Gần 50 tuổi mới biết mình dốt nát
Trước khi bắt đầu, xin kể chuyện có thực 100%. Thuở “xa xưa”, tôi cũng như bao đứa trẻ khác ở miền Bắc hết thảy đều say mê với truyện Thạch Sanh. Từ lớp này đến lớp khác, từ trường nọ đến trường kia, ai cũng đinh ninh đó là truyện có gốc gác ở miền Bắc(!) Này nhé, Thạch Sanh được giải thích là “sinh ra trong hang đá” (gần giống với Tôn Ngộ Không quá trời), Lý Thông thì đích thị là “người Kinh” rồi; và, những câu thơ lục bát thì không thể chạy đi đâu được: Đàn kêu tích tịch tình tang/ Ai đem công chúa dưới hang trở về...
Mùa Hạ năm 2003, tôi may mắn được đi dạy ở Kiên Giang. Gặp ngày nghỉ, Sở GD-ĐT KG mời mấy sếp có cỡ như TS Nguyễn Sum, TS Lê Thanh Sơn... đi Hà Tiên để biết thế nào là tội ác của Kh’mer đỏ(!), biết thế nào là Hòn Đất... Bản tính ham chơi “lần đầu tiên” bùng dậy, tôi xông vào đội hình của Phạm Tuân ngay lập tức. Sau khi chứng kiến tận mắt những tấm bia ghi tội ác tày trời của Kh’mer đỏ được dựng dọc theo Cửa khẩu Xà Xía, có ý kiến đề nghị nên đi thăm Động... Thạch Sanh(!) để cho bớt nặng nề. Sự hưởng ứng và... bàng hoàng đến cùng một lúc: Thì ra, gần 50 tuổi tôi mới biết mình hãy còn dốt lắm.
Động Thạch Sanh cách biên giới VN-CPC chỉ có vài trăm mét. Từ người giữ xe đến bà bán kẹo, ông bán đường thốt nốt, tất cả đều có họ Thạch. Trong động, ở cửa hang thứ hai có cái lườn đá nhô ra y hệt mỏ đại bàng, khoằm khoằm dữ tợn. Những nhũ đá chảy dài tuyệt đẹp được người hướng dẫn chỉ; đây là Thạch Sanh “thầy coi cái gương mặt rắn rỏi, cương nghị, hiền lành”; đây là Lý Thông, “cái mẹc nó gi... e..n éc” (cái mặt gian ác); còn công chúa thì đẹp và trắng trong lạ kỳ. Nói thực, tôi nhìn thấy cả 3 suối nhũ đá có hình người, cái nào cũng giống cái nào, nhưng vẫn gật gù, im lặng. Đang mải mê ngắm thì có cái gì đó trơn trơn, mềm mềm trườn qua chân, nhìn xuống thì thấy... tim mình đang rơi ra và một con rắn đen trũi dài gần 2 thước. Thấy mặt tôi tím tái, cô hướng dẫn la lên rằng rắn thần đó thầy ơi, nó hổng cắn đâu. Thầy nhìn coi, nhiều lắm. Đến lúc đó, theo hướng tay cô gái chỉ, tôi thấy vài con nữa cứ thập thò trên những cái lỗ ở lưng chừng hang. Cô hướng dẫn viên giải thích, mùa nước nổi, chuột –theo sau là rắn, kéo lên hang nhiều vô kể...
Như vậy, cả mỏ đại bàng, cả Lý Thông, công chúa và cả chằn tinh đều hội đủ trong cái hang đó, ở tận miền cực Nam của Tổ quốc (Động Thạch Sanh cách bờ biển chưa đầy cây số)... Cái thực tế không thể chối cãi của Động được “kiểm chứng” bằng họ tên, bằng đá, bằng... rắn, vẫn chưa đủ để trả lời câu hỏi: Động Thạch Sanh ở Hà Tiên “có trước” hay truyện Thạch Sanh có trước? Không loại trừ khả năng ở vùng miền nào cũng có cốt truyện ấy, rồi nó được “vận” vào vừa khít với động đá Hà Tiên (kể cả hàng loạt truyện cổ ở Ấn Độ, như truyện về Rama, “quê hương” của rắn thần Naga huyền thoại, trở thành một trong những thần tích cơ bản tạo nên cái lung linh huyền diệu của Ấn Độ giáo)? Tất nhiên, nói điều này ra không phải để phủ nhận giá trị di tích thật đẹp, thật hấp dẫn của một trong những nơi chốn đáng để đến của Kiên Giang, mà để lý giải thêm rằng, chẳng thể nào áp đặt Hùng Vương là của người Kinh cũng như Động Thạch Sanh là của “riêng” văn hóa Kh’mer. Và, sự giao thoa văn hóa, sự thăng hoa của trí tưởng tượng, sự cộng hưởng của thời gian, cái ngút ngàn chung của 54 nền văn hóa đầy sắc thái, đã tạo nên Truyện Thạch Sanh mê hoặc cả ngàn năm...
