Sự khó xử của nước lớn: Góc độ hiện thực
Việc nước Trung Quốc mới được thành lập năm 1949 đánh dấu một đất nước chịu đủ nỗi khổ về biển kể từ cận đại tới nay cuối cùng đã đứng dậy, giành đtrợc độc lập theo ý nghĩa thật sự. Việc giành được ghế chính thức của Liên Hợp Quốc năm 1971 đánh dấu sự thừa nhận phổ biến của cộng đồng quốc tế đối với chủ quyền của Trung Quốc (bao gồm quyền lực trên biển). Hơn 60 năm qua, Trung Quốc luôn dốc sức thay đổi cục diện lạc hậu bế quan tỏa cảng, không coi trọng biển trước đây, cũng đã đạt được những thành tựu khiến người khác ngưỡng mộ, song do hàng loạt nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong các vấn đề liên quan đến biển, Trung Quốc vẫn chưa thể thoát khỏi tình thế bế tắc về chiến lược, vẫn là một nước lớn còn khó xử. Sự khó xử này thể hiện ở hai mặt sau: Một là xét địa vị thực lực khách quan, Trung Quốc nên là một nước lớn về biển, song lại là một nước nhỏ về quyền lực trên biển, ít có quyền phát ngôn đối với các vấn đề về biển, điều này rất không tương xứng với địa vị nước lớn của Trung Quốc. Hai là quyền và lợi ích trên biển (bao gồm lãnh thổ biển) liên tục xảy ra tranh chấp, bất cứ nước nào dường như cũng đều dám bắt nạt, thách thức Trung Quốc, Trung Quốc dường như luôn rơi vào trạng thái đối phó bị động, phòng ngự tiêu cực. Sự hình thành tình thế khó xử này chủ yếu có nhân tố khách quan bên ngoài và nguyên nhân chủ quan bên trong.
Xét nhân tố khách quan bên ngoài, chủ yếu có ba điểm:
Thứ nhất, môi trường địa-chính trị biển của Trung Quốc rất xấu. So với các nước lớn trên thế giới hiện nay, môi trường địa-chính trị biển của Mỹ tốt nhất, nó không gặp bất cứ trở ngại nào, tiếp giáp với ba đại dương (Thái Bình Dương, Đại Tây Dương và Bắc Băng Dương), các tuyến đường chiến lược trên biển vô cùng thông suốt; thứ hai là Nga, tiếp giáp với hai đại dương (Thái Bình Dương và Bắc Băng Dương); môi trường địa-chính trị biển của Trung Quốc xấu nhất, chỉ tiếp giáp vói một đại dương (Thái Bình Dương), hơn nữa trên các tuyến đường chiến lược hướng ra đại dương bị ngăn trở bởi nhiều quốc gia và khu vực có chế độ chính trị và ý thức hệ khác nhau, tuyến đường chiến lược trên biển vô cùng chật hẹp, dễ bị nước khác kiềm chế. Xét từ góc độ nào đó, với mặt hướng ra biển nhỏ hẹp như vậy, có thể nói Trung Quốc “có biển mà không có đại dương”.
Thứ hai, còn nhiều vấn đề tàn dư của lịch sử, mâu thuẫn liên quan tới nhiều mặt. Đài Loan hiện vẫn nằm ở nước ngoài, trở thành khiếm khuyết của quyền lực trên biển phía Đông Trung Quốc; ở Đông Hải (Biển Hoa Đông), Trung Quốc còn có tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku với Nhật Bản; ở Hoàng Hải tranh chấp với Hàn Quốc về bãi đá ngầm Socotra; ở Nam Hải (Biển Đông) tranh chấp các đảo với nhiều quốc gia; hơn nữa, tranh chấp về các đảo san hô này ngày càng có xu thế gay gắt, “sự kiện đảo Hoàng Nham” và “làn sóng đảo Điếu Ngư” xảy ra gần đây chính là ví dụ.
Thứ ba, sức ép của hệ thống quốc tế do sự trỗi dậy của Trung Quốc mang lại. Trung Quốc trỗi dậy là sự kiện quan trọng nhất của cộng đồng quốc tế gần 30 năm quá, nó có những ảnh hưởng to lớn tới cục diện và trật tự quốc tế, song cũng khó tránh khỏi đúng trước sức ép lớn của hệ thống quốc tế. Đặc biệt là 2, 3 năm gần đây, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, nhịp độ trỗi dậy của Trung Quốc đã bị “đẩy nhanh” nên dẫn tới sức ép của hệ thống quốc tế cũng tăng lên chưa từng có. Hiện sức ép lớn nhất đối với Trung Quốc là đến từ Mỹ. Sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, bá quyền đơn cực Mỹ suy yếu nhanh, mặc dù Mỹ vẫn có ảnh hưởng và sự kiểm soát lớn ở châu Á, song cùng với sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc ở châu Á, cuộc đọ sức giữa Mỹ và Trung Quốc về lợi ích hiện thực, địa chính trị và tranh giành quyền chủ đạo khu vực cũng trở nên gay gắt hơn, việc Mỹ đẩy mạnh mức độ kiềm chế đối với Trung Quốc đã hình thành sự phối hợp công khai với kiểu “dựa vào Mỹ kiềm chế Trung Quốc” của các nước xung quanh. “Chuỗi đảo thứ nhất, chuỗi đảo thứ hai” được Mỹ dày công xây dựng nhằm vào Trung Quốc hơn 60 năm trước lại phát huy tác dụng, các nước đồng minh của Mỹ trong chuỗi đảo như Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippin, Inđônêxia và Xinhgapo V.V… tự nhiên được đẩy lên tuyến đầu. Không chỉ có vậy, một số trong những quốc gia này lại có tranh chấp quyền và lợi ích biển hoặc có xung đột lợi ích lớn về biển với Trung Quốc, điều này đã tạo những cơ hội quý báu để Mỹ “gây hấn có định hướng” các chuỗi đảo, và tín hiệu trực tiếp của việc “gây hấn có định hướng” chính là “chiến lược dịch chuyển về phía Đông” và “quay trở lại châu Á” mà Mỹ cao giọng nhấn mạnh. Vì vậy, sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ lần này cùng trở thành nguyên nhân quan trọng nhất khiến các vấn đề biển xung quanh Trung Quốc hiện liên tiếp xảy ra.
