Những góc nhìn Văn hoá

Kiều Thanh Quế với công việc dịch thuật[2]

PHIÊN DỊCH CŨNG LÀ CÁCH ĐÀO LUYỆN VĂN CHƯƠNG

Nói lại và nói thêm sau bài Dịch thuật:Nhìn qua sự nghiệp dịch thuật ở nước ta – phương pháp dịch sách của người Tàu – sách dịch rất cần ích cho việc trứ thuật.

Phê bình văn học ở xứ ta phát khởi chậm. Nhưng văn dịch thì có cũng nhiều trong văn học quốc ngữ! Các bậc túc nho, khi văn học hãy còn phôi thai, đã bắt đầu dịch truyện Tàu, tiểu thuyết Tàu rồi – nhất là đọc diễm tình tiểu thuyết của Từ Trẩm Á (và những tiểu thuyết Kiếm hiệp)

Dịch Hán văn sâu xuất nhất có ông Phan Kế Bính, đã diễn quốc ca: Việt Nam điểm lê toát yếu của Tiệp Đỗ, Đại Nam nhất thống chí của Hiệp Cao, Việt Nam khai quốc truyện của Nguyễn Bảng Trung, Đại Nam liệt truyện biênĐại Nam liệt truyện chánh biên (sơ thảo) của Quốc sử quán.

Dịch văn Tây trước nhất là hai ông Nguyễn Văn Vĩnh – Phạm Quỳnh. Lối văn dịch thanh thoát của hai vị này, mãi đến nay, người trong nước vẫn còn hoanh nghinh.

Ông Phạm Quỳnh dịch các đoản thiên của Georges Courteline của Guy de maupassant, của Pierre Loti (Ba bản dịch này trước đăng Nam phong tạp chí, sau ra thành sách với phần phụ thêm của quyển Khảo về tiểu thuyết), mà phàm thức giả, ai đã trải qua, tuy chẳng công nhận là đúng, theo mạch văn của nguyên tác, nhưng vẫn chịu là có “lưu thủy hành vân” (bốn chữ này mượn cuả Phạm Quỳnh)

Ông Nguyễn Văn Vĩnh thì có một sự nghiệp dịch thuật kể cũng to: dịch truyện nhi đồng, truyện phiêu lưu, truyện truyền kỳ trong sách Hồng (Lives roses) của nước Pháp; dịch tiểu thuyết của Fénélon, Balzac, A.Dumas, V.Hugo, dịch ngụ ngôn La Fontaine, hài kịch Molière.

Dịch sách Tây, ông Vĩnh khi đem in, thường để nguyên tác ngay bên bản quốc văn. Những kẻ dã tâm cho rằng làm thế chỉ tổ phí giấy mực và hơi tự thị. Nhưng chúng tôi lại nghĩ: làm thế là dịch giả thành thật với mình, với nghệ thuật mình, để cho độc giả xem qua dễ bề phán xét.

Trong “Lược khảo về sự tiến hóa của quốc văn trong lối viết tiểu thuyết” (Xem Nam phong tạp chí, Aout – Septembre 1932), bạn Trúc Hà viết mấy lời khen tặng ông Nguyễn Văn Vĩnh, tưởng cũng không phải là quá đáng:

“Một nhà văn sĩ nước Pologne, ông Zalenski Thadée nhất danh là Boy, trong buổi nhàn rỗi, dịch luôn một trăm bộ sách cổ điển của nước Pháp, riêng về hài kịch Molière và tiểu thuyết Balzac, ông dịch tất cả. Thật là cái hân hạnh đặc biệt cho dân Pologne vậy. Cái hân hạnh ấy, dân ta cũng được hưởng vài phần, do một ông Boy thứ hai ở nước ta làm ra. Ông Boy thứ hai, ông ấy, tôi muốn nói ông Nguyễn Văn Vĩnh.