“Vua Hùng của người Kinh” là lập luận phi logic và phi lịch sử
Không có một tài liệu nào đủ căn cứ thuyết phục cho khẳng định “Vua Hùng là của người Kinh”. Trước hết, ta biết rằng thời đó không có chữ viết (chính xác là “chưa tìm thấy”) nên mọi câu chuyện kể đều là huyền sử và, mỗi dân tộc tự kể từ cái lõi đầu tiên ra câu chuyện của bộ tộc hay bộ lạc mình. Điều tiếp theo là nhận xét từ nửa thế kỷ trước đây của Cố GS Trần Quốc Vượng cùng một số nhà sử học khác: Vua Hùng thực chất chỉ là Tù trưởng của bộ tộc Gấu (Hùng = gấu) và, những cái tên như Hùng Vương, An Dương Vương, Kinh Dương Vương, Lý Thông, Âu Cơ, Trọng Thủy... đều có cội nguồn âm Hán Việt chứ chẳng phải là Kinh hay Tày, Nùng, Dao, Mèo... Cố GS TQV cũng đã minh định rằng “Kinh là những người sống ở đồng bằng > trấn thị > kinh kỳ (Kẻ Chợ).
Mặt khác, lịch sử cho biết không phải ngẫu nhiên mà Bách Việt ở hạ lưu Trường Giang lại tương ứng với “Bọc Trăm Trứng” (Bách Việt = 100 bộ tộc Việt). Cho dù chúng ta CHƯA công khai thừa nhận thì vẫn không thể phủ định được thực tế lịch sử rằng bộ tộc Việt ở hạ lưu Trường Giang đã không ít lần di cư về phương Nam (Việt điểu sào nam chi – Con chim khôn của Nước Việt phải biết chọn cành phương Nam mà làm tổ) mà cụ thể là cuộc đại di cư lần thứ nhất (năm 493 - 474 tr.CN) của Việt Vương Câu Tiễn và cuộc đại di cư lần thứ hai, sau khi nước Việt diệt vong năm 396(?) tr.CN. (Đây là ý kiến giả định của người viết bài này, đưa ra như một phác thảo, rất mong các bậc cây đa, cây đề góp ý, phân định). Những cuộc di cư để tìm kiếm tự do, tự chủ đó cuốn theo nhiều bộ tộc khác và, sự pha trộn huyết thống giữa các tộc người với nhau là lẽ đương nhiên. Không nói đâu xa: Những cư dân từ Tứ Xuyên, Vân Nam di cư để lập nên nước Thái Lan bây giờ, gọi là người Thái, Đất Thái, có nghĩa là “ vùng đất của tự do”, chỉ mới trên dưới 1.000 năm; hay cuộc đại di cư của người Thổ từ Tân Cương để tạo nên Thổ Nhĩ Kỳ bây giờ, cũng chỉ hơn 1.000 năm! Truyền thuyết Âu Cơ nói RÕ: 50 người con lên rừng, 50 người con xuống biển... Nếu chúng ta hiểu đúng cái nghĩa thực tiễn, cốt lõi lịch sử phải có trong /của mọi truyền thuyết thì chúng ta buộc phải nhất trí rằng tự chúng, 4 chữ “lên rừng, xuống biển” đã xóa nhòa mọi ranh giới phân chia thiển cận giữa Kinh hay Thái, Mường, Vân Kiều...; đã chứng minh cội nguồn chung của cư dân trên mọi miền đất nước dù tên gọi khác nhau – cũng tương tự như họ Lê, họ Nguyễn, họ Phạm, họ Trần...
Trở lại câu chuyện kể về Thạch Sanh, chúng ta thấy là từ cái gốc Kh’mer không thể khước từ, nó đã được phong phú hóa, đa dạng hóa, tinh chất hóa đến mức không thể phân biệt rạch ròi bao nhiêu là của ai? Vả chăng, đã là dân gian - truyền thuyết thì ai dám khẳng định là của Kinh hay của 53 dân tộc khác?
Đâu chỉ riêng Việt Nam...