Về nhân tố chủ quan bên trong, chủ yếu có hai điểm:
Thứ nhất, nhận thức tổng thể về biển của Trung Quốc tương đối kém, quan niệm về quyền lực trên biển mờ nhạt. Do chịu ảnh hưởng của văn hóa quyền lực trên đất liền truyền thống, cộng với đóng cửa đất nước háng trăm năm, người dân Trung Quốc vẫn khá xa lạ đối với biển, thiếu “tình cảm mãnh liệt” cần có. Người dân Trung Quốc có tình cảm rất sâu đậm đối với đất đai trên đất liền mà tổ tiên đã phải dùng mồ hôi và sinh mệnh để khai khấn, ý thức gìn giữ đất đai vô cùng mạnh mẽ, song thiếu sự quan tâm đúng mức đối với lãnh thổ biển, quyền và lợi ích biển, thiếu “cảm giác đau khổ” cần có đối với phần lãnh thổ biển bị mất và quyền lợi biển bị xâm phạm. Ví dụ, trong cuộc điều tra năm 2010 của Cục Hải dương quốc gia có một câu hỏi như sau: “Trung Quốc có lãnh thổ rộng lớn, tài nguyên phong phú, hơn nữa duy trì mối quan hệ hòa thuận với các nước láng giềng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc tạo ra môi trường bên ngoài tốt đẹp để phát triển kinh tế, vì vậy, việc tranh giành một số đảo nhỏ ở xa, không có người ở, khai thác gặp nhiều khó khăn không có mấy ý nghĩa”.
Trên 60% số người được hỏi giữ thái độ trung lập và ủng hộ đối với vấn đề này, cho thấy ý thức bảo vệ của mọi người đối với lãnh thổ biển hết sức mờ nhạt. Ngoài ra, trong số những người được hỏi, chỉ có 10,7% biết đất nước có vùng biển quản lý rộng khoảng 3 triệu km; 13% biết tổng chiều dài bờ biển; chỉ có 10,5% biết có trên 6.500 đảo trên 500 m2; lần lượt có 5,4%, 4% và 4,2% hiểu chính xác các khái niệm như lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; phần lớn mọi người đều không hiểu nhiều về “Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển”; chỉ có 16,7% biết rõ biển chiếm khoảng 70% diện tích trái đất. Trong ý thức của nhiều người Trung Quốc, biển cách chúng ta rất xa, Tam Á ở Hải Nam đã là “chân trời góc biển”, thật không ngờ chúng ta còn có bãi ngầm Tăng Mầu ở xa hơn. Sự mờ nhạt về ý thức biển dẫn tới việc xem nhẹ đối với quyền lực trên biển; sự xem nhẹ đối với quyền lực trên biển lại làm cho Trung Quốc chưa thật coi trọng việc xây dựng năng lực kiểm soát đối với biển (ví dụ xây dựng hải quân, thành lập cơ quan quản lý giám sát biển), và đây chính là điều chí mạng.
Thứ hai, chưa nắm bắt tốt một số thời cơ chiến lược nào đó, Do thiếu chiến lược lớn về biển có hệ thống, cộng thêm tư tưởng coi trọng quyền lực trên đất liền làm cho Trung Quốc đánh mất một số thời cơ chiến lược nào đó trong việc giành được và bảo vệ quvền và lợi ích biển, điều này lại làm cho tình cảnh khó khăn ở biển của Trung Quốc hiện nay thêm trầm trọng. Ví dụ, trong vấn đề đảo Điếu Ngư ở Đông Hải, Trung Quốc từng có cơ hội lợi dụng sự chủ động chiến lược và ưu thế được hình thành nhân chuyến thăm bí mật của Nixon tới Trung Quốc năm 1972, dựa vào việc nhà cầm quyền Nhật Bản năm đó muốn thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc để đưa ra đúng lúc Vấn đề chủ quyền đảo Điểu Ngư thuộc về Trung Quốc, vì sự hữu nghị lâu dài của nhân dân Trung-Nhật, Trung Quốc đã chủ động từ bỏ khoản bồi thường sau chiến tranh của Chính phủ Nhật Bản, do đó năm 1972 đã trở thành cơ hội tuyệt vời để giải quyết vấn đề Đảo Điếu Ngư. Trong vấn đề đảo san hô ở Nam Sa (Trường Sa), Trung Quốc cũng có 3 cơ hội giải quyết vấn đề này với Việt Nam. Ba thời cơ này lần lượt là vào năm 1974, 1979 và 1988. Thời cơ đầu tiên là nhân uy lực còn lại của chiến thắng ở Tây Sa (Hoàng Sa), tiến về phía Nam giành lại các bãi đá san hô ở Nam Sa; thời cơ thứ hai là có thế lợi dụng cuộc phản kích tự vệ đối với Việt Nam năm 1979, thu hồi Nam Sa; thời cơ thứ ba là nên mở rộng đúng lúc thành quả chiến đấu của cuộc hải chiến Trường Sa ngày 14/3/1988, đánh vào sự khiêu khích kiêu ngạo của Việt Nam, thu lại nhiều đảo san hô bị xâm chiếm. Trong khu vực các đảo san hô có tranh chấp, quyền kiểm soát thực tế có ý nghĩa hiện thực hết sức to lớn, nó có thể đảm bảo cho các cuộc đàm phán của đất nước. Song do hàng loạt nguyên nhân, Trung Quốc chưa nắm được những thời cơ chiến lược tốt có thể giải quyết tình thế bế tắc ở biển.
Duy trì và tăng cường quyền lực trên biển để kiểm soát biển: bưóc đột phá tiếp theo
Biển là ngôi nhà của nhân loại, là sân chơi quan trọng cho sự phát triển của các nước trên thế giới trong tương lai. “Có biển thì hưng thịnh, mất biển sẽ suy vong” đã trở thành nhận thức chung của nhiều nước. Được coi là nước lớn về biển trên thế giới hiện nay, Trung Quốc cần rút kinh nghiệm của lịch sử, nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của biển, phá vỡ tình cảnh tiến thoái lưỡng nan ở biển bấy lâu nay.