So với số sách của Zalenski Thadée, ông Nguyễn Văn Vĩnh chưa bằng, nhưng kể riêng sự nghiệp dịch thuật của ông từ trước đến nay cũng đã khá nhiều, lại từ nay về sau, biết đâu cái tương lai của ông nó chẳng đem cho ta nhiều món quà nữa”...

Nhưng tấm lòng mong mỏi của bạn Trúc Hà, than ôi! Ông Nguyễn Văn Vĩnh đành phụ: vì sanh kế, sang Lào tìm vàng rồi qua đời luôn ở đó, kể từ 2 Mai 1936, ông Nguyễn Văn Vĩnh đã không còn nữa!...

Thật là một đại tang cho văn giới, cho phong trào dịch thuật nước nhà!

Ông Nguyễn Văn Vĩnh chết. Nhưng chẳng vì đó mà văn dịch chết ở nước ta. Hai cây bút Đào Hùng, Nguyễn Đỗ Mục, diễn quốc âm Sans famille (Vô gia đình) của Hector Malot, cũng có được một nghệ thuật dịch văn đáng để ý.

Kế đó, ông Dương Phượng Dực dịch Les mystères de Paris (Những chuyện bí mật ở thành Ba-lê) của Engène Sue, đăng Tiểu thuyết thứ bảy.

Ông Đỗ Đinh dịch La porte étroite (Tiếng đoạn trường) của André Gide.

Một ít nhà văn trong nhóm Tự Lực: Các ông Khái Hưng, Thế Lữ, Thạch Lam dịch đăng Ngày nay những truyện ngắn của văn sĩ Âu Tây cận kim.

Ông Huyền Hà dịch đăng Trung Bắc chủ nhật tiểu thuyết của S. Zweig, W. Somerset Maugham.

Các ông Thanh Châu, Như Phong, Văn Thu, Lan Khai, trong nhóm Tân Dân, diễn quốc âm tiểu thuyết của A. Dumas, Stevenson Zweig.

Riêng cái trung thiên tiểu thuyết Bức thư của người không quen của Zweig, văn học quốc ngữ có tới hai bản dịch: bản của Lan Khai và bản Huyền Hà đăng tải trên Trung Bắc chủ nhật.

Ông Vũ Ngọc Phan dịch đăng báo truyền kỳ quái của Hopmann và vừa góp cho ra thành sách quyển Lâu đài họ Ha.

Về bộ truyện khổng lồ của Ả Rập Một ngàn lẻ một đêm, văn học quốc ngữ cũng đã có đến hai ba bản dịch, do Phổ thông bán nguyệt san ấn hành.

Còn bộ Liêu trai chí dị danh tiếng của Tàu cũng được một vài danh bút nước nhà bỏ công diễn quốc âm. Nhưng bản quốc văn giá trị nhất là bản Tản Đà. Ngoài việc dịch Liêu trai, Tản Đà còn có dịch Đường Thi, kinh Thi.

Dịch Đường Thi đó cũng là công việc của ông Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục năm xưa trên mặt báo Nam Phong (xem lại bài của Hoa Bằng viết về cụ Tùng Vân trong Tri tân số 46).

Gần đây, ông Ngô Tất Tố dịch và bình giảng thi Đường cho ra thành sách: Đường thi rất giá trị. Ngoài ra, Ngô quân cũng có dịch thơ xưa hồi mấy triều Lê, Mạc, Tây Sơn trong bộ Thi văn bình chú.

Diễn quốc âm Tứ truyện của Thánh hiền, ta được biết ông Trương Vĩnh Ký dịch Trung dung, Đại học; ông Tản Đà dịch Đại học, hai ông Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến và Tùng Vân, Nguyễn Đôn Phục dịch Mạnh tử; các ông Lương Văn Can, Dương Bá Trạc đều có dịch Luận ngữ.

