Khi Đề đốc Perry đưa hạm đội đến, người đang điều khiển chính trị mạc phủ là Abe Masahiro (An Bộ, Chính Hoằng, 1819-1857).Trước quốc nạn là việc người ngoại quốc đòi mở cửa thông thương, ông đã cương quyết thi hành một chính sách cải cách. Chính sách cải cách chính trị mạc phủ mang tên Ansei kaikaku (Cuộc cải cách năm An Chính, 1855-1860).

Abe Masahiro (1819-1857)
Điểm then chốt của cuộc cải cách là tăng thêm sức mạnh quân sự.Tưởng tượng đến khả năng xung đột với nước ngoài, Abe nghĩ đến trước tiên việc xây pháo đài để phòng thủ vùng vịnh Edo. Đó là những pháo đài được xây dựng trên một số hòn đảo nhân tạo trên mặt biển. Họ gọi đó là những “ụ đặt trọng pháo” (daiba = đài trường) Ngày nay ở thành phố Tôkyô vẫn còn di tích các nơi gọi là daiba ấy và Daiba kôen (Công viên Daiba) trở thành một địa điểm du lịch và sinh hoạt của người dân thủ đô.
Việc làm thứ hai của Abe bãi bỏ lệnh cấm việc xây những thuyền lớn vốn đã bị mạc phủ qui định trong một thời gian dài. Nếu chỉ trang bị bằng thuyền nhỏ, Nhật Bản không thể nào đương đầu nổi với hạm đội vỏ bọc thép của ngoại quốc, do đó các phiên trấn mới bắt đầu đóng thuyền lớn (taisen = đại thuyền).Để có người biết sử dụng tàu thủy chạy bằng hơi nước, một trường dạy lái tàu đã được lập ra ở Nagasaki.Trường có tên Sở tập luyện của hải quân (Kaigun denshuusho = Hải quân truyền tập sở), mời những sĩ quan ưu tú của hải quân Hà Lan đến giảng dạy.
Trước đây có lần nhắc đến việc người Nhật gửi sứ thần Shinmi Masaoki sang Mỹ nhân việc phê chuẩn Hiệp ước giao hiếu và thông thương. Đó là chuyện xảy ra vào năm 1866 (Mannen nguyên niên) và đã có một chiếc tàu Nhật bồi tống sứ giả, đó là chiếc Kanrinmaru do Katsu Kaishuu (Thắng, Hải Chu, tức Katsu Yoshikuni, còn gọi là Rintarô) làm hạm trưởng và đã thành công trong việc vượt Thái Bình Dương để đến đất Mỹ. Kaishuu là sinh viên tốt nghiệp trường này vậy. Sau ông hãy còn có những đàn em ưu tú như Enomoto Takeaki (“Hạ” Mộc, Vũ Dương, 1836-1908), một sĩ quan hải quân cao cấp của mạc phủ một thời cố thủ trong thành năm góc (Goryôkaku = Ngũ Lăng Quách) ở Hakodate để đối địch với lực lượng tôn vương.
Những sự kiện trọng yếu cuối đời Mạc phủ Edo
Thiên hoàng
|
Thời điểm
|
Sự kiện
|
Shôgun
Tokugawa
|
Kômei
(Hiếu Minh)
|
3/1854
|
Ký hiệp ước thân thiện Nhật Mỹ (Hiệp ước Kanagawa)
|
Iesada
(Gia Định, thứ 13)
|
|
7/1856
|
Tổng lãnh sự Mỹ Townsend Harris đến Nhật nhậm chức
|
|
|
2/1858
|
Hotta Masayoki bị triều đình từ chối chuẩn y hiệp ước
|
|
|
4/1858
|
Ii Naosuke được mời làm Tairô
|
|
|
6/1858
|
Hiệp ước giao hiếu thông thương Nhật Mỹ thành hình. Việc chỉ định người kế vị Shôgun trở thành một vấn đề.
|
|
|
9/1858
|
Vụ án đại ngục năm Ansei (kéo dài đến 1859)
|
|
|
1/1860
|
Andô Nobumasa trở thành Rôjuu
|
|
|
3/1860
|
Cuộc tập kích ngoài cổng Sakuradamon, ám sát đại thần Ii Naosuke
|
Iemochi
(Gia Mậu, thứ 14)
|
|
3 nhuận / 1860
|
Lệnh bắt buộc phải đưa 5 mặt hàng cơ bản về Edo (Gohin Edo kaisôrei)
|
|
|
10/1861
|
Quyết định gả công chúa Chikako cho Shôgun Iemochi
|
|
|
1/1862
|
Cuộc biến loạn ngoài cổng Sakashitamon, làm đại thần Ando Nobumasa bị thương.