Thứ nhất, nâng cao nhận thức và bồi dưỡng tình cảm của người dân đối với biển, nỗ lực phát huy vai trò của người dân trong việc bảo vệ quyền và lợi ích trên biển. Nâng cao nhận thức của người dân đối với biển là một công trình hệ thống, cần sự nỗ lực chung của chính phủ và các bên trong xã hội. Nhìn chung, nhận thức của người dân Trung Quốc về biển tương đối thấp, trình độ nói chung cần được nâng lên, mức độ hiểu biết của phần đông người dân đối với biển khá thấp, thiếu nhận thức cơ bản đối với khoa học biện, điều này không phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, cũng không phù hợp với yêu cầu thực thi chiến lược cường quốc biển của Trung Quốc. Để thay đổi tình trạng này, Trung Quốc cần phải ra sức tăng cường xây dụng văn hóa biển, phổ biến rộng rãi kiến thức về biển, nâng cao “tình cảm mãnh liệt” của người dân đối với biển. Mấy năm gần đây, cùng với sự trỗi dậy của Trung Quốc, mức độ quan tâm của người dân đối với biển được nâng lên nhiều, ngày càng có nhiều người bày tỏ ý thức và tình cảm mãnh liệt trong việc bảo vệ quyền và lợi ích biển. Đây là cơ sở tốt để Trung Quốc phát huy sức mạnh của lực lượng quần chúng nhân dân trong việc bảo vệ quyền và lợi ích biển. Xét thực tiễn ngoại giao hiện đại, các lực lượng quần chúng nhân dân đóng vai trò vô cùng đặc biệt trong các cuộc tranh chấp quốc tế, có lúc có thể đóng vai trò đặc biệt mà chính phủ không làm được. Trong các tranh chấp quyền và lợi ích biển cũng vậy, Trung Quốc có thể cân nhắc áp dụng phương pháp kết hợp giữa chính phủ và quần chúng nhân dân để kiện tụng và bảo vệ đối với phần lãnh thổ có tranh chấp. Ví dụ, có thể nhân nhắc học hỏi các mô hình như “công trình hy vọng”, “công trình yêu nước” (gương điển hình người tốt việc tốt-ND), thiết lập “công trình Nam Sa”, phát huy hết mức sức mạnh yêu nước trong dân chúng, một số đảo san hô không có người ở của Nam Sa do các lực lượng quần chúng nhân dân quyên góp tiền “đỡ đầu” được gọi tên bằng các địa danh. Ví dụ, đảo san hô được lực lượng quần chúng ở Bắc Kinh, Quảng Châu “đỡ đầu” có thể gọi là “đảo Bắc Kinh”, “đảo Quảng Châu”, người dân các khu vực có thể định kỳ tổ chức quyên góp tiền để tới các đảo san hô này tiến hành các hoạt động bảo vệ môi trường biển hoặc khảo sát khoa học biển. Phương thức hoạt động bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các lực lượng quần chúng nhân dân phù hợp với phương thức tham gia các công việc quốc tế của các tổ chức quốc tế với thế giới hiện nay (ví dụ “Tổ chức hòa bình xanh”, “Tổ chức cấm đánh bắt cá voi quốc tế” v.v…), dễ nhận được sự đồng tình và ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Hơn nữa, Trung Quốc còn có thể thông qua phương thức bảo vệ quyền lợi hợp pháp này tiến hành giáo dục chủ nghĩa yêu nước đối với người dân, để tình cảm yêu nước của người dân tìm được chỗ gửi gắm.
Thứ hai, vạch ra chiến lược lớn về biển phù hợp với tình hình đất nước, khiến Trung Quốc trong tương lai có phương hướng chiến lược đúng đắn rõ ràng đối với việc khai thác sử dụng biển, về mặt khách quan, Trung Quốc có khiếm khuyết địa lý biển tự nhiên, phía Bắc tính từ quần đảo Aleutian, “chuỗi đảo thứ nhất” tính từ phía Nam tới Xinhgapo “ôm chặt” đất nước Trung Quốc, về tổng thể, Trung Quốc ở trong trạng thái bị bao vây. Muốn phá vỡ tình thế này, Trung Quốc phải có chiến lược lớn về biển lâu dài, giống như Peter Đại đế của nước Nga năm đó khăng khăng tìm đường ra biển, thực hiện mục tiêu chiến lược biển của Trung Quốc bằng sự nỗ lực của một hoặc bao thế hệ, thực hiện sự chuyển đổi từ nước lớn về biển thành cường quốc biển. Chiến lược lớn về biển cần bao gồm nhiều mặt, gồm các mục tiêu chiến lược như chính trị, kinh tế và quân sự, trong đó nhất định phải có sự thiết kế chiến lược phá vỡ vòng vây của “chuỗi đảo thứ nhất”. Trung Quốc phải nói rõ với thế giới rằng “chuỗi đảo thứ nhất” không phải là chuỗi đảo phong tỏa Trung Quốc mà là tuyến phòng thủ thứ nhất để Trung Quốc bảo vệ an ninh lãnh thổ phía Đông, có thể gọi nó là “vòng cung an ninh Đông Á”, vị trí của nó cơ bản trùng hợp với “chuỗi đảo thứ nhất”. Mục đích của việc lập “vòng cung an ninh Đông Á” là để xây dựng chiều sâu phòng ngự chiến lược, bảo vệ an ninh lãnh thổ phía Đông Trung Quốc vì phần lãnh thổ này tập trung trên 60% của cải và là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa quan trọng nhất của đất nước (ví dụ Bắc Kinh, Thượng Hải và Quảng Châu). Trong tương lai, các lực lượng trên biển của Trung Quốc sẽ thường xuyên hoạt động gần “chuỗi đảo thứ nhất” để các nước phương Tây đặc biệt là Nhật Bản thích ứng với sự thực này, chớ nên luôn kinh ngạc rằng “hải quân Trung Quốc lại một lần xuyên qua chuỗi đảo thứ nhất rồi !”
Cuối cùng, ra sức duy trì và tăng cường quyền lực trên biển, tăng cường sức cạnh tranh trên biển. Quyền lực trên biển là nền tảng của cường quốc biển, không có quyền lực trên biển lớn mạnh thì không thể đảm bảo quyền và lợi ích biển của đất nước. Nhìn tổng quát lịch sử thế giới cận đại, các nước lớn đã trỗi dậy cơ bản đều là các cường quốc có quyền lực trên biển, trong cuộc tranh giành lợi ích quốc gia, các cường quốc có quyền lực trên biển luôn đạt được nhiều lợi ích nhất. Những kỳ tích Trung Quốc đạt được trong 30 năm cải cách mở cửa ở chừng mực rất lớn đều được lợi từ biển, bất kể thương mại, đầu tư quốc tế hay là đặc khu kinh tế ven biển đều không tách rời nguyên tố biển, và những điều này đều cần được bảo vệ bằng quyền lực trên biển hùng mạnh. Xét xu thế phát triển của Trung Quốc trong tương lai, nguồn tài nguyên trong nước hiện nay không thể đáp ứng yêu cầu cải thiện điều kiện sống của 1,4 tỷ người, vì vậy rất cần nguồn tài nguyên của bên ngoài và việc giành được nguồn tài nguyên bên ngoài cũng cần sự bảo vệ của quyền lực trên biển.