Nước Mỹ xa xôi có không ít hơn 500 tộc người – nhiều đến mức nói không sợ sai rằng trên thế giới có ngôn ngữ nào, dân tộc nào thì Hoa Kỳ có thứ tiếng đó, tộc người đó. Thế nhưng, dù là người Mỹ gốc Đức, gốc Ái Nhĩ Lan, Hà Lan..., đều coi G. Washington là “cha đẻ” của Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ, là ông TỔ đã khai sinh ra siêu cường của thế giới; mặc dù, tổ tiên của G. Washington sinh ra và lớn lên ở Sulgrave, nước Anh. Dĩ nhiên, cái nghĩa “tổ” của người Mỹ mới có lịch sử lập quốc 237 năm (tính từ 4.7.1776 - 2013) khác rất nhiều với “tổ” trong quan niệm của người Việt, với lịch sử khoảng 2.500 năm. Cái khác căn bản nhất đó là, họ có người thật, ghi thật, đủ, rõ ràng các chứng cứ lịch sử; còn chúng ta chỉ có truyền thuyết và những di tích không xác định được chủ thể tộc người nào dựng lên (như đã nói ở trên). Nếu đưa cách nghĩ 54 dân tộc VN có 54 ông tổ thì ở Mỹ phải có đến 500 vị là ít(!) Lúc ấy, đất nước sẽ tan đàn sẻ nghé, sẽ huynh đệ tương tàn, sẽ nồi da xáo thịt là cái kết cục khó có thể nghi ngờ... Như vậy, nền tảng của cái nghĩa TỔ nhất định gắn với người có công lao gắn kết cả dân tộc thành một khối thống nhất. Tại sao đã có truyền thuyết đó, Loa Thành đó, Đền thờ đó mà lại tự nhiên nghĩ ra cái chuyện mỗi dân tộc nên “xây cho mình” một chốn “linh thiêng” tương tự, thậm chí bề thế hơn?
Nền văn minh Trung Hoa cận kề với Việt Nam tôn vinh Khổng Tử là người thầy của muôn đời, bậc Chí Thánh Văn Tuyên Vương có nghĩa là ông TỔ của Nho giáo, đạo đức Nho gia, văn học, tư tưởng... Ai cũng biết Khổng Tử người Hán, nhưng như thế không có nghĩa là 55 dân tộc còn lại sẽ tìm bậc tổ khác. Xuất phát từ cái lẽ rất chung rằng Khổng Tử là “người vẽ nên mắt rồng” nếu Trung Hoa là một con rồng, là người đặt nên nền tảng văn minh Trung Hoa vĩ đại nên cả Khang Hy (làm vua từ 1665-1725) lẫn Càn Long (làm vua từ 1736-1795), hầu như năm nào cũng đều đến tế lễ ở Khổng Miếu... Nếu những hậu duệ của người Mãn phân biệt tổ Hán, tổ Mãn thì chắc chắn Khu di tích Khổng Tử không rộng đến cả 100.000m2 và không thể nào sát nhập được Nội Mông, Tây Tạng, Tân Cương vào bản đồ Trung Quốc – với cuộc thôn tính sau nhất, năm 1757!
“Chủ nghĩa Sô vanh” là một từ ngoại lai, xa lạ với văn hóa Việt, tâm hồn Việt. Không phải 54 dân tộc nhận Vua Hùng là Quốc Tổ mà nói rằng “người Kinh” đang thực thi chủ nghĩa đó. Tất nhiên, không phủ nhận rằng đây đó, vẫn có những biểu hiện lệch lạc về nhận thức, thiển cận về văn hóa, nông cạn về khoa học khi biên soạn sách (thậm chí là SGK), khi xưng tụng thái quá văn hóa của người Kinh, vô hình trung (cố tình và cũng có cả vô tình), biến nó thành Việt. Chẳng hạn, cuốn Cơ sở Văn hóa Việt Nam của một tác giả khá nổi tiếng trình bày các tập tục, thành tựu của người Kinh hàng trăm trang nhưng nói về 53 dân tộc khác chỉ có mươi trang... Cách nghĩ và cách làm đó cần phải thay đổi nhưng sự cực đoan, dưới bất kỳ hình thức nào, cũng đều dẫn đến những hậu quả khôn lường... Mặt khác, cũng rất nên nhấn mạnh rằng là nếu nói Vua Hùng “của người Kinh” là chủ yếu cũng không ổn; bởi gần như ngay sau đó, chúng ta phải “chứng minh” tiếp cái điều khó hơn lên trời (bởi sẽ mặc nhiên vi phạm thuộc tính logic của lịch sử): Giữa các dòng họ Phan, Lê, Phạm, Trần, Nguyễn..., “ai” Kinh hơn “ai”? Cho đến thế kỷ 10, những người có họ Nguyễn chỉ là lác đác sao chiều trong sử sách, bây giờ, dòng họ ấy chiếm từ 15 - gần 20% dân số đấy(!)
Đất nước Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm, với lịch sử giữ nước nhiều hơn dựng nước; đã và đang đứng trước những thử thách ngặt nghèo về chủ quyền, độc lập dân tộc; đã và đăng phải oằn mình với bao vấn nạn như tham nhũng, sự suy giảm của lòng tin, sự chia rẽ của nhận thức, sự nông cạn của tầm nhìn... Hơn bao giờ hết, chúng ta cần đến sự đoàn kết, thống nhất của toàn thể dân tộc để bảo vệ sự toàn vẹn về lãnh thổ, văn hóa, giống nòi. Tổ Hùng Vương là Cội Nguồn thiêng liêng của cả 54 dân tộc trên đất nước Việt Nam. Không một ai có quyền thay đổi sự thật lịch sử đó!