Những góc nhìn Văn hoá

Nhận diện văn học Thăng Long - Hà Nội 10 thế kỷ (Phần II)

 

II

Vậy thì, nhìn sâu vào cái được biểu hiện của văn chương, có thể hiểu tâm hồn, cốt cách Thăng Long - Hà Nội trong văn học là gì? Nếu không phải đó là cái gì được tinh kết từ mọi con người đã tìm về đây hiện diện? Thăng Long là biểu tượng chung của đất nước, tâm hồn Thăng Long mang những nét đặc trưng cho tâm hồn của cả cộng đồng dân tộc, và văn học Thăng Long - Hà Nội cũng chính là phần tinh hoa nhất, là trái tim văn học của cả cộng đồng. Đã đành, nói như thế không có nghĩa là đánh đồng cái phần tiêu biểu của văn học cả nước với văn học Thăng Long. Trước sau vẫn phải tính đến một tiêu chí có ý nghĩa khu biệt: văn học cả nước là văn học đã tổng hòa thành bản sắc Việt Nam còn văn học Thăng Long thì lại thể hiện bản sắc Việt Nam chủ yếu thông qua cái tươi rói của tính cách “Tràng An” độc đáo, trong đó in sâu tư chất, lối sống, cách giao tiếp, tập quán xã hội... của con người Thăng Long nhiều đời. Chỉ cho ra cái tính cách “Tràng An” độc đáo này là điều không dễ, nhưng với sự thẩm thấu của lịch sử, ta cũng có thể phần nào cảm nhận được nó thông qua những biểu hiện có tính định lượng, những gì là đặc điểm bộc lộ ra bên ngoài. Có thể nói, đây là một nền văn học vừa nặng tính chất chính thống quan phương lại vừa chứa đựng tiềm năng dân chủ hóa, vừa giàu chất trí tuệ lại vừa đậm sắc thái trữ tình.
Tính chính thống, quan phương của văn học Thăng Long bắt nguồn từ một thực tế: Thăng Long là nơi dựng nghiệp của nhiều vương triều, cũng là nơi phát ngôn bằng văn chương bút mực của chế độ thống trị qua nhiều thời đại. Các bậc vua chúa hay chữ, các trí thức tài hoa gắn mình với chế độ... đã khởi đi từ Thăng Long một dòng văn học chính thống, mang chức năng tuyên truyền chính trị, và người dân Thăng Long cũng dần dần quen nhạy cảm với thời tiết chính trị qua thơ văn. Do uy tín và cả quyền lực của người cầm bút, do tính cấp thiết của đề tài chính trị vào thời điểm phát ngôn, văn chương chính trị thường được tôn sùng hơn nhiều loại hình văn chương khác, và dạng thức nhà văn trữ tình chính trị( ) là dạng dễ được ca ngợi trong văn học Thăng Long từ cổ đại đến nay. Cũng giống như cuộc đời của một con người, Kinh đô đã trải nhiều phen dâu bể, không ít những chặng thăng trầm, đau khổ xen lẫn niềm vui, gắn liền với số phận của đất nước. Thời nào cũng có những nhà chính trị đại diện cho những thế lực nhất định, dùng thơ văn làm lợi khí để cổ vũ dân chúng tin theo đường lối của họ, nhằm ban bố một “tân chính sách”, một thể chế mới, tôn phù một “đấng minh quân” hoặc đánh đổ một dòng họ “tiếm quyền”, một thế lực ngoại bang đang ngự trị... Nhưng trong vô số các biến cố chính trị giông bão ấy, chỉ có những cuộc đấu tranh chống xâm lăng trên trường kỳ lịch sử là quan hệ trực tiếp đến vận mệnh hàng triệu con người, nên văn chương thấm đậm tình cảm yêu nước cũng đọng lại trong tâm can người đọc sâu bền hơn cả. Vì thế, với thời gian, nhiều đề tài thời thượng nóng hổi một thời đều lần lượt rơi rụng, duy có dòng văn học yêu nước chống ngoại xâm với một số áng văn tiêu biểu nhất, những hịch, cáo, thơ, phú, biểu, chiếu... là vẫn lung linh giá trị.