Xây dựng hải quân là bộ phận cấu thành quan trọng nhất trong sự cấu thành quyền lực trên biển. Từ khi nước Trung Quốc mới được thành lập đến nay, lực lượng hải quân đã giành được những thành tựu rất lớn, song vẫn chưa thật tương xứng với địa vị nước lớn về biển của Trung Quốc, vẫn còn khoảng cách lớn so với cường quốc hải quân số 1 thế giới. Đối với Trung Quốc, việc phát triển lực lượng hải quân hùng mạnh có hai ý nghĩa: Một là chọc thủng vòng vây chuỗi đảo, giành được tuyến đường chiến lược ở biển xa, là bộ phận cấu thành quan trọng tạo thành “vòng cung an ninh Đông Á”; hai là hình thành khả năng răn đe lớn, “khuất phục kẻ thù mà không cần chiến đấu”, bảo vệ hòa bình khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Vì lý do đó, về mặt tư tưởng chiến lược, Trung Quốc phải thay đổi sách lược phòng ngự tiêu cực ở biển gần, xây dựng hải quân thành lực lượng có khả năng hoạt động ở biển xa. Đại tướng Tiêu Kình Quang, một trong những người sáng lập hải quân Trung Quốc từng đưa ra ý tưởng chiến lược thành lập hạm đội Thái Bình Dương, nguyên Tư lệnh hải quân Trung Quốc, Thượng tướng Lưu Hoa Thanh cũng từng đề ra mục tiêu lớn lao hải quân Trung Quốc vượt qua chuỗi đảo thứ nhất, chuỗi đảo thứ hai, tiến vào Thái Bình Dương. Từ lý luận quyền lực trên biển cho thấy những ý tưởng chiến lược này đều có tầm nhìn xa trông rộng, hải quân Trung Quốc quả thực phải có sự thiết kế chiến lược như vậy, nếu không sẽ có khả năng bị trói buộc ở biển gần. Người viết cho rằng bán kính tác chiến của hải quân Trung Quốc trong tương lai ít nhất nên mở rộng tới ngoài chuỗi đảo thứ nhất, phía Bắc nên tới quần đảo Ogasawara, phía Đông tới quần đảo Micronêxia, phía Tây tới biển Adaman. Đây không chỉ nhu cầu bảo vệ an ninh quốc gia Trung Quốc mà còn là nhu cầu bảo vệ hòa bình khu Vực châu Á-Thái Bình Dương. Chỉ khi thực lực của hải quân Trung Quốc đạt tới bước tương xứng với sức mạnh đất nước thì mói có thể đạt được hiệu quả “không đánh mà chiến thắng kẻ địch”. Đặc biệt là trong Vấn đề Nam Hải, chỉ khi Hạm đội Nam Hải có ưu thế tuyệt đối thì mới có thể mạo hiểm khiêu khích các nước có tranh chấp với Trung Quốc, nếu ưu thế không rõ rệt sẽ kích động dã tâm chạy đua vũ trang của họ, tìm cách dựa vào phương pháp mấy chiếc tàu chiến để khiêu khích Trung Quốc, tiếp tục xâm chiếm thậm chí tăng cường xâm chiếm lãnh thổ biển của Trung Quôc.
Nhà hàng hải nổi tiếng Trung Quốc Trịnh Hòa từng nói “muốn đất nước giàu mạnh thì không thể không quan tâm đến biển, của cải đến từ biển, mối đe dọa cũng đến từ biển, nếu nước khác chiếm trước được Nam Dương (tức biển Đông Nam Á), Hoa Hạ sẽ lâm nguy”. Sau khi khảo sát các nước phương Tây, Tôn Trung Sơn cũng đưa ra kết luận: “Từ sự thay đổi của tình hình thế giới cho thấy sự thịnh suy mạnh yếu của thực lực đất nước thường đến từ biển chứ không phải trên đất liền, khi có quyền lực trên biển, thực lực đất nước thường luôn hùng mạnh”. Thế kỷ 21 là thế kỷ của biển, Trung Quốc phải nghiêm túc tiếp thu bài học kinh nghiệm của lịch sử, coi trọng biển, xây dựng chiến lược lớn về biển, dốc sức duy trì và tăng cường quyền lực trên biển, phá bỏ hoàn toàn tình thế bế tắc ở biển, nỗ lực thực hiện sự chuyển đổi từ nước lớn về biển sang cường quốc biển.
***
Bài viết của Thời Vĩnh Minh, Nghiên cứu viên chỉnh Viện Nghiên cứu các vấn đề quốc tế Trung Quốc, đăng trên tạp chí “Hòa bình và phát triển ”, sau đây là nội dung bài viết:
Những năm gần đây, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và quyền lợi biển mà Trung Quốc đang phải đối diện trên biển Hoa Đông và Biển Đông ngày càng gay gắt. Bối cảnh lớn quốc tế hiện nay là nhu cầu của nhân loại đối với dầu mỏ tăng lên khiến cho cạnh tranh tài nguyên ngày càng gay gắt, Trung Quốc sẽ mạnh lên nhưng hiện nay chưa mạnh, Mỹ đang tăng cường phòng bị, một số nước hy vọng lợi dụng nhân tố không xác định trong môi trường chiến lược để tiến hành đầu cơ, làm hỗn loạn cục diện lớn phát triển và hợp tác của Đông Á… Trước bối cảnh lớn này việc có thể xử lý ổn thỏa các tranh chấp quyền lợi biển hay không, là một cuộc thử nghiệm năng lực mà trong quá trình trỗi dậy của mình Trung Quốc phải đối diện.
1. Tài nguyên dầu mỏ đứng trước nguy cơ khủng hoảng khiến cho sự tranh giành giữa các nước ngày càng gay gắt
Thách thức lớn nhất mà sự phát triển kinh tế của các nước phải đối diện đó là thiếu hụt tài nguyên năng lượng. Căn cứ theo “Niêm giám thống kê về năng lượng thế giới năm 2012” do Công ty dầu khí Anh (BP) đưa ra, trữ lượng dầu mỏ toàn cầu chỉ có thể dùng trong 54 năm nữa, với 87% thị phần nhiên liệu hóa thạch tiếp tục chiếm vị trí chủ đạo trong tiêu thụ năng lượng toàn cầu, năng lượng tái tạo tuy tăng lên nhanh chóng, nhưng vẫn chỉ chiếm 2% mức tiêu thụ toàn cầu. Còn vấn đề mà Đông Á đang phải đối diện là kinh tế tăng trưởng nhanh khiến cho nhu cầu về dầu mỏ cũng tăng lên. Bên cạnh đó, Đông Á lại là khu vực nhập khẩu năng lượng truyền thống, sản lượng bản thân không đủ. Trước tình trạng này, cạnh tranh tài nguyên dầu mỏ trên biển Hoa Đông và Biển Đông chắc chắn sẽ ngày càng gay gắt. Ngoài tài nguyên dầu khí, tài nguyên dưới đáy biển cũng là một trong những trọng điểm của cạnh tranh quốc tế trong tương lai. Ví dụ như thềm lục địa mà Nhật Bản hy vọng có được tương đương với 1,7 lần diện tích lãnh thổ của nước này, bao gồm cả thềm lục địa trên biển Hoa Đông. Năm 2003, Bộ trưởng Đất đai và Giao thông Nhật Bản Chikage Ogi đã vạch ra kế hoạch lâu dài về biển, đưa mục tiêu nhắm vào trữ lượng măngan có thể cung cấp cho Nhật Bản sử dụng 320 năm, côban 1300 năm, niken 100 năm và tài nguyên dầu khí 100 năm tiềm ẩn trên Hoa Đông.