*

*   *

Từng ấy công trình dịch thuật tuy nhiên, vẫn chưa thấm vào đâu giữa lúc tủ sách dịch của văn học quốc ngữ hãy còn kém tủ sách dịch ở các lân bang nhiều lắm – như ở Tàu, Nhật chẳng hạn.

Ở Tàu, Nhật, phàm ai tốt nghiệp được khoa gì; sở đắc được nền học thuật nào của Âu Tây, đều có bổn phận phải đem diễn dịch ra tất cả cho quốc dân đồng lãm.

Cứ xem quyển Đồ thư mục lục mỗi năm của hiệu sách Thương Vụ ấn quán ở Thượng Hải, ta đủ rõ công trình dịch thuật của lân bang ta to tát là dường nào!... Nước người ta được nhiều sách dịch, dân trí người ta mới mở mang, văn giới người ta mới có nhiều danh sĩ.

Biết bao danh sĩ Tàu, Nhật, sở dĩ quảng kiến đa văn được, là nhờ học ở sách dịch. Lương Khải Siêu, một danh sĩ Tàu hồi Trung Hoa dân quốc thành lập chẳng hạn, nhờ học ở sách dịch mà uyên bác được tất cả uyên nguyên học phái: triết học, khoa học, sử học… từ thượng cổ trải qua trung cổ đến tân kim thời đại, từ Hy Lạp trải qua La Mã đến Anh, Pháp, Đức, Mỹ; thông hiểu được thuyết thực nghiệm của Bacon, thuyết tồn nghị của Descartes thuyết xã ước của Rousseau, thuyết chánh trị, tạm quyền của Montesquien, thuyết nguyên phú của Smith, thuyết quốc gia của Bluntchi, thuyết thiên diễn của Darwin, thuyết triết học điều hòa của Hant, thuyết lợi lạc của Bentham.

Đọc Ẩm băng văn tập, ta tất rõ tài hoa của tác giả nó, Lương Khải Siêu, sâu rộng quán xuyến là dường nào… Ngay như học hỏi về một thuyết lợi lạc (l’arithmétique des plaisirs) của Bentham, Lương cũng cho biết đã phải tham khảo qua lắm sách dịch:

Lập pháp luận cương,Điền Khẩu Mão Cát dịch.

Lợi học chánh tây,Lục Úc Tống Quang dịch

Chánh trị chân luận,Đằng Điền Tứ Lang dịch

Dân pháp luận cương,Thà Lễ Thi dịch

Lý học duyên cách sử, Trung Gian Đốc Giới dịch.

Thuyết luân lý của phái lọ, Trung Gian Đốc Giới dịch.

Luân lý học thuyết phê bình,Biến Tri Xuân dịch.

Lược truyện các nhà triết học Tây phương, Điền Trung Thái Mao dịch.

Lược truyền các nhà chánh trị thái tây, Bên Sơn Đằng Thứ dịch.

Xem đó, ta đủ rõ sách dịch có ích cho việc trứ thuật là dường nào. “Vậy mong trong.. dịch giới ở ta, ai có đủ tài lược nên ráng sức làm việc để giới thiệu cho bà con những tư tưởng học thuật cổ, kim, đông, tây, đồng thời thêm vào kho tinh thần tri thức nước nhà. Nếu ai không đủ tư cách một nhà phiên dịch thì đừng háo cái hư danh, tham cái cân lợi mà phạm vào việc gạt mình, lừa người” (Hoa Bằng: “Cần phải dịch nhiều những sách hay của cổ, kim đông, tây để cống hiến cho đồng bào”. Tri tân, số 43)...

“Nước ta hiện nay biết phiên dịch, có tài phiên dịch còn thấy ít lắm. Bởi vậy tôi nói phiên dịch cũng phải có cơ sở để mà tìm phương pháp và… đốc lẫn nhau. Đây tôi đem phương pháp dịch cũ của người Tàu vẫn dùng, xin giải thích và hiểu ra như sau này:

“Phương pháp ấy cần ở ba phép là: tín, nhã và đạt.

