Chương I: Mở cửa thông thương- Mạc phủ Edo diệt vong
Tiết I:Mạc phủ chấp nhận mở cửa
1.1 Cuộc cách mạng kỹ nghệ khiến liệt cường tiến qua châu Á:
Không phải đột nhiên mà Mạc phủ Edo mở cửa khi đoàn tàu của Đề đốc Perry đến đòi hỏi thông thương.
Chương I: Mở cửa thông thương- Mạc phủ Edo diệt vong
Tiết I:Mạc phủ chấp nhận mở cửa
1.1 Cuộc cách mạng kỹ nghệ khiến liệt cường tiến qua châu Á:
Không phải đột nhiên mà Mạc phủ Edo mở cửa khi đoàn tàu của Đề đốc Perry đến đòi hỏi thông thương.
Chính ra từ nửa thế kỷ trước khi Perry đến Nhật, thuyền bè của liệt cường đã lảng vảng ở vùng biển Nhật Bản, khi ẩn khi hiện. Họ cũng đã nhiều lần vào đến tận các hải cảng tuy chỉ là để “ xin nước và củi” (nói chung là lương thực và chất đốt) nhưng chắc chắn những mong có cơ hội buôn bán.
Câu hỏi đáng đặt ra là tại sao các cường quốc Âu châu và Mỹ châu từ nơi xa xôi lại tìm cách đến châu Á cho bằng được? Có thể trả lời một cách giản dị trước khi đi vào chi tiết là vì họ muốn đem những thương phẩm của mình bán cho người châu Á, nói cách khác, họ đi kiếm thị trường.
Ở Âu châu lúc đó đã tiến hành một cuộc Cách mạng kỹ nghệ (The Industrial Revolution). Đó là một biến chuyển to lớn khởi đầu ở nước Anh từ hậu bán thế kỷ 18 (niên đại 1760). Cụ thể mà nói, trước tiên nó đã manh nha từ các phát minh như động cơ chạy bằng hơi nước cũng như máy móc dùng trong công nghiệp và kỹ thuật luyện thép. Xã hội công nghiệp có khả năng sản xuất hàng loạt những sản phẩm công nghệ có phẩm chất tốt đã thành hình. Có được kinh nghiệm sản xuất hữu hiệu như thế, người Anh đã sản xuất một cách thừa thãi. Những sản phẩm họ chế tạo ra nhiều đến nổi sau khi bán ra cho cả lục địa Âu châu rồi mà vẫn còn thừa.
Hình ảnh cuộc cách mạng kỹ nghệ ở Âu châu thế kỷ 18.
Khổ cho họ hơn nữa là bên Mỹ, bên Pháp, các cuộc cách mạng kỹ nghệ tại chỗ cũng được tiến hành theo. Kết quả là nếu các nước Âu Mỹ không tìm ra nơi nào trên thế giới tiêu thụ được sản phẩm thặng dư của mình thì nền kinh tế của tất cả bọn họ tất lâm vào cảnh khốn đốn. Các cường quốc ấy mới đưa những con tàu đen (kurofune = hắc thuyền = tàu vỏ sơn đen) chạy với động cơ bằng hơi nước và trang bị trọng pháo đến tận những miền đất xa xôi để tìm kiếm thị trường mới.
Về phương Đông, họ đi hết Ấn Độ rồi đến Đông Nam Á. Đến tiền bán thế kỷ 19, cuối cùng họ đã đặt được chân lên vùng Cực Đông.