2. Trung Quốc sẽ mạnh nhưng hiện giờ chưa mạnh khiến cho các nưóc xung quanh tìm cách mở rộng diện tích của mình
Một nhân tố quan trọng trong tranh chấp biển của Đông Á là trong quá trình chuyển đổi từ nước phong kiến cổ đại sang nhà nước dân tộc hiện đại, Trung Quốc bị rơi vào suy thoái và chịu sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, từ đó khiến cho Trung Quốc xuất hiện tranh chấp về chủ quyền biển đảo với các nước láng giềng.
Xét đến mối quan hệ giữa nhân tố lịch sử và láng giềng, để giải quyết tranh chấp, Trung Quốc đưa ra chủ trương chính sách “gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác”. Nhưng một số nước không chỉ hiểu sai chính sách của Trung Quốc, mà còn có dụng ý xấu lợi dụng thiện chí của Trung Quốc. Hiểu sai ở đây là cho rằng chính sách của Trung Quốc là kế hoãn binh, cho rằng sau khi hùng mạnh, Trung Quốc sẽ dùng thực lực để giải quyết vấn đề. Quan điểm này không đáng để quan tâm, vì việc Trung Quốc đưa ra chủ trương “cùng nhau khai thác” là tập trung vào hiện thực, chứ không tập trung vào tương lai. Tháng 11/2002, sau khi Trung Quốc và ASEAN ký kết “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông” (DOC), Trung Quốc từng ký hiệp định tiến hành cùng chuẩn bị thăm dò và khai thác tại khu vực thỏa thuận trên Biển Đông với Việt Nam và Philippin, nhưng sau này hai nước Việt Nam và Philippin không chỉ từ bỏ hiệp định, mà còn có dụng ý xấu lợi dụng thiện chí của Trung Quốc cố gắng duy trì cục diện hòa bình trên Biển Đông, đi ngược lại tinh thần cơ bản của DOC, đưa người ra cư trú trên các đảo đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa, không ngừng tạo ra những trở ngại mới cho việc giải quyết vấn đề. Bên cạnh đó, hai nước này còn đẩy mạnh mức độ khai thác dầu mỏ trên Biển Đông, xâm phạm chủ quyền và lợi ích của Trung Quốc, tìm cách lợi dụng thời cơ Trung Quốc chưa mạnh để giành lấy và củng cố hơn nửa lợi ích. Còn Nhật Bản thì tùy tiện phủ nhận thỏa thuận ngầm mà lãnh đạo hai nước 40 năm trước đã đạt được về việc gác lại tranh chấp, đồng thời nhận thức một cách sai lầm rằng hiện nay Trung Quốc phải bảo đảm phát triển kinh tế, nên sẽ không sử dụng vũ lực để bảo vệ chủ quyền. Vì vậy, Nhật Bản đã nhiều lần giẫm lên điểm giới hạn cuối cùng của Trung Quốc trên đảo Điếu Ngư, hy vọng lợi dụng tâm lý coi trọng hòa bình và ổn định của Trung Quốc để thực hiện mưu đồ chiếm giữ thực tế và lợi dụng đảo Điếu Ngư. Những hoạt động xâm phạm đối với quyền chủ và lợi ích của Trung Quốc này cuối cùng buộc Trung Quốc phải triển khai các hành động báo vệ chủ quyền bằng thái độ cứng rắn.
3. Mỹ lợi dụng mâu thuẫn khu vực để bảo đảm chắc chắn quyền chủ đạo đối với Đông Á
Nhân tố quan trọng nhất của bối cảnh chiến lược quốc tế khiến cho hai năm gần đây tranh chấp quyền lợi biển xung quanh Trung Quốc ngày càng nóng lên là sự chuyển dịch trọng tâm chiến lược sang phía Đông của Mỹ. Mấy năm gần đây, thay đổi lớn nhất xuất hiện trong cục diện chiến lược quốc tế là sự trỗi dậy của một loạt các nước mới nổi với Trung Quốc làm đại diện, cũng như sự yếu đi tương đối của sức mạnh Mỹ. Cục diện này khiến cho Mỹ nảy sinh sự lo ngại sâu sắc đối với việc Mỹ có thể sẽ mất đi địa vị bá quyền. Trong những phân tích về sự sa sút của Mỹ, thì báo cáo “Xu thế toàn cầu năm 2025” do Hội đồng tình báo quốc gia Mỹ (NIC) đưa ra năm 2008 phân tích tương đối sâu sắc, báo cáo lần đầu tiên thừa nhận địa vị nước lớn toàn cầu của Mỹ lộ rõ trạng thái đi xuống. Mặt khác, Robert Fogel đoạt giải Nôben kinh tế năm 1993 thì dự đoán đến năm 2040, tổng sản phẩm quốc nội của Trung Quốc sẽ đạt 123 nghìn tỷ USD, chiếm 40% tổng lượng kinh tế toàn cầu. Đến lúc này Mỹ chỉ chiếm 14% và châu Âu chiếm 5%.
Những dự đoán về việc quy mô kinh tế Trung Quốc sẽ vượt Mỹ, đang ảnh hưởng sâu sắc đến chính sách đối với Trung Quốc và chiến lược toàn cầu của Mỹ. Tuy Mỹ buộc phải chuẩn bị để chấp nhận hiện thực này, nhưng Mỹ vẫn tìm cách tăng cường hệ thống bá quyền của mình, để vẫn có thể chủ đạo trật tự thế giới trong thế giới đa cực của tương lai. Vì vậy, Mỹ chuyển trọng tâm tranh giành quyền lực sang trung tâm kinh tế thế giới trong tương lai – khu vực châu Á-Thái Bình Dương, tìm cách thông qua ưu thế quân sự để xây dựng trật tự khu vực có lợi cho việc củng cố bá quyền của Mỹ.
Nhưng điều gọi là “tái xây dựng” của Mỹ ở khu Vực châu Á-Thái Bình Dương được tiến hành thông qua việc chia rẽ châu Á, xây dựng hệ thống khu vực với Mỹ làm trục chính. Kết cấu trục chính của Mỹ chính là muốn lấy danh nghĩa bảo vệ an ninh khu vực, để tăng cường việc mở rộng hệ thống đồng minh quân sự của Mỹ, đồng thời dần dần xây dựng hệ thống đồng minh song phương. Hệ thống trục chính về kinh tế mà Mỹ muốn xây dựng chính là Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), Mỹ muốn lợi dụng hiệp định này để làm tan rã tiến trình xây dựng Khu thương mại tự do Đông Á. Còn về chính trị, Mỹ tìm cách lợi dụng vấn đề Biển Đông để chia rẽ mối quan hệ giữa Trung Quốc và ASEAN.