Như một nghịch lý khó tin, văn học Thăng Long nặng tính chính thống quan phương mà lại cũng giàu tiềm năng dân chủ? Nhưng sự thực là thế, hầu hết mọi vương triều nối tiếp ở Thăng Long, khi chưa đi vào suy thoái, đều không ít thì nhiều biết đặt cái gốc ở dân. Cho nên yếu tố dân chủ sơ khai, hiểu theo một nghĩa nào đấy, vốn không phải nảy sinh từ dưới lên mà mới đầu cũng được manh nha từ trên, từ các nhà chấp chính, các bậc thức giả của cung đình dội xuống. Khái niệm “dân” được Lý Thường Kiệt mở đầu trong Bài văn lộ bố khi đánh Tống (Lộ bố văn), Trần Quốc Tuấn nhấn mạnh trong Di chúc, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông thể nghiệm một cách độc đáo đột xuất trong Hội nghị Bình Than và nhất là Hội nghị Diên Hồng (1284), Trần Minh Tông nhắc đến trong Hành cung Nghệ An (Nghệ An hành điện), Trần Nguyên Đán (1325-1390) hoài vọng trong Thơ làm tháng Sáu năm Nhâm Dần (Nhâm Dần niên Lục nguyệt tác), Nguyễn Trãi tổng kết thành luận điểm “trừ bạo để yên dân” trong Cáo bình Ngô (Bình Ngô đại cáo) và trong nhiều bài thơ chữ Hán... đều là kết quả của việc vận dụng lý thuyết “dân vi quý” của Nho giáo, cộng với sự chiêm nghiệm sâu sắc trong hoạt động thực tiễn của từng người. Dưới thời Lý - Trần, cảm hứng dân chủ sơ khai còn nằm trong tiềm thức người lãnh đạo đất nước nhờ họ đều thấm nhuần tư tưởng bình đẳng bác ái của Phật giáo. Lời khuyên của vị Quốc sư Phù Vân ở trên núi Yên Tử đối với vua Trần Thái Tông chắc chắn đã trở thành một mục tiêu trị nước của nhà vua trong suốt những năm ông chấp chính: “Phàm đã là bậc nhân quân tất phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình; lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình” ( ).
Lâu về sau, cùng với các bước tiến của lịch sử, một đội ngũ trí thức tương đối tự do sẽ dần dần xuất hiện trong xã hội Thăng Long( ), kế tục phát huy các yếu tố dân chủ buổi đầu thêm một bước, làm cho chúng từ chỗ chỉ mới là vô thức (Phật giáo), hoặc mới như những cái khuôn xa lạ áp đặt vào đời sống người Việt (Nho giáo), bỗng trở thành có đường nét tư tưởng cụ thể và bắt rễ vào đời sống tinh thần như những nhân tố nội sinh. Lời bàn về Lẽ hưng vong trị loạn của Thiền sư Nguyễn Nguyên Ức (1080-1151), Sớ xin chém bảy gian thần (Thất trảm sớ) của Chu Văn An (1299-1370), Mười kế sách của người vợ khuyên chồng (Kê minh thập sách) của cung nữ Nguyễn Thị Bích Châu (?-1377) dưới triều Trần Duệ Tông, Ở quê xúc động trước việc xẩy ra, gửi trình tướng công Băng Hồ (Thôn cư cảm sự trình Băng Hồ tướng công) của Nguyễn Phi Khanh (1355-1428?), Biểu dâng 14 điều nói thẳng của Lương Đắc Bằng (1472-?), Thư xin chém 18 lộng thần của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), tập điều trần Cần bộc chi ngôn dâng lên Trịnh Sâm của Ngô Thì Nhậm, Khải can gián Trịnh Tông của Phạm Nguyễn Du (1740-1785), Sớ điều trần của Nguyễn Văn Siêu (1799-1872), Nguyễn Tư Giản (1823-1890), Thư gửi toàn quyền Beau của Phan Châu Trinh (1906)( ), Văn minh tân học sách của Đông Kinh nghĩa thục (1907), những