Để có được thị trường, các nước mạnh đó không đếm xỉa gì đến phương tiện. Nếu họ thấy đối tượng chỉ là một xã hội bán khai, sẽ không nề hà việc sử dụng phương tiện võ lực để cưỡng bách, biến nơi đó thành đất thực dân. Một mặt, họ tung thương phẩm của mình bán hàng loạt, đồng thời thu mua nguyên liệu tại chỗ với giá rẻ, dùng nó để chế tạo thật nhiều sản phẩm và bắt người ở phần đất bị thực dân đó phải mua. Khi hoàn thành được cái “vòng” (chu kỳ) mậu dịch này rồi, họ tha hồ thu thập lợi ích. Cách làm ăn như thế được gọi là chủ nghĩa đế quốc (imperialism). Sau này, đến phiên Nhật Bản cũng chạy theo liệt cường để thi hành một chính sách đế quốc y như thế. Tuy nhiên, ở thời điểm chúng ta đang bàn thì ngược lại, chỗ đứng của nó hãy còn là một quốc gia ươn yếu, bị uy hiếp.
Đứng trước sự biến đổi cực kỳ nhanh chóng của tình hình thế giới, thử hỏi những kẻ đứng đầu Mạc phủ Edo đã nắm được tình hình đến mức độ nào?
Thực ra, sự hiểu biết về thế giới lúc đó của họ khá chính xác. Cho dù theo một chính sách đóng cửa (tỏa quốc) nhưng nhờ giao thiệp với Hà-Lan, Trung Quốc nhà Thanh và Triều Tiên, họ có không ít thông tin về những diễn tiến bên ngoài.
Mạc phủ cũng được biết tin tức nước ngoài qua ngõ Satsuma bởi vì kể từ khi hạm đội của Anh ghé vương quốc Lưu Cầu (đang ở dưới quyền cai trị của phiên Satsuma) vào năm Bunka 13 (1816), tàu các nước khác cũng lần lượt cập bến. Có thể hiểu là phiên Satsuma đã thông báo sự tình cho mạc phủ. Ngoài ra, còn có việc hàng năm, thương thuyền Hà Lan khi ghé đến Nagasaki đều phải phúc trình cho mạc phủ về tin tức cập nhật trên thế giới qua văn kiện có tên là Oranda fuusetsusho (Hà Lan phong thuyết thư).
Do đó, chắc chắn mạc phủ đã biết ngay là có cuộc Chiến tranh Nha Phiến xảy ra giữa nhà Thanh và nước Anh vào năm 1840-42, Trung Quốc đã thua trận như thế nào và mất Hương Cảng ra sao. Chính vì vậy họ đã vội vàng sửa đổi đường lối ngoại giao.Bằng cớ là năm Tenpô 13 (1842), mạc phủ cho ngưng Lệnh Ikokusen uchiharai tức lệnh đánh đuổi tàu thuyền ngoại quốc (ban hành năm Bunsei 8 tức 1825). Từ đó, Nhật Bản ra một lệnh mới định rằng tàu thuyền ngoại quốc (dị quốc) tức tàu phương Tây nếu đến Nhật sẽ được cấp cho nước (thủy), củi (tân, nhiên liệu) và lương thực mà về. Đó là lệnh Shinsui Kyuuyo (Tân thủy cấp dử) năm Tenpô.
Tuy nhiên, họ chỉ ngừng lại ở đó chứ không có chính sách khai phóng nào khác.
Năm 1844 (Kôka nguyên niên), quốc vương Hà Lan Guillaume II (1702-1849) có gửi một bức thư với lời lẽ nhẹ nhàng cho phía Nhật khuyên hãy suy nghĩ về tình hình quốc tế mà chấp nhận mở cửa thông thương. Thế nhưng thái độ của mạc phủ vẫn không thay đổi.
Hai năm sau, 1846 (Kôka 3), viên Tư lệnh hạm đội Đông Ấn Độ của Hoa Kỳ là James Biddle (1783-1848) đưa 2 chiếc thuyền buồm đến Uraga, yêu cầu mạc phủ mở cửa nhưng vẫn bị cự tuyệt. Chỉ có một người đã có thể đập tan thái độ cứng rắn ngoan cường của mạc phủ - chính là người mà ai trong chúng ta cũng đều biết - một Tư lệnh khác của hạm đội Đông Ấn Độ, Matthew Calbraith Perry (1794-1858).