Tác động lớn nhất trong chiến lược châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ đối với sự ổn định của khu vực chính là “chiến lược tái cân bằng châu Á-Thái Bình Dương” của Mỹ. Tháng 11/2011, bài diễn văn về chính sách châu Á-Thái Bình Dương mà Tổng thống Barack Obama đọc khi đến thăm Ôxtrâylia được cộng đồng quốc tế công nhận là có tính tiêu biểu nhất về chính sách châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ. Còn việc Mỹ tăng cường đóng quân tại Ôxtrâylia bằng hình thức luân phiên đồn trú, cũng hiển nhiên là nhằm vào Trung Quốc. Tháng 1/2012, Tổng thống Obama đã công bố chiến lược quân sự mới của Mỹ, đề xuất chuyển trọng tâm chiến lược quân sự sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tại Hội nghị đối thoại Shangri- La hàng năm bế mạc vào ngày 3/6/2012, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta đã giới thiệu “Chiến lược tái cân bằng châu Á-Thái Bình Dương” của Mỹ. Căn cứ theo chiến lược này, trong tình hình chi phí quân sự bị cắt giảm, Mỹ phải chuyển trọng tâm chiến lược sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đồng thời đến trước năm 2020 sẽ bố trí 60% tàu chiến Mỹ ở Thái Bình Dương. Việc Mỹ triển khai bố trí quân sự mới nhằm vào Trung Quốc ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, hiển nhiên đã nảy sinh tác dụng khuyến khích đối với một số quốc gia có tranh chấp với Trung Quốc, khiến cho mùi thuốc súng trong tranh chấp quyền lợi biển ngày càng tăng lên.
Mặc dù Mỹ nhiều lần bày tỏ việc Mỹ bố trí quân sự ở châu Á-Thái Bình Dương là không phải nhằm vào Trung Quốc, không thể hiện lập trường trong tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa Trung Quốc và các nước láng giềng, nhưng mục tiêu chính sách của Mỹ rất đáng hoài nghi. Mỹ rất khó chứng minh mình đang đóng vai trò hòa bình trong tranh chấp quyền lợi biển ở Đông Á. Việc Mỹ không thể hiện lập trường, thực chất là Mỹ không quan tâm một cách thực sự đúng sai, mà quan tâm đến việc làm thế nào lợi dụng các mâu thuẫn để thực hiện mục tiêu của bản thân. Chính sách hy vọng giải quyết một cách hòa bình các tranh chấp của Mỹ, biểu hiện trong hành động lại là các hành vi khuyến khích tiến hành thách thức với Trung Quốc, để chèn ép hành vi bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc. Đây là hành vi gây nên xung đột, chứ không phải là hành vi gìn giữ hòa bình. Vì vậy, Trung Quốc phải luôn cảnh giác đối với việc Mỹ lợi dụng các mâu thuẫn để đạt được ý đồ chia rẽ Đông Á, kiềm chế sự phát triển của Trung Quốc.
4. Trung Quốc phải dũng cảm đối phó với các thách thức trong quá trình phát triển
Trước môi trường chiến lược phức tạp hiện nay, hành động bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc, đã không còn đơn giản là vấn đề xử lý tranh chấp với các nước láng giềng, mà là một thách thức mà Trung Quốc phải vượt qua để giành lấy không gian phát triển lớn hơn. Trước kia, vì hòa bình mà Trung Quốc áp dụng chính sách “gác lại tranh chấp”, còn hiện nay, một khi thiện chí này bị nước khác lợi dụng, vì hòa bình Trung Quốc phải kiên quyết bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Trung Quốc phải nhận thấy tranh chấp quyền lợi biển là nhân tố kiềm chế lớn nhất trong quá trình phát triển hòa bình của Trung Quốc, có một số nước tìm cách lợi dụng nhân tố này để làm cho Trung Quốc rơi vào tình cảnh khó khăn trong cộng đồng quốc tế, đạt được mục đích kiềm chế sự phát triển của Trung Quốc. Vì vậy, việc làm thế nào để vừa đạt được mục đích bảo vệ quyền lợi chủ quyền, vừa không tốn hại chiến lược phát triển hòa bình của Trung Quốc quả là một thách thức quan trọng đối với tinh thần dũng cảm và trí tuệ của nhân dân Trung Quốc. Trung Quốc phải đối phó với thách thức này một cách bình tĩnh, có lý trí, kiên định, ổn thỏa.
Làm thế nào để vừa phải kiên quyết bảo vệ quyền lợi chính đáng, vừa không thể từ bỏ chiến lược phát triển hòa bình? Điều này đòi hỏi Trung Quốc vừa phải chuẩn bị tốt thực lực cứng, vừa phải cố gắng phát huy vai trò của thực lực mềm. Phải nhanh chóng nâng cao khả năng tiến hành đấu tranh về ngoại giao, pháp lý và dư luận của Trung Quốc trên trường quốc tế. Trung Quốc phải thông qua việc đối phó ổn thỏa với các thách thức, khiến cho cả nước và toàn dân tộc ngày càng mạnh mẽ hơn, khiến cho sự phát triển của Trung Quốc không chỉ được thể hiện trong tổng sản phẩm, mà còn được thể hiện trong năng lực xử lý các công việc quốc tế phức tạp. Trung Quốc phải thông qua việc đối phó với các thách thức, xây dựng hình tượng một Trung Quốc có thực lực, có khả năng và có trách nhiệm trên thế giới.
(Tạp chí “Hòa bình và phát triển ”, Trung Quốc)
Xét về góc độ địa lý, Trung Quốc nằm ở phía Đông lục địa Á-Âu, bờ Tây của Thái Bình Dương, từ xưa tới nay luôn là nước lớn theo mô hình phức hợp gồm cả biển và đất liền; ngoài ra, các nước liền kề trên đất liền và trên biển của Trung Quốc rất đông, do đó biên giới trên biển tự nhiên trở thành vấn đề Trung Quốc không thể không đối mặt một cách thận trọng, đồng thời giải quyết ổn thỏa. Sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập, cùng với việc phần lớn vấn đề biên giới trên đất liền được giải quyết cũng như lợi ích quốc gia được mở rộng, vấn đề biển bắt đầu dần nổi rõ. Đặc biệt là mấy năm gần đây, các vấn đề biển liên tiếp xảy ra trong phạm vi lãnh hải Trung Quốc bao gồm tranh chấp chủ quyền, có đặc điểm “cùng lúc xảy ra vấn đề ở 3 vùng biển” – Hoàng Hải, Đông Hải (Biển Hoa Đông) và Nam Hải (Biển Đông); từ sự bột phát của “sự kiện tàu Cheonan” ngày 26/3/2010 khiến tình hình ở Hoàng Hải trở nên rối ren tới một đợt tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku mới giữa Trung Quốc và Nhật Bản lấy “sự kiện va chạm tàu” ở đảo Điếu Ngư giữa hai nước trên ngày 7/9/2010 làm chất xúc tác kéo dài tới hiện nay, tiếp đó là vấn đề Nam Hải liên tục nóng lên giữa Trung Quốc với một số nước Đông Nam Á kể từ năm 2011, “tình cảnh khó khăn trên biển” mà Trung Quốc phải đối mặt đã làm dấy lên sự quan tâm rộng rãi, cao độ ở trong và ngoài nước. Quan trọng hơn là, bối cảnh nảy sinh vấn đề biển gần đây hết sức phức tạp, đằng sau biểu hiện của các mâu thuẫn như tranh chấp chủ quyền lãnh thổ biển còn có một loạt nguyên nhân tầng sâu bên trong và bên ngoài. Bài viết dự định từ các vấn đề biển Trung Quốc hiện phải đối mặt, phân tích bối cảnh tầng sâu nảy sinh vấn đề này cũng như biện pháp đối phó của Trung Quốc.