bài diễn văn nổi tiếng của Hội nghị báo giới Bắc Kỳ tại Hà Nội (1937), hoạt động sáng tác kèm theo những tuyên ngôn đôi khi có vẻ như quá đà của Nhóm Nhân văn - Giai phẩm... vài năm sau Hiệp định Genève (1956-1957) “căn bản đưa ra các vấn đề cũng chỉ là để đi đến vấn đề tự do dân chủ, trăm hoa đua nở, phát triển văn học nghệ thuật” (Nguyễn Huy Tưởng)( )... đều nói lên sức bền của truyền thống ấy. Tất nhiên, giữa cái mầm mống dân chủ của thời cổ đại và những tư tưởng dân chủ ở thế kỷ XX đã có một sự đổi thay về chất, nhờ bước chuyển quan trọng từ phạm trù văn hóa phương Đông sang quỹ đạo văn hóa châu Âu. Nhưng trong tinh thần lõi cốt, bước chuyển ấy vẫn không dẫn đến một sự đoạn tuyệt với quá khứ, đúng hơn, sự kế tiếp trước và sau vẫn diễn ra nhuần nhị, hữu cơ, trong đó bản sắc của truyền thống dưới hình thức này hay hình thức khác, được bảo lưu một cách khá vững bền.
Lâu nay ta hay nhắc đến mấy chữ “sĩ phu Bắc Hà” với ý nghĩa đây là những người nhiều chữ nghĩa và giàu khí khái. Nói cho cùng, “sĩ phu Bắc Hà” cũng là sĩ phu Thăng Long vì chỉ có trong môi trường học vấn Thăng Long xưa kia chứ không phải ở đâu khác, chữ nghĩa mới được đào tạo bài bản, và khí khái, được ươm mầm từ những truyền thống dân chủ có sẵn, mới trở thành một bản ngã, một sự sành sỏi đến mức lưu danh. Vào năm 1073, dưới triều ông vua Lý Nhân Tông non trẻ, Thái úy Lý Thường Kiệt đã tổ chức thành công một cuộc chính biến động trời, giết Dương Thái hậu và 72 cung nữ, đưa Nguyên phi Ỷ Lan lên nhiếp chính, và giáng chức Tể tướng Lý Đạo Thành vốn đang đầy uy vọng, bắt ông về Nghệ An để mình thay quyền. Tình thế của nhà Lý trở nên bất ổn. Thế nhưng chỉ một năm sau (1074), cũng lại chính Lý Thường Kiệt đã cho mời Lý Đạo Thành ra nhận chức trở lại để mình được rảnh tay dốc sức vào việc binh bị nhằm đối phó với nhà Tống đang lăm le nhòm ngó Việt Nam. Cùng với quyết định này, Triều đình nhà Lý còn ra sắc chỉ cho quan và dân phải tôn trọng những người có học vấn trong cả nước, và cho phép các bậc đại thần kỳ lão vào chầu vua không phải lạy quỳ( ). Quyết định “trả chức” của Lý Thường Kiệt là một việc làm kỳ lạ, chưa từng thấy xưa nay, chứng tỏ ông là một người có tầm thước lớn trong lịch sử. Nhưng chắc chắn quyết định đó cũng chỉ có thể nảy ra từ một con người thấm sâu văn hóa Thăng Long tận trong huyết quản, và từ trong tâm thức, đã tiên cảm được cái yêu cầu dân chủ của nền văn hóa này.
Một câu chuyện khác: vào thế kỷ XIX nhà thi sĩ nổi tiếng kiêu ngông Cao Bá Quát có để lại một bài hát nói trong đó có những câu rất đáng kinh ngạc:
     Bóng thiều quang thấp thoáng mé Nam san,
     Ngoảnh mặt lại cửu hoàn coi cũng nhỏ.
   (Chén rượu tiêu sầu)