Nói về lý do người Mỹ đòi mạc phủ mở cửa thì chưa hẳn lúc đó họ đã có chủ đích lấy nước này làm thuộc địa, mà bản tâm có lẽ chỉ muốn Nhật Bản cho phép những tàu mậu dịch với nhà Thanh (lúc này đã khá phát triển) và những tàu săn cá voi của họ ghé lại các hải cảng Nhật. Lúc này, Mỹ đã phái rất nhiều tàu săn cá voi đi khắp các vùng biển của Thái Bình Dương để lấy dầu cá. Dầu cá bấy giờ được họ sử dụng như nhiên liệu để đốt và thắp đèn. Đó cũng là thời điểm ra đời ( 1851) của câu chuyện về cuộc chiến đấu của thuyền trưởng Achab của chiếc Pequod và con cá voi trắng khổng lồ Moby Dick mà nhà văn Herman Melville đã miêu tả rất sống động. Tác giả đã viết một câu hầu như là tiên tri:
“Nhật Bản, cái nước đóng kín cửa khóa hai vòng kia, nếu một ngày nào phải tỏ ra hiếu khách, đó cũng là nhờ có những con tàu săn cá voi như chúng ta. Và chuyện như thế đang sắp sửa được thực hiện”[1]
Trong giai đoạn này, cuộc cách mạng kỹ nghệ cũng bùng lên ở Mỹ và những người lao động phải tiếp tục sản xuất các thương phẩm đến khuya nên cần đèn để soi sáng. Các thương phẩm làm ra như vậy một phần sẽ được các đoàn tàu chở đi, vượt Thái Bình Dương bao la để đem bán tận bên Trung Quốc của nhà Thanh. Do đó mà bằng mọi cách, chính quyền Mỹ mong sao có những hải cảng làm trạm nghỉ dọc đường cho đoàn tàu buôn của họ nên thúc bách Nhật phải mở cửa.
1.2 Chiến thuyền Perry đến Nhật và việc ký kết hiệp ước thân thiện Nhật Mỹ:
Taihei no nemuri wo samasu Jôkisen
Tatta shihai de yoru mo nemurezu
Hai câu vè nói trên có đăng lại trong sách giáo khoa nên ở Nhật, ai cũng biết. Đó là hai câu nói cười cợt mà người đương thời đặt ra nhân việc pháo thuyền của Perry đến Nhật.
Tại sao lại bảo cười cợt? Thật ra, Jôkisen (Thượng Hỷ Soạn) là tên của một thương hiệu về trà nổi tiếng là ngon, cho nên đại ý câu vè là “Uống xong 4 tách trà Jôkisen thì mắt tỉnh rụi, hết cả buồn ngủ”. Thế nhưng trong thi ca Nhật lại có hình thức tu từ tên là kakekotoba, nôm na là một chữ dùng cho hai hay nhiều nghĩa. Câu vè trên còn có thể dịch là “Chỉ cần có 4 chiếc thuyền chạy bằng hơi nước của Perry mà dân chúng cả nước Nhật đã rơi vào cảnh hoảng loạn, đêm lo đến mất ngủ” (nemurezu). Từ Jôkisen (Chưng khí thuyền) cũng có thể hiểu là tàu chạy bằng hơi nước vậy.
Những con tàu đen (kurofune) theo cách nhìn đương thời (1854)
Thế nhưng nghe thế mà bảo rằng lúc hạm đội của Perry đến Uraga, người Nhật sợ hãi, bỏ chạy tán loạn thì không đúng sự thật. Dĩ nhiên cũng có kẻ hoảng hốt nhưng người thời ấy phần lớn tỏ ra rất hiếu kỳ, lắm kẻ còn rủ nhau ra bờ biển để xem cho được hình thù chiến thuyền của Perry nó ra làm sao. Người ta kể lại rằng trong những quán nước chè bên bờ biển, khách khứa tụ tập để xem chiến thuyền không phải là ít.