1. Bối cảnh tầng sâu nảy sinh vấn đề biển của Trung Quốc hiện nay
Người viết cho rằng sự nảy sinh vấn đề biển của Trung Quốc hiện nay vừa có vai trò của nhân tố bên ngoài, vừa có nguyên nhân trong nước Trung Quốc, là kết quả của hai phương diện bên ngoài và bên trong cùng nhau phát triển. Do hiện phần lớn học giả trong và ngoài nước chủ yếu thảo luận xoay quanh các thách thức bên ngoài mà Trung Quốc phải đối mặt, nên trong bài viết này tác giả sẽ nhấn mạnh có trọng điểm ảnh hưởng của nhân tố trong nước đối với vấn đề biển để từ đó phân tích vai trò của nhân tố bên ngoài.
Về các nguyên nhân trong nước, hiện chủ yếu thể hiện ở 4 phương diện sau:
Thứ nhất, sự phát triển nhanh chóng của công cuộc hiện đại hóa Trung Quốc làm cho tầm quan trọng của “cơ sở lịch sử” giảm đi, tầm quan trọng của “cơ sở địa lý” tăng lên. Trong lịch sử, tuy Trung Quốc luôn là một quốc gia gồm cả biển và đất liền, có một vùng duyên hải rộng lớn song do quyền lực quốc gia của xã hội tiền hiện đại chủ yếu do các lực lượng trên đất liền đặc biệt là kỵ binh quyết định nên “cơ sở địa lý” gồm cả biển và đất liền của Trung Quốc chưa được thể hiện. Tuy nhiên kể từ thời cận đại tới nay, cùng với việc nhân loại tiến vào công nghiệp hóa, tiếp đó bước vào thời đại toàn cầu hóa, sức mạnh trên biển đã trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của sức mạnh quốc gia. Trong xu thế phát triển khách quan này, việc không ngừng đẩy mạnh hiện đại hóa của Trung Quốc cũng chắc chắn dẫn tới quyền lực chính trị không còn do sức mạnh quân sự trên đất liền quyết định, sức mạnh trên biển tương tự trở thành bộ phận then chốt không thể xem nhẹ của quyền lực quốc gia. Vì vậy, Trung Quốc đã chuyển từ “cơ sở lịch sử” thuần túy dựa vào sức mạnh trên đất liền sang “cơ sở địa lý” coi trọng cả trên biển lẫn đất liền.
Thứ hai, mấy năm gần đây sức mạnh quốc gia của Trung Quốc tiếp tục tăng nhanh làm cho sức mạnh trên biển được tăng cường rõ rệt. Khi hiện đại hóa quân sự là việc cần làm trong quá trình xây dựng hiện đại hóa Trung Quốc và được coi là bộ phận cấu thành quan trọng của sức mạnh quân sự, việc phát triển lực lượng hải quân rõ ràng đã được đặt ở vị trí chiến lược vô cùng quan trọng. Việc tăng tốc hiện đại hóa lực lượng hải quân của Trung Quốc trong mấy năm gần đây đã chứng minh điểm này. Hiện nay, khả năng tác chiến dưới nước và trên mặt nước của Hải quân Trung Quốc đều đã được nâng cao mạnh mẽ: về khả năng tác chiến dưới nước, Trung Quốc đã chế tạo tàu ngầm kiểu mới sản xuất trong nước với các kích cỡ khác nhau và phạm vi hoạt động đang mở rộng chưa từng có; về khả năng tác chiến trên mặt nước, tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc đã kết thúc thử nghiệm trên biển lần thứ 9 vào ngày 30/7/2012 đồng thời đưa vào hoạt động trong cùng năm, việc phát triển của tàu sân bay đã cho thấy mục tiêu lâu dài của Trung Quốc là dốc sức phát triển khả năng tác chiến ở biển xa.
Thứ ba, nhu cầu lợi ích trên biển tăng lên, sức ép của xã hội công dân Trung Quốc tăng mạnh, về mặt khách quan, sự phát triển nhanh của nền kinh tế và sức mạnh tổng hợp đất nước được nâng lên tự nhiên đòi hỏi nhu cầu lợi ích trên biển cũng tăng lên. Năm 2011, tổng giá trị kinh tế biển của Trung Quốc lên tới 4,557 tỷ nhân dân tệ, chiếm trên 9,7% GDP, hơn nữa tốc độ tăng trưởng của nó cao hơn hẳn tăng trưởng GDP cùng kỳ. Có thể nhận thấy các ngành liên quan tới biển đã trở thành bộ phận cấu thành không thể thiếu của nền kinh tế Trung Quốc. Trong bối cảnh này, Chính phủ Trung Quốc bắt đầu ngày càng quan tâm tới lợi ích quốc gia trên biển; đồng thời, do kinh tế biển liên quan tới lợi ích thiết thân của nhiều ngành và bộ phận trong xã hội nên sức ép bảo vệ lợi ích trên biển đến từ xã hội công dân cũng ngày càng lớn.
Thứ tư, những ảnh hưởng chủ yếu nảy sinh từ sự thay đổi ở ba phương diện trên, tức là sự căng thẳng trong mối quan hệ giữa Trung Quốc với Mỹ và các nước có biển xung quanh, về mặt bản chất, ba nội dung được đề cập ở trên lần lượt phản ánh Trung Quốc hiện đã hướng tới biển ở ba cấp độ nhận thức chủ quan, phát triển sức mạnh và lợi ích khách quan, do vậy mang đến xung đột lợi ích tiềm tàng và tác động tâm lý thực sự cho Mỹ và các nước Đông Á, Đông Nam Á có liên quan là điều dễ nhận thấy, về phía Mỹ, việc Trung Quốc hướng ra biển bị coi là sẽ đe dọa lợi ích quốc gia lâu dài của cường quốc biển Mỹ, thậm chí Mỹ được coi là bá chủ trên biển; về các quốc gia có biển xung quanh, sự trỗi dậy về sức mạnh trên biển của Trung Quốc được dư luận đông đảo cho là sẽ làm thay đổi căn bản cục diện chiến lược, lợi ích biển của khu vực châu Á-Thái Bình Dương hiện nay, đe dọa quyền lợi biển vốn có của các quốc gia này.
Về các nguyên nhân bên ngoài, Mỹ là nhân tố chính, các nước xung quanh là nhân tố phụ.