Ai cũng biết “cửu hoàn” là vũ trụ, tuy từ này không có trong từ điển Trung Hoa. Nhưng trong văn cảnh ngữ nghĩa ở đây “cửu hoàn” còn có nghĩa là gì? Tại sao Cao Bá Quát lại viết tiếp: “Khoảng trời đất cổ kim kim cổ /  Mảnh hình hài không có có không /  Lọ là thiên tứ vạn chung”? “Thiên tứ vạn chung” - ấy là ân sủng cao quý bậc nhất dành cho bề tôi của đấng thiên tử. Cao Bá Quát tỏ ra xem thường cái đó vì đứng trên quan điểm vũ trụ mà xét, mọi vật tồn tại trong thời gian chỉ là nháy mắt, cổ và kim cũng chỉ là trong vòng quay không ngừng của tạo hóa, còn đứng trên quan điểm nhà Phật mà xét, cái gọi là sắc thân - hình hài - có đó mà cũng là không. Rõ ràng “cửu hoàn” trong cách dùng của Cao Bá Quát khiến ta không thể không nghĩ đến chữ “cửu trùng”, mang nghĩa song quan, vừa là trời đất, vừa là biểu trưng cao quý của nơi nhà vua ở. Và từ cái nghĩa song quan này, có thể thấy dưới con mắt họ Cao, dường như mọi thứ đều bị xem nhẹ, dẫu là những vật lớn lao, trường tồn như trời đất, hay thâm nghiêm thăm thẳm như bệ ngọc của đấng chí tôn. Nói về khí phách thì dám chắc có nhiều nhân vật sản sinh ở miền này vùng kia còn có khí phách tương đương hoặc lẫm liệt hơn Cao Bá Quát, như Nguyễn Hữu Cầu (?-1750) với bài hát nói Chim trong lồng ấp ủ khát vọng tự do: “Phá vòng vây bạn với kim ô”. Tuy nhiên, phải nói, khát vọng tự do của Nguyễn Hữu Cầu, dẫu là cao cả, cũng không ngoài chuyện “tranh bá đồ vương”, trái lại, với Cao Bá Quát, khát vọng thảnh thơi, tự tại, lại là hiện thân của một tinh thần dân chủ. Ông muốn nói rằng không thể có sự cao thấp khác nhau giữa một hàn sĩ như ông và một ông vua địa vị cao sang, xét về thực chất giá trị. Cái ý tưởng bất chợt đó quả là lớn và cũng phải với môi trường văn hóa giàu tiềm năng dân chủ như Thăng Long mới cấp cho Cao Chu Thần cái nhìn vượt thời đại như vậy.
Lại như trường hợp Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939) ở đầu thế kỷ XX. Một lần có viên Tổng đốc nọ muốn mời ông đến tư dinh uống rượu. Ông thản nhiên trả lời viên Tri huyện sứ giả của Tổng đốc rằng: “Nếu cụ lớn - một ông quan Thủ hiến - muốn đòi tên dân Nguyễn Khắc Hiếu lên tỉnh, xin có trát, tôi sẽ đi ngay. Chứ như nếu là quan Thủ hiến là một kẻ nhân đọc thơ văn của tôi mà có bụng liên mến, thì, tôi xin mời cụ lớn phải đến đây, dẫu chỉ là một túp nhà cỏ, để được cho tôi hầu rượu”( ). Khẩu khí ấy liệu có sức nặng của nó hay không, nếu không tựa trên một truyền thống văn hóa Thăng Long vốn thấm đậm chất dân chủ qua nhiều thời đại?
Do sự phân hóa, tranh chấp quyền lực trong nội bộ các tập đoàn thống trị nhiều đời, mà bắt đầu là từ thời Lê - Trịnh, tầng lớp “sĩ phu Bắc Hà”, với thân phận những bề tôi trực tiếp, gần gũi nhất, không khỏi phải tìm cách đối phó, và do đó cũng chịu nhiều hạn chế trong cung cách ứng xử. Bản tính gọi là cứng cỏi, thẳng thắn của họ đôi khi phải biểu hiện dưới hình thức nước đôi, tránh né, dưới sức ép của cả chúa lẫn vua. Lâu dần, thói quen này thấm sâu vào tính cách, tạo nên một hình ảnh mặt trái về họ: vừa mang cái vẻ ngoài rất “khuôn phép”, lại vừa có cái ranh mãnh ngầm, cái phản ứng thâm thúy của lớp người rất giỏi trò chơi chữ. Mặt khác, cái dân chủ dội từ trên xuống và cái dân chủ nẩy sinh từ trong lòng xã hội trước sau cũng phải tìm thấy một mẫu số chung, phải nhượng bộ lẫn nhau để cùng tồn tại. Đó là một thực tế phức tạp, có sự đan chéo giữa mặt hay và mặt dở, mặt lưng chừng và mặt cấp tiến, mặt “khuôn phép hóa” và mặt “vùng ra khỏi khuôn phép”, mà văn học Thăng Long - Hà Nội thời nào cũng không