung hoa.
Một số nhân sĩ còn đề nghị nhà nước cần định ra một hệ thống tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội có tính hệ thống, tính chỉ đạo và tính thực dụng tương đối mạnh để tăng cường quản lý, dẫn dắt đối với trách nhiệm xã hội của giai tầng xã hội mới./.
(Tổng hợp từ các bản tin, bài viết trên Nhật báo nhân dân ngày13/02/2007, ngày 11/6/2007, ngày 09/4/2008. Mạng Tân hoa ngày 25/12/2006, ngày 08/3/2008. Nhật báo Giải phóng ngày 21/6/2006. Nhật báo Quảng châu ngày 20/6/2007. Thời báo Công thương Trung hoa ngày 08/82007. Tham khảo kinh tế ngày 10/5/2010.)
Còn tiếp....