Từ khi Chính quyền Obama đưa ra chiến lược “quay trở lại châu Á” năm 2009 tới nửa cuối năm 2011 bắt đầu cao giọng đẩy mạnh chiến lược này với các biện pháp chủ yếu là quân sự và ngoại giao, vùng biển xung quanh Trung Quốc trở thành vũ đài quan trọng để Mỹ quay trở lại châu Á. Không khó nhận thấy phía sau tình hình “cùng lúc xảy ra vấn đề ở 3 vùng biển” mà Trung Quốc phải đối mặt, đâu đâu cũng thấy hình bóng của Mỹ. Nguyên nhân là kinh tế Mỹ hiện rơi vào tình cảnh khó khăn, các vấn đề xã hội phức tạp gay gắt, do đó trọng điểm của chiến lược trở lại châu Á là dựa vào ưu thế quân sự của chính nước này, đặc biệt là ưu thế sức mạnh trên biển. Cụ thể, Mỹ có khả năng can thiệp vào vấn đề biển của Trung Quốc chủ yếu là do có 3 ưu thế sau: thứ nhất, sức mạnh trên biển của Mỹ hiện vẫn ở vào vị thế không ai địch nổi; thứ hai, các nước ở bờ Tây Thái Bình Dương như Nhật Bản, Hàn Quốc và Philippin tạo thành hệ thống đồng minh của Mỹ; thứ ba, là lực lượng ngoài khu vực, Mỹ có điều kiện lợi dụng tranh chấp lãnh thổ biển giữa Trung Quốc với các nước xung quanh, tiến hành can thiệp vào khu vực này.
Nếu nói Mỹ đã lợi dụng mâu thuẫn giữa Trung Quốc với các mrớc xung quanh can thiệp vào tranh chấp vùng biển gần bờ Trung Quốc thì một số nước xung quanh Trung Quốc đồng thời cũng sẽ qua đó có ý định chế tạo mâu thuẫn Trung-Mỹ, lợi dụng sức mạnh của Mỹ kiềm chế Trung Quốc đang ngày một trỗi dậy, đồng thời đạt được mục đích dịch chuyển mâu thuẫn trong nước. Do đó, những quốc gia này đã đóng vai trò đổ thêm dầu vào lửa đối với tình hình hiện nay. Nhiều năm nay, do kinh tế Philippin liên tục không khởi sắc, nhà lãnh đạo nước này chẳng làm được công trạng gì trong nước, mới giương chiêu bài dân tộc chủ nghĩa chuyển dịch tầm nhìn trong nước, khơi lên tranh chấp đảo Hoàng Nham.
2. Biện pháp đối phó của Trung Quốc
Đối mặt với vấn đề biển xuất hiện hiện nay, đặc biệt là bối cảnh trong và ngoài nước ở tầng nấc sâu phức tạp, trên cơ sở chính sách chiến lược đã có, Trung Quốc nên khẩn trương nghiên cứu biện pháp đối phó mới để thích ứng tốt hơn với tình hình mới và giải quyết vấn đề mới. Người viết cho rằng để giải quyết vấn đề biển hiện nay, Trung Quốc nên bắt tay từ 4 phương diện sau.
Thứ nhất, phân tích và xem xét vấn đề từ tầm cao chiến lược, tránh vì chỉ nhìn nhận đúng sai, hay dở từ bán thân sự việc mà rơi vào cục diện bị động bận rộn đối phó, thu hiệu quả ít. Tranh chấp chủ quyền chỉ là hiện tượng bên ngoài của vấn đề biển hoặc có người nói là nguyên nhân lớp ngoài, chúng ta nên xem những hiện tượng này để hiểu bản chất của các nhân tố bên trong và bên ngoài ở tầng nấc sâu hơn. Người viết cho rằng căn nguyên mà những nhân tố tầng sâu này cùng phản ánh có thể quy lại thành: cục diện chiến lược lớn của khu Vực châu Á-Thái Bình Dương đang có những thay đổi sâu sắc. Hiểu được như vậy, trong thời gian tới chúng ta mới có thể thảo luận về vấn đề biển với mục tiêu rõ ràng.
Thứ hai, mấu chốt để giải quyết vấn đề biển hiện nay nằm ở sự trao đổi và phối hợp chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc. Thời gian gần đây, vấn đề “nghi ngờ chiến lược lẫn nhau” hoặc có người nói là “thiếu lòng tin lẫn nhau” giữa Trung Quốc và Mỹ đã trở thành trọng điểm được giới chiến lược và các giới thảo luận, làm thế nào xóa bỏ sự “thiếu hụt” này trong vấn đề biển đã trở thành vấn đề quan trọng; liên quan tới toàn bộ cục diện quan hệ Trung-Mỹ. Và việc giải quyết vấn đề này đòi hỏi sự nỗ lực chung của cả hai nước. Một mặt, Mỹ nên hiểu rằng sức mạnh quốc gia của Trung Quốc tăng lên tất sẽ bao gồm sự tăng cường sức mạnh trên biển và mở rộng lợi ích trên biển, thừa nhận đồng thời dần chấp nhận hiện thực này là sự lựa chọn có ích nhất đối với Mỹ; mặt khác, Trung Quốc cũng nên tiến hành trao đổi và giao lưu hết mức với Mỹ, áp dụng phương thức phối hợp giữa hai bên chứ không phải đối kháng cứng rắn để xóa bỏ sự nghi ngờ của phía Mỹ, thực hiện hợp tác cùng thắng lợi.
Thứ ba, tăng cường sự phối hợp hài hòa lợi ích giữa Trung Quốc với các nước có biển xung quanh cũng là mắt xích quan trọng giải quyết vấn đề hiện nay. Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất khiến một số nước Đông Á, Đông Nam Á có thái độ phản đối và kiềm chế đối với sự phát triển sức mạnh trên biển của Trung Quốc chính là do lo ngại lợi ích biển vốn có của mình bị tổn hại. Trong bối cảnh này, Trung Quốc cần nỗ lực triển khai hợp tác quốc tế trong quá trình “GDP biển” của mình tăng lên để các nước có liên quan xung quanh chia sẻ thành quả phát triển của Trung Quốc nhằm giảm bớt va chạm ngoại giao và bất đồng lợi ích, thực hiện cùng nhau phát triển.
Cuối cùng, trong vấn đề chủ quyền lãnh thổ biển, Trung Quốc một mặt cần tiếp tục giữ vững quyết tâm bảo vệ chủ quyền quốc gia, mặt khác nên tăng cường hơn nữa công tác nghiên cứu pháp lý và lịch sử đối với lãnh hải và các đảo của mình, đồng thời triển khai giao lưu đối thoại nhiều hơn để bên ngoài có thể hiểu hơn về vấn đề này./.
Nguồn: BS/TTXVN [bản tin tham khảo đặc biệt]