Trong bọn họ, còn có những kẻ dám cưỡi thuyền con xáp lại tàu Mỹ nữa kia. Có lẽ thời đó, tàu ngoại quốc qua lại vùng biển Nhật Bản cũng không hiếm nên người Nhật đâm ra dạn dĩ. Họ không xem việc Perry đem hạm đội đến là một tin chấn động như cách chúng ta thường tưởng tượng.
Thế nhưng Perry là một quân nhân có thái độ cứng rắn, bức hiếp. Ông đến Nhật là để trao cho chính quyền quốc thư của Tổng thống Mỹ Millard Fillmore ( 1800-1874, tổng thống thứ 13, tại chức 1850-53) đòi Nhật phải mở cửa thông thương. Người thời đó kể lại rằng các khẩu đại pháo của 4 chiến thuyền màu đen đều chĩa về phía Edo
Trước đe dọa này, các nhà lãnh đạo mạc phủ lo sợ không biết phải làm sao. Họ đành dùng kế hoãn binh để tránh hiểm họa trước mắt: “Các ông cứ về đi cái đã, hẹn đến sang năm chúng tôi sẽ trả lời!”. Perry đồng ý đưa thuyền về nhưng khi ông ta vừa đi, lại có sứ giả của Nga là Đề đốc Putyaacutetin (Evfmij Vasalievich, 1803-1883)[2] đến Nagasaki và cũng đưa ra đòi hỏi tương tự như của Perry. Trước nguy cơ tiếp nối như thế, thử xem mạc phủ đã động tĩnh như thế nào?
Thực ra, phản ứng của mạc phủ đã làm ta ngạc nhiên không ít.
Chức Rôjuu shuza (Lão trung thủ tọa) đứng đầu Mạc phủ Edo lúc đó tên là Abe Masahiro (A Bộ Chính Hoằng, 1819-1857) đã hỏi ý kiến mọi người nghĩa là không riêng gì các daimyô (Lãnh chúa địa phương) và các mạc thần mà còn mở rộng phạm vi trưng cầu ý kiến rộng rãi. Việc ấy có tiếng vang rất lớn. Nhiều bức thư bày tỏ ý kiến đã được đạo đạt đến mạc phủ. Người ta còn giữ lại được 250 bức thư trả lời của các daimyô, 83 đến từ các cận thần của Shôgun, 22 từ các nho gia và 9 từ các người khác. Tuy nhiên đừng nghĩ đây là một thứ Hội nghị Diên Hồng. Các phiên như Mito và Chôshuu chủ trương đừng khoan nhượng, một số đông cho rằng phải tránh chiến tranh nhưng trong các thư trả lời cũng có nhiều ý kiến chẳng đáng để ý vì tỏ ra không nắm vấn dề.
Để đối phó với nguy cơ chung, Abe đã áp dụng “thể chế hiệp lực giữa mọi thành phần trong nước” (gọi là kyokoku icchi taisei = cử quốc nhất trí thể chế) chứ thực ra cho đến lúc đó, các daimyô gọi là tozama chỉ đứng vòng ngoài, họ chẳng bao giờ được hỏi ý kiến về quốc sự, đừng nói chi giai cấp bình dân. Những người này cho đến lúc đó tuyệt đối không có quyền chõ miệng vào chính sách nhà nước.
Dù sao, việc Abe nhìn nhận tiếng nói của người dân đã dẫn đến việc người dân ý thức được khả năng chính trị của mình. Từ đó đã phôi thai phong trào vận động gọi là “tôn quân nhương di” (sonnô jôi = phò vua đuổi giặc ngoài) và “thảo mạc” (tôbaku = đánh đuổi mạc phủ). Tất cả sẽ đưa đến sự băng hoại của chính quyền vũ gia về sau.