(a) Tín tức là đúng. Phải từng chữ, đủ từng ý và hệt giọng của hạng người nào về thời đại nào. Song như thế thì đúng nhưng đối với văn lý nước mình hẫng lời hay là tối nghĩa, thì lại thêm bớt vào một hai tiếng phụ cho đầy đủ và sáng nghĩa ra hoặc dịch đảo một câu hoặc một mạch lại cho xuôi mà vẫn không thiếu lời thiếu ý gì.

(b) Nhã là lời điền nhã êm. Có khi dịch ra tiếng ấy thì đúng nhưng theo văn ý nước mình thì lại ra thô, thì lại phải dùng khác cùng tính cách ấy, mà có sự hơn thay vào. Lại phải tùy từng văn loại để dùng tiếng của mình thay vào cho đối chọi. Khi nào đông đủ thì ghép tiếng mới phải chua cho rõ ràng. Khi tiếng thường không đủ phải tìm mới dịch được, thì phải đặt ra âm lệ nói rõ về duyên cớ ấy.

Đạt là đạt được cái ý ra thì không câu nệ phải đúng. Song vậy khó lắm, hiếm có người được. Phép này là hòa tán cả… đoạn văn vào tâm mình, rồi rút lấy thần của nó ra, thay vào bằng những điển cố, thành ngữ và văn thể nước mình, lời lẽ giọng điệu đều diễn như của nước mình, mà ý thì vẫn của người ta không khác tí nào.

Phép này dễ sinh nguy hiểm là sai lạc mất bản ý đi mà không phải là dịch ở đấy ra nữa. Ngày xưa có Cưu ma la thập dịch Phật ra Hán văn, ngày nay thì Êm phục (Nghiêm Phục – NHS chú) dịch sách Thiên diễn của Anh văn ra Hán văn (sách này cũng có một bản Pháp văn: L’évolation des espèces), dùng được phép này gọi là “đạt”.

Nhưng hai nhà đều khuyên người ta không nên bắt chước. Nghĩa là không có cái văn tài như… vậy thì là một sự làm bậy. Tuy vậy, đây là phân loại mà nói ba phép tín nhã và đạt dùng, vào những khi đặc biệt đó thôi. Thực ra thì phàm… những sách lúc nào cũng phải gồm đủ ba phép ấy. Đã tín và nhã rồi, nhưng cũng phải có đạt. Mà đạt đó cũng phải có tínnhã mới được. Xem đó thì những sách Tây đã dịch ra Hán văn, ta cũng có thể xem mà dịch lại được, không sợ lầm (Nhân câu này của ông Nguyễn Trọng Thuật ta có thể viết: “… xem đó thì những sách ngoại quốc (Anh, Nga, Đức…) dịch ra Pháp văn rồi, ta cũng có thể chọn mà dịch lại đặng, không sợ lầm).

Còn công việc soạn thuật thì còn là theo vào trong chỗ căn cứ tư tưởng của người ta đó, mà diễn, phê bình, hoặc khảo cứu phát minh nghĩa khác ra cho mới. Nghĩa là làm cho những cái tưởng căn bản ấy được thịnh hành ra (Nguyễn Trọng Thuật: “Chương trình cầu học của người Việt Nam hiện nay nên thế nào?” (Nam phong tạp chí, số 191 - Décembre 1933)...

Xem mấy câu chót này, ta thấy Nguyễn Trọng Thuật cũng công tâm việc soạn thuật cần đến “chỗ buôn bán của người ta đó” – tức là phiên dịch vậy!

Nhưng chẳng những sách dịch cần cho việc soạn thuật thôi… mà cả đến sự phiên dịch nó cũng giúp ích được cho việc này nữa – nhất là giúp ích cho sự hành văn, trong lúc trứ thư, lập ngôn.

Thật vậy “dịch văn ngoại quốc cũng như đọc và thưởng thức những bản dịch ấy, có thể coi là một phương tiện trực tiếp để đào luyện văn chương.

Sự để tâm thu gọn lời văn, sự bắt buộc phải lựa chọn tiếng dùng phải thay đổi điệu văn, phải uốn nắn hình thể lối văn của mình theo hình thể câu văn của người khác, bằng ấy điều khiến cho sự dịch văn là một cách linh hoạt để học tập nghệ thuật viết văn.

Sự cố gắng liên tiếp để vượt qua nỗi khó khăn về cách phô diễn đó, không những chỉ là một công việc có ích cho độc giả, mà đến ngay sự đọc văn bản dịch cũng có thể là một cách tập văn quí báu cho hết mọi người”...

Văn sĩ Rivarol cũng nghĩ thế, ông nói:

“Văn ngữ nước Pháp sở dĩ hưởng được sự hoàn toàn chỉ vì đã sang các nước lân bang để trao đổi và để nhận thức những chân giá trị của mình; đã lục lọi trong kho tàng La Mã; Hy Lạp; và vì đã tìm những giới hạn nó phân biệt tiếng Pháp với tiếng các nước ngoài. Duy chỉ có sự dịch văn là giúp cho tiếng Pháp những ích lợi đó. Một thứ văn ngoại quốc khi đưa ra toàn những cái khó rất kỳ thú cho một nhà dịch giả có tài, thì khác nào như thử thách nhà dịch giả về đủ các chiều vậy, người dịch văn biết ngay được tiếng nước mình có thể đạt được tới dân, hoặc những cái khó nào không thể đạt được; người ấy dung mất hết những của sở hữu, nhưng người ấy tăng thêm lực lượng cho mình, nhất là khi người ấy dịch những tác phẩm của trí tưởng tượng, những tác phẩm này ruồng pha những cái khuôn của phép hành văn theo mẹo luật và khiến cho văn ngữ thêm cảnh” (Rivarol, lời tựa cuốn L’ejer).

Hết thảy các văn hào thi bá nước Pháp, từ Ronsard đến Chaleaubriand đều khuyên nên lấy sự dịch văn làm một phương tiện tốt nhất để luyện tập ngòi bút.

“Phần lớn nhất nhờ ở sự dịch các văn gia cổ điển mà Malherbe có thể đem sự đúng mẫu mực và vẻ thanh lịch vào cho văn ngữ nước ta” (lời Victor Vaillant).

“Malherbe nhận rằng bao nhiêu công phu và bao nhiêu sức cố gắng vất vả của tinh thần đã đem ra để phóng đại những vẻ đẹp của một văn hào cổ điển, ấy là bấy nhiêu phép kỳ diệu để uốn nắn ngòi bút và để làm tươi đẹp cho lời văn. Trả lời những người hỏi ông rằng muốn viết văn thì phải theo những cách thức nào, Malherbe bảo: nên đọc một bản văn ông đã dịch” (Albert Albalat: “Comment on devient écrivain”, Bản quốc văn của Thạch Lam).

Nhà dịch sách Nguyễn Văn Vĩnh lúc sanh tiền thường bảo: “Nước ta sau này hay dở đều nhờ ở chữ quốc ngữ”. Chúng tôi lấy làm lạ sao dịch giả ấy lại không bảo: “Nước ta sau này hay dở thế nào đều nhờ ở sách dịch; và sự phiên dịch nó là nòng cốt khả dĩ đưa văn học quốc ngữ đến cõi hoàn mỹ” hoặc tuyên bố to lên rằng:

Sách dịch muôn năm!

Văn học quốc ngữ muôn năm!

 Tri Tân, số 49, tháng 6-1942.

In lại trong Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam.

NXB Thanh niên, H., 2009.

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114574159

Hôm nay

274

Hôm qua

2322

Tuần này

21705

Tháng này

221216

Tháng qua

130677

Tất cả

114574159