|
|
|
5/1862
|
Lãnh chúa Shimadzu Hisamitsu yêu cầu thi hành cuộc cải cách năm Bunkyuu
|
|
|
8/1862
|
Sự kiện sát thương người Anh ở khu vực Namamugi (thuộc Yokohama)
|
|
|
4/1863
|
Mạc phủ định ngày 10 tháng 5 sẽ ra lệnh đánh đuổi người ngoại quốc (nhương di)
|
|
|
5/1863
|
Phiên Chôshuu (Trường Châu) pháo kích tàu ngoại quốc ở Shimonoseki (Hạ Quan, Mã Quan).
|
|
|
7/1863
|
Chiến tranh giửa phiên Satsuma và người Anh bùng nổ (Satsuei sensô).
|
|
|
8/1863
|
Chính biến ngày 18 tháng 8.
|
|
|
6/1864
|
Vụ tập kích phiên sĩ Chôshuu ở quán Ikedaya.
|
|
|
7/1864
|
Cuộc biến loạn ở Cấm môn (Kinmon tứcHamaguri Gomon)
|
|
|
8/1864
|
Cuộc chinh phạt phiên Chôshuu lần thứ nhất (cho đến tháng 12). Hạm đội bốn nước pháo kích Shimonoseki.
|
|
|
9/1865
|
Hạ chìếu chinh phạt Chôshuu lần thứ hai.
|
|
|
1/1866
|
Liên minh cuảa 2 phiên Satsuma-Chôshuu thành hình.
|
|
|
5/1866
|
Phê chuẩn ước thư cải cách thuế má.
|
|
|
6/1866
|
Cuộc chinh phạt Chôshuu lần thứ hai (đến cuối tháng 8)
|
|
|
12/1866
|
Shôgun Yoshinobu nhậm chức. Thiên hoàng Kômei (Keiô là niên hiệu của ông) băng hà.
|
Yoshinobu (KhánhHỷ, thứ 15)
|
Meiji (Minh Trị)
|
5/1867
|
Hạ chiếu mở cửa cảng Hyôgo
|
|
|
14/10/1867
|
Thiên hoàng hạ mật chiếu “thảo mạc” cho 2 phiên Satsuma và Chôshuu. Shôgun Yoshinobu dâng biểu xin trao trả chính quyền cho nhà vua (Đại chính phụng hoàn = Taisei hôkan).
|
|
|
12/1867
|
Bố cáo thiên hạ sắc lệnh phục hồi vương quyền (Ôsei fukko = Vương chính phục cổ). Hội nghị tiểu triều đình Kogosho (Tiểu Ngự Sở) xử lý số phận mạc phủ.
|
|
|
1/1868
|
Xung đột ở Toba và Fushimi. Chiến tranh Boshin (Mậu Thìn) bùng nổ.
|
|
Mạc phủ lại có chính sách mới là mở Kôbusho (Giảng võ sở) để dạy mạc thần không những đao thương kiếm kích mà cả pháo thuật và thao diễn quân sự kiểu Âu Mỹ. Họ mở Bansho shirabe (Man thư điều sở) để phiên dịch văn thư ngoại giao, cũng là nơi để dạy khoa học kỹ thuật phương tây, Lan học và Anh học.
Cải cách nói trên của mạc phủ đã ảnh hưởng mạnh đến các phiên trấn. Do đó, không thiếu chi những phiên bắt đầu đẩy mạnh việc chế tạo các khẩu trọng pháo, xây lò phản xạ (reberberatory furnace) và tăng cường sức mạnh quân sự của mình.
Cuộc cải cách năm Ansei còn có một sự kiện nổi bật nữa. Đó là việc cực lực thu dụng nhân tài. Abe Masahiro đã tìm ra và đề bạt những mạc thần có khả năng như Nagai Noayuki (Vĩnh Tĩnh, Thướng Chí), Iwase Tadanari (Nham Lại, Trung Chấn), Kawaji Toshiakira (Xuyên Lộ, Thánh Mô) vào các chức vụ quan trọng, mong sao đưa nước nhà thoát khỏi cảnh hiểm nghèo. Ngoài ra, ông còn mời lãnh chúa đời trước của phiên Mito (một thân phiên trong tam gia tức chỗ họ hàng ruột thịt của nhà chúa) là Tokugawa Nariaki (Đức Xuyên Tề Chiêu, 1800-1860) tham gia chính trị của mạc phủ. Ông cũng kêu gọi sự hiệp lực của lãnh chúa Echizen (cũng là thân phiên) là Matsudaira Yoshinaga (Tùng Bình, Vĩnh Khánh, 1828-1890), lãnh chúa phiên Uwajima (một tozama, ngoại phiên) là Date Munenari (Y Đạt, Tông Thành, 1818-1892), người nổi tiếng là một danh quân.
Tuy vậy, việc các lãnh chúa các thân phiên đứng ngoài hàng fudai (phổ đại, tổ tiên theo nhà chúa từ trước trận Sekigahara) và các lãnh chúa ngoại phiên (chỉ theo về từ sau trận ấy) là một điểm đáng lưu ý vì cho đến lúc đó, họ không có quyền phát ngôn. Điều này chứng tỏ những người này đã bắt đầu có sức mạnh chính trị thực sự.
Năm 1855 (Ansei 2), Abe bỗng nhiên nhường chức Rôjuu thứ nhất (thủ tọa) cho Hotta Masayoshi (Quật Điền Chính Mục, 1810-1864), rời khỏi chính trường và chỉ hai năm sau thì bị bệnh mà mất. Ông hãy còn trẻ, lúc ấy mới có 39 tuổi.

Hotta Masayoshi (1810-1864)
Như đã nói đến bên trên, Hotta là người không được triều đình chấp thuận ban sắc dụ để chuẩn y hiệp ước đã ký với liệt cường, cho nên phải mất chức.Thay thế ông thi hành mạc chính và ở ngôi Tairô (Đại lão), cao nhất trong hàng mạc thần là Ii Noasuke (Tỉnh Y, Trực Bật, 1815-1860).
Ông Ii đã xử lý một cách độc đoán hai vấn đề của lúc ấy. Một là ông đóng dấu vào Hiệp ước giao hiếu thông thương Nhật Mỹ mà không đợi sắc dụ của Thiên hoàng. Đó là điều mà chúng ta đã một lần đề cập tới bên trên. Hai là coi thường ý kiến các trọng thần trong vấn đề chọn người kế vị chức Shôgun.
Đương thời, mạc phủ đang gặp khó khăn trong việc tìm người kế vị cho Shôgun đời thứ 13 là Iesada (Gia Định, tại chức 1853-1858, 1824-1858). Iesada không có con trai. Mạc phủ buộc lòng đưa một người tuổi đã ngoài 30 lên kế nghiệp. Ông ta lại vừa mới cưới vợ xong nên chưa biết chắc mười phần là có khả năng có con nối dõi hay không nữa. Thế nhưng sao lại đưa vấn đề này ra bàn ở đây?
Lý do là Iesada khi mới sinh ra, thân thể đã hết sức bạc nhược. Ngồi cho ngay ngắn còn không được và có thể lăn ra chết bất cứ lúc nào. Thêm nỗi, ông không đủ sức có con. Tin tức đó từ hậu cung (Ôku) đã lọt ra ngoài nên lúc ông còn sống, vấn đề kế tự đã được đặt ra.

Ii Naosuke (1815-1860)
Trước khi Ii Naosuke được cử vào chức Tairô, bên trong mạc phủ đã xuất hiện hai phái đối lập chung quanh việc kế tự của Iesada rồi. Đó là phái Hitotsubashi và phái Nanki.
-
Phái Hitotsubashi (Nhất Kiều) tức là phái muốn đưa Hitotsubashi Yoshinobu (cũng gọi là Tokugawa Yoshinobu hay Keiki, Đức Xuyên Khánh Hỷ, con trai thứ 7 của Tokugawa Nariaki, tiền lãnh chúa phiên Mito) lên làm Shôgun. Thế lực chủ chốt của nhóm này là Matsudaira Yoshinaga, Shimadzu Nariakira (phiên Satsuma)...tức là những lãnh chúa đã từng giúp việc cho Abe Masahiro. Họ đều nghĩ rằng một người đã đến tuổi trưởng thành, thông minh và chững chạc như Yoshinobu lên làm Shôgun thì có thể tích cực thi hành mạc chính và đưa Nhật Bản thoát khỏi quốc nạn.
-
Phái Nanki (Nam Kỷ) gồm những lãnh chúa fudai vốn không thích thay đổi, coi việc truyền ngôi giữa các Shôgun phải đúng với truyền thống nghĩa là người lên nối nghiệp Shôgun đời trước phải có liên hệ huyết thống gần gủi với ông đó. Theo họ, trong trường hợp này thì lãnh chúa phiên Kii là Tokugawa Yoshitomi (Đức Xuyên Khánh Phúc, 1846-1866) – em họ của Iesada - mới xứng đáng với chức vụ. Khốn nỗi, Yoshitomi lúc ấy hãy là một cậu con nít.
Nhưng vấn đề lớn hơn hết chính là bản thân Ii Naosuke. Ông được coi như nhân vật trung tâm của phái Nanki. Khi được đưa lên làm Tairô, ông gạt ngay phái Hitotsubashi qua một bên và quyết định trao cho Yoshitomi chức Shôgun.
Xử trí kiểu độc tài của ông làm cho triều đình lẫn phái Hitotsubashi kháng nghị. Thế mà ông cương quyết đàn áp đến cùng. Đó là nguyên do của vụ đại ngục năm Ansei (An Chính đại ngục, 1858-59) nghĩa là việc hình án đã xảy ra trong hai năm Ansei 5 và 6. Những lãnh chúa và công khanh liên kết với phái Hitotsubashi đều trở thành