Nhân Abe cũng có báo cáo mọi việc đã xảy ra cho triều đình cho nên kết quả là địa vị và quyền uy của triều đình được ông vô tình đưa lên cao hơn. Điều này cũng là một nguyên nhân quan trọng đã khiến cho thế lực của mạc phủ suy yếu đi.
Xin trở lại với câu chuyện về Đề đốc Perry.
Đề đốc Matthew Calbraith Perry (1794-1858)
Ông thuộc hải quân Mỹ, sinh năm 1794 trong một gia đình mà cha và anh đều là quân nhân ở Newport, bang Massachussetts. Từng là sĩ quan đóng ở Địa Trung Hải và làm việc ở công binh xưởng Hải quân. Năm 1837 lần đầu tiên Mỹ đóng được chiến thuyền chạy bằng hơi nước và ông trở thành người hạm trưởng tàu hơi nước đầu tiên.Tháng 3 năm 1852, được Tổng thống Fillmore cử làm Tư lệnh hạm đội vùng Đông Ấn Độ kiêm đặc sứ ở Nhật.Vào ngày lịch sử 07/08/1853, ông đã đưa đoàn tàu đen 4 chiếc đến Uraga (Nhật) trình quốc thư. Ngày 13/02/1854, y hẹn, ông đã trở lại cảng Yokosuka với đoàn thuyền 7 chiếc và xâm nhập vào sâu trong vịnh Edo, có ý dùng võ lực thật sự nếu thương thuyết không xong. Rốt cuộc Perry đã thành công. Mạc phủ bằng lòng tổ chức cuộc thương lượng lần đầu tiên ở Yokohama. Perry tỏ ra rất trì chí. Sau khi phá được nhiều rào cản do những nhân vật cấp dưới đặt ra để ngăn chặn, ông nói chuyện thẳng với chức Rôchuu (Lão trung) là Abe Masahiro và đến ngày 31 tháng 3 thì ký được hiệp ước hòa thân.
Sau khi về nước nghỉ ngơi, ông có viết ký sự gồm 3 cuốn về chuyến viễn dương lịch sử đó để tường trình cho Quốc hội. Mất ở New York vì bệnh gan tái phát vào năm 1858. Chính ra ông đã đi vào lịch sử một cách tình cờ. Trước tiên, Đề đốc Mỹ James Biddle mới là người đem hai chiến thuyền vào vịnh Edo đòi Nhật “khai cảng” đầu tiên (1846) nhưng lúc ấy tình thế hãy còn chưa chín muồi nên Biddle phải trở lui tay trắng. Còn như sứ thần người Nga Puyaacutetin (Putiatine) thì khi đến Nagasaki năm 1853, bị chậm chân mất một chút vì. lúc ấy Perry đã có mặt ở Uraga,
Như vừa nói trong phần tiểu truyện, tháng 1 (lịch Nhật) năm 1854 (Ansei nguyên niên) rời cảng Norfolk, đi vòng rất xa nhưng vẫn đúng hẹn, Perry lại đến Nhật. Lần này, ông mang 7 chiếc chiến thuyền nghĩa là nhiều hơn so với lần trước. Và lần này ông trở lại khá nhanh chóng vì mới rời Nhật cách đó có nửa năm. Có thể vì ông sợ Puyaacutetin của Nga phổng tay trước.
Sau khi đặt chân lên Yokohama, thái độ của Perry trước sau vẫn cứng rắn tuy lời lẽ trong công hàm ngoại giao của Tổng thống Fillmore rất lịch sự. Mạc phủ quá kẹt đành phải chấp thuận đòi hỏi mở cửa hải khẩu của Mỹ. Hiệp ước thân thiện (tiếng Nhật gọi là hòa thân = washin) Nhật Mỹ như thế đã được ký kết ngày 31 tháng 3 năm 1854.
Hiệp ước này đã được ký ở một nơi gần trạm Kanagawa trên đường Tôkaidô, nay có tên là Yokohama. Tên của nó là Điều ước Kanagawa (Kanagawa Jôyaku) là vì cớ ấy.