khó tìm ra dẫn chứng. Ở thế kỷ XVIII-XIX, giữa không khí sục sôi tinh thần nhân văn chủ nghĩa, đã có một tiếng cười làm mất mặt đấng chí tôn của Trạng Quỳnh, một cái lườm nguýt làm xiêu đổ “hiền nhân quân tử” của Hồ Xuân Hương, và cũng đã có không ít những tiếng chửi đổng làm ra vẻ “phản tỉnh” của kẻ mới được giữ địa vị “chăn dân”, muốn đoạn tuyệt với cuộc sống được “cởi trói” bấy lâu để lại tự nguyện chui vào cái vòng “kim cô” của giai cấp thống trị kiểu như Chiêu Hổ... Ngay đến thời đương đại, dân chủ từ trên và dân chủ bột phát từ xã hội công dân đi vào văn học vẫn là hai yếu tố song hành, nhiều lúc tưởng có gì “trái cựa”, nhưng xét cho cùng, đấy cũng là sự thúc đẩy tất yếu lẫn nhau, có cái này mới có được cái kia. Và đó chính là kết quả khách quan của sự mở rộng cảm hứng dân chủ của đời sống văn chương diễn ra trong vòng một thập niên đổi mới cho đến sát trước khi bước sang thế kỷ XXI - một vụ mùa chưa thể gọi là bội thu, cũng chưa hẳn đã như ý muốn của người này hay người nọ, nhưng nó là sản phẩm không thể đòi hỏi khác hơn của một mô hình văn hóa trong đó quá khứ vẫn còn chi phối và ám ảnh đối với hiện tại - giữa một thời đại thông tin và mở cửa. Một hiện tượng truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, truyện ngắn của Phạm Thị Hoài, và truyện ngắn của nhiều cây bút trẻ khác, một Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, một Những thiên đường mù của Dương Thu Hương, hay một Cát bụi chân ai, một Chiều chiều rồi Ba người khác của Tô Hoài... thoạt kỳ thủy đều gây sửng sốt, tạo nên những “cú sốc”, có cảm giác là những hiện tượng “không đi vào quy củ”, nhưng rồi dần dần, thời gian đã phán xét, điều chỉnh, xác nhận lại sự hiện diện của chúng. Ở đây dường như là có sự tiếp nối cùng lúc vừa cái khôn ngoan, thâm thúy, tưng tửng nước đôi, lại vừa là cái vỗ mặt sỗ sàng, táo tợn, của “sĩ phu Bắc Hà”, của những truyền thống văn chương cổ xưa của con người Hà Nội.
Văn học Thăng Long còn giàu chất trí tuệ bởi Thăng Long trong nhiều thời kỳ lịch sử đã từng là nơi kết tinh những nhà văn hóa, tư tưởng có tầm vóc thời đại, mà họ đồng thời cũng là nhà thơ nhà văn. Chúng ta có một Hưng Đạo đại vương, nhà tư tưởng quân sự kiệt xuất, tài ba, và một Trần Quốc Tuấn viết những câu văn hịch hùng hồn, làm sục sôi tinh thần tướng sĩ. Có một Tuệ Trung thi sĩ tiêu dao, phóng khoáng và một Tuệ Trung Thượng sĩ đề xuất bản thể luận Phật giáo và tổng kết phép biện chứng trong cách nhìn sự vật ở thế kỷ XIII:
Tây nguyệt trầm không nan phục ảnh,
Đông lưu phó hải khởi hồi ba.
    (Thế thái hư huyễn)
 (Trăng lặn, bóng trăng khôn trở lại,
* Sông trôi, sóng nước mãi trôi qua) (