Những bước tiến đến việc mở cửa biển
1853 |
Đoàn thuyền Perry đến Nhật |
Hẹn trở lại |
1854 |
Đoàn thuyền Perry trở lại. Ký kết hiệp ước thân thiện Nhật Mỹ |
Mở cửa |
1856 |
Tổng lãnh sự Harris phó nhậm |
Đàm phán thông thương |
1858 |
Ký kết hiệp ước giao hiếu thông thương Nhật Mỹ |
Thành quả |
Nội dung của Hiệp ước thân thiện năm 1854, ngoài những lời hoa mỹ, có 4 điều khoản chính:
Điều thứ tư là một điều khoản có tính cách một chiều. Còn mấy chữ “quyền quốc gia ưu đãi đặc biệt (saikeikoku taiguu = tối huệ quốc đãi ngộ = the most favored nation) thì nội dung cụ thể như sau:
Nhật Bản, theo ý nghĩa của điều khoản này, sẽ dành cho Mỹ quyền lợi đặc biệt so với các nước khác. Cũng hàm ý khi Nhật Bản ký hiệp ước với các nước khác thì sẽ không cho họ có những ưu đãi vượt lên trên những gì đã chấp thuận cho người Mỹ. Nếu trong những hiệp ước ký với người khác về sau có những gì ưu đãi hơn nội dung của Hiệp ước thân thiện Nhật Mỹ thì tức khắc nó sẽ tự động trở thành điều khoản áp dụng được cho hiệp ước Nhật Mỹ.
Chúng ta vẫn thường thấy những ví dụ cụ thể như vậy trong cuộc sống hằng ngày. Chẳng hạn như hiện tượng tiền mướn điện thoại cầm tay càng ngày càng rẻ đi. Với giả thuyết đó, tiền người ký khế ước mướn máy một năm trước phải trả lúc nào cũng cao hơn người ký kết về sau. Thế nhưng trong trường hợp “ chế độ đặc biệt ưu đãi” thì người mướn điện thoại khi trước sẽ tự động được hưởng sự giảm giá, nghĩa là từ đó sẽ trả cùng một món tiền mướn như người ký khế ước sau này. Hoặc giả, người ấy còn được hãng cho mướn điện thoại bồi hoàn lại phần mà mình đã trả trội khi trước nữa. Như vậy, trong trường hợp nào, Mỹ đều có thể nắm tất cả mọi mối lợi.
Sở dĩ Mỹ đòi hỏi điều khoản đó vì họ lo rằng khi Anh, Pháp và những nước khác lần lượt kéo đến thì họ sẽ mất đi lợi thế. Có nhiều khả năng mạc phủ là sẽ ký những điều ước với nội dung thuận lợi hơn cho những nước này. Tuy nhiên, một khi đã nắm được mấy chữ “tối huệ quốc” rồi thì họ không còn phải lo lắng mai sau sẽ chịu thiệt thòi.
Hiệp ước thân thiện ấy, sau này Nhật cũng đã ký với Anh, Nga, Hà Lan. Thế nhưng Hiệp ước họ ký với Nga qua Puyaacutetin thì nội dung có hơi khác một chút bởi vì nó có bao hàm một điều khoản nói về việc phân định biên giới.
Theo đó, phần đất ở phương bắc được qui định là lãnh thổ của Nhật kể từ đảo Etorofu (Trạch Tróc) trở xuống phía Nam, còn từ đảo Uruppu (Đắc Phủ) trở lên phiá bắc là lãnh thổ của Nga. Riêng đảo Karafuto (Hoa Thái) là nơi dân chúng hai nước có thể sống tạp cư. Nơi đây, hai bên không phân biên giới và dân chúng có thể tự do chọn nơi sinh sống.
Ngoài ra, thêm một điểm nữa là người Nga được ghé Shimoda, Hakodate cũng như một cảng thứ ba là Nagasaki.
241
2317
21989
221500
130677
114574443