Có một Nguyễn Trãi văn hào “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời”( ) và một Nguyễn Trãi đứng ở đỉnh cao tư tưởng của thế kỷ XV, lần đầu tiên nêu phạm trù dân tộc một cách hoàn chỉnh nhất, bao gồm một cộng đồng người có “núi sông bờ cõi” xác định, có phong tục tập quán đặc thù, lại có cả một bề dày văn hiến không thể phủ nhận. Cũng Nguyễn Trãi ấy còn là người lần đầu phát ngôn cho quan niệm “nhân nghĩa” của người Việt, một mệnh đề Nho giáo mà ông cải tạo lại, bổ sung bằng thực tiễn cuộc đấu tranh gian khổ của dân tộc Việt mà ông trải nghiệm với tư cách một người trong cuộc, để chung đúc vào đấy tinh hoa của chủ nghĩa nhân văn Việt Nam. Có một Lê Quý Đôn biên soạn những cuốn sách thông kim bác cổ và một Lê Quý Đôn là người bác bỏ xuất sắc lý khí nhị nguyên hay lý gốc khí ngọn của Chu - Trình, ở thế kỷ XVIII: Lý còn không có hình tích, nhờ có khí nó mới hiện ra được. Lý ở ngay trong khí( ). Có một “Thánh Quát” văn chương “vô Tiền Hán”, và một Cao Bá Quát lãnh tụ nông dân khởi nghĩa, trong thơ lấp lóe cái chân lý: phải có cách mạng bạo liệt mới thật sự đưa đất nước đến một cuộc đổi đời, ở nửa đầu thế kỷ XIX:
Tạc dạ xuân lai phá cựu hàn,
Kim triêu hồng tử đấu thiên ban.
Hà đương thế sự như hoa sự,
Phong vũ, giang san tận cải quan.
(Lập xuân hậu nhất nhật tân tình)
(Hôm qua xuân đến rét tan,
Sáng nay hồng tía muôn ngàn khoe tươi.
Việc hoa ước cũng việc đời, 
Gió mưa một )
*trận, khắp nơi sạch làu) (
Có một Hồ Chí Minh khoảng đầu những năm 40 thế kỷ XX, làm thơ giữa cảnh tù ngục, đặt vấn đề tự do như một quyền sống thiêng liêng của từng con người cá thể :
 Thế thượng thiên tân hòa vạn khổ,
 Mạc như thất cước tự do quyền.
 Nhất ngôn nhất động bất tự chủ,
 Như ngưu như mã nhậm nhân khiên.
(Cảnh binh đảm trư đồng hành, II - trong Nhật ký  trong tù)
(Trên đời nghìn vạn điều cay đắng,
        Cay đắng chi bằng mất tự do.
        Mỗi việc mỗi lời không tự chủ,
        Để cho người dắt tựa )
*trâu bò) (
và một Hồ Chí Minh nêu chân lý cho cả cộng đồng, khi đã là Chủ tịch nước, mở đầu phiên họp lâm thời Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” ( ); rồi khi cầm chịch việc động viên toàn dân lao vào cuộc kháng chiến chống Mỹ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Ngoài ra, còn bao nhiêu gương mặt văn hóa khác, tầm vóc và diện mạo có khác nhau: một Lương Văn Can (1854-1927) từng đề xướng phong trào chấn hưng doanh nghiệp của người Việt theo đầu óc thái Tây ngay từ đầu thế kỷ XX mà sau này Bạch Thái Bưởi (1874-1932), Nguyễn Sơn Hà (1894-1980)... sẽ là những nhà thực hành nổi tiếng; một Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1935) với niềm tin tưởng: “Nước Nam ta mai này hay dở là ở như chữ quốc ngữ”( ); một Phạm Quỳnh (1892-1945) với khẩu hiệu “Thổ nạp Á Âu” trước những năm 20; một Cao Xuân Huy (1900-1983) với phát kiến về phương pháp luận “chủ toàn và  ” giữa Đông và Tây khoảng giữa những năm 50; một Trần Huy Liệu (1901-1969) “Thử xét lại hồ sơ của giai cấp địa chủ” sát ngay sau cải cách ruộng đất; một Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) công khai đề xuất dân chủ pháp quyền từ năm 1956; một Nguyễn Khắc Viện dự báo cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng của chế độ bao cấp giữa những năm 80 từ 7, 8 năm về trước; và một Trần Độ tướng lĩnh trong kháng chiến chống Pháp chống Mỹ lại cũng là người chuẩn bị “bếp núc” cho Nghị quyết 05 của Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 6 chứa đựng tinh thần “cởi trói” cho văn nghệ sĩ, bước đột phá đầu tiên của tiến trình dân chủ hóa trong một thể chế toàn trị... Thử làm một dấu nối giữa các các gương mặt tiêu biểu ấy. Thực hiếm có một vùng đất nào mà hiện tượng sóng đôi giữa các đỉnh cao nghệ thuật và trí tuệ lại xuất hiện liên tục, dồi dào như trong văn học Thăng Long. Cái đẹp của văn học Thăng Long - Hà Nội vì thế có thể nói là cái đẹp của một tiềm năng tự phát sáng và tỏa lan ánh sáng đến nhiều lĩnh vực của đời sống tinh thần, kích thích những biến đổi mạnh mẽ về tư tưởng, văn hóa, văn học ở nhiều vùng đất nước, khơi nguồn cho các trào lưu, các dòng phái, các hiện tượng văn học trong từng thời kỳ sinh sôi nảy nở.
Nhưng văn học Thăng Long rất trí tuệ mà lại không kém ý vị trữ tình. Cảm xúc trữ tình từng là thế mạnh của văn học nhiều vùng, như văn học Kinh Bắc, văn học Nghệ - Tĩnh... Tuy thế, sắc thái trữ tình của văn học Thăng Long vẫn có nét ưu mĩ của nó, ở chỗ phong cách biểu hiện của dòng văn học này là sự tài hoa thanh lịch, là cái sang trọng của tình cảm kết tinh thành chữ nghĩa, và là cái sang trọng của chữ nghĩa cất lên thành tiếng nói thi ca.
Chỉ một giây phút trầm tư trong bức tranh giai nhân thêu gấm của nhà sư thi sĩ Huyền Quang (1254-1334), cũng đủ gợi lên tất cả chiều sâu tâm lý và dáng dấp phong tao, kiều diễm của những người đẹp Kinh thành:
          Nhị bát giai nhân thích tú trì,
          Tử kinh hoa hạ, chuyển hoàng li.
          Khả liên vô hạn thương xuân ý,
          Tận tại đình châm bất ngữ thì.
                (Xuân nhật tức sự)( )
                    (Lỏng tay thêu gấm, gái yêu kiều,
                    Hoa rợp, oanh vàng lảnh lót kêu.
                    Bao nỗi thương xuân, thương biết mấy,
 )
*                    Là khi không nói, chợt dừng thêu)(
Cũng có cái rạo rực xốn xang rất hiện đại trong nỗi nhớ người tình của một Đặng Minh Bích (? - ?) ở thế kỷ XV mà phải là người Thăng Long mới có được:
 Mỹ nhân nhất biệt kỷ thu phong,
 Dao đối thanh sơn nhận cựu dung.
 Tạc dạ mộng tinh vô hạn tứ,
 Sương thiên tà nguyệt, mãn thành chung.
 (Ức cố nhân)
 (Chia tay người đẹp mấy thu qua,
 Ngóng dáng hình xưa nơi núi xa.
 Tỉnh giấc thâu đêm trằn trọc nhớ,
 Sương giăng, chuông gióng, ánh )
*trăng tà) (
Lại cũng dường như có một cái gì thật sang trọng, có phần khuê các nữa, ẩn sâu trong những vần thơ thanh nhã của nữ sĩ Ngô Chi Lan (thế kỷ XV) khi bà từ trong môi trường cung cấm Thăng Long mà viết về hoa sen và các cô gái trẻ:
 Liên hoa viễn cận hương,
 Thái thái tổng sơn trang.
 Mạc khiển phong xuy mấn,
Băng cơ nguyên tự lương.
 (Thái liên khúc, II)
 (Sen ngát khắp gần xa,
 Đầy thôn tiếng hái hoa.
 Tóc đâu cần gió thổi,
 Thơm )
*mát tự trong da) (
Trong một bài thi ở Thăng Long vào đầu thế kỷ XVI, Trạng nguyên Nguyễn Giản Thanh (? - ?) đã bằng ngòi bút hóm hỉnh, chỉ trong mấy nét lột tả được rất đắt cung cách ăn chơi hào hoa mà vẫn không kém vẻ nền nã của các chàng trai cô gái kinh kỳ:
   Chợ hòe đầm ấm, phố ngọc tần vần,
  Trai lanh lẹ đá cầu vén áo;
  Gái éo le rủ yếm dôi quần.
  Khách Tràng An cưỡi ngựa xem hoa, rợp đường tử mạch;
  Chàng công tử ngự xe trương tán, rạng mực thanh vân.
 (Phụng thành xuân sắc phú) ( )

Văn học Thăng Long cận hiện đại cũng đậm đà không kém chất “trữ tình Tràng An”. Chúng ta thường hay nhắc đến một Tản Đà mà giọng thơ tự nhiên, mềm mại như phong dao song lại không phải là phong dao; nhắc đến một Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938) hồn nhiên, tinh nghịch như cái giọng của thế hệ thư sinh Hà thành một thuở; một Nguyễn Bính (1918-1966) “chân quê” đắm đuối trong yêu và “dan díu nợ giang hồ”, đến đâu cũng lai láng cảm hứng; một Vũ Hoàng Chương (1916-1976) chếnh choáng giữa say, sầu và mộng, ngôn từ không mới mà sang, lại giàu nhạc điệu, chứa chất âm hưởng của nhiều dòng nhạc mới cũ xen phối: nhạc hát nói, nhạc vũ trường; một Quang Dũng (1921-1988) với chỉ một nét bút khắc họa các chàng trai Hà Nội “xông pha chinh chiến” rất ước lệ, thế mà sao cứ đọng lại trong ta những câu thơ cổ kính, kiêu bạc, đầy sức âm vang; một Văn Cao (1923-1995) đặt cái “tôi” trong những đối diện bức xúc với thân phận của chính nó, khiến cho câu thơ không hề làm dáng mà mà thấm thía một nỗi đau chạm đến đáy sâu tâm khảm; một Nguyễn Đình Thi (1924-2003) với các bài thơ không vần, lần đầu tiên gieo vào thính giác người nghe những âm sắc mới lạ, chắc khỏe nhưng cũng hé lộ tâm trạng hết sức cô đơn, phần nào vượt khỏi tầm nghĩ và tầm cảm của công chúng thưởng thức đương thời; một Hoàng Cầm lúc nào cũng đằm thắm tâm hồn người con gái Kinh Bắc, câu thơ dù rút ngắn hay kéo dài vẫn mượt mà chất giọng lục bát... Chúng ta cũng thường nhắc đến bước đột khởi của văn xuôi Việt Nam với câu văn tiếng Việt mới mẻ, trong sáng, nhiều gợi cảm của Khái Hưng (1896-1947), Nhất Linh (1905-1963)... trong Tự lực văn đoàn; rồi giọng văn ngọt ngào, đằm thắm của Thạch Lam (1910-1942), Vũ Bằng (1913-1983) viết về những cái gì rất riêng của Hà Nội: từ chiếc bánh cốm hình như chỉ riêng Hà Nội mới có, đến những món quà mang hương vị Hà Nội, hay một tiếng rao hàng văng vẳng giữa đêm khuya khiến người Hà Nội phải nhớ đến nao lòng; hay giọng văn giàu hình ảnh của Tô Hoài, nghe như có cái lao xao của ánh nắng và mùi thơm của đồng lúa ngoại thành thấm vào từng câu từng chữ; giọng văn kiêu sa, đài các của Nguyễn Tuân (1910-1987) đưa người ta vào mê cung chữ nghĩa, theo đuổi những cảm giác chi li, tỉ mẩn, chẻ sợi tóc làm tư, nhưng cái nét tài hoa, cái cốt cách riêng của một cây bút suốt đời gắn bó với Hà Nội vẫn hiện lên rất rõ; giọng văn của Nam Cao (1917-1951), khơi dậy một cách thấm thía cảm giác “mòn đi, rỉ ra” của lớp người trí thức bần cùng giữa một Hà Nội tranh tối tranh sáng, tự ý thức về tấn bi kịch làm mụ mị tận đáy tâm hồn họ; hay giọng văn của Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960), độ lượng chân chất, tự dày vò mình trong quan niệm giằng mắc giữa tôn thờ nghệ thuật và phục vụ đại chúng, và sẽ trở nên thật hào hoa sảng khoái khi xây dựng hình ảnh những thanh niên Hà Nội sống chết cho Thủ đô trong cuộc chiến “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”...
Có thể nói sự lấp lánh của trí tuệ và vang hưởng trữ tình đằm thắm đã làm nên giọng điệu đặc sắc khó lẫn của ngôn ngữ văn học Thăng Long - Hà Nội trong vòng mười thế kỷ nay. Đây là một gợi ý giúp ta đi tới một sự suy luận xa hơn: trước khi Sài Gòn trở thành một trung tâm của sáu tỉnh phía Nam, trước khi Huế trở thành Kinh đô của nhà Nguyễn, thì các giá trị của văn học dân tộc, muốn trở thành giá trị lớn, đều ít nhiều phải khúc xạ qua “môi trường văn học Thăng Long”. Nói một cách hình ảnh hơn nữa thì văn học Thăng Long đã tồn tại trong khúc hợp lưu của văn học cả nước như nhánh lớn của một dòng sông, vừa dồn nước cho con sông chính, vừa hút phù sa từ mọi chi lưu, và tuy không hẳn quyết định số phận của dòng sông nhưng cũng làm đổi thay sức chảy của dòng. Dù rằng ở thế kỷ XIX, Kinh đô được chuyển về Huế, Thăng Long trở thành “tỉnh Hà Nội”, song điều đó cũng chẳng cản trở gì nhiều sự phát triển của nó. Hà Nội vẫn là Thủ đô muôn đời của sự phồn hoa, của văn hóa nghệ thuật, đúng như lời một học giả người Pháp, De la Liraye viết năm 1877: “Dù không phải là Kinh thành nữa, Kẻ Chợ vẫn là một thành phố đứng đầu trong cả nước về nghệ thuật, về công nghiệp, về thương nghiệp, về sự phong phú, về dân số, về lịch thiệp và về văn hóa. Phải nói rằng trong khắp nước không đâu có công nghiệp bằng Kẻ Chợ và tất cả Bắc Kỳ, tất cả Nam Kỳ đều không thể vượt qua được Kẻ Chợ. Các văn nhân, các thợ giỏi, các đại thương đều tới đấy. Các đồ cần dùng hàng ngày và các đồ mĩ nghệ xa hoa cũng từ đấy mà ra. Tóm lại, đấy là trái tim của dân tộc”

( Còn nữa - Kỳ sau đăng tiếp).

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114512864

Hôm nay

2401

Hôm qua

2400

Tuần này

2801

Tháng này

219737

Tháng qua

121356

Tất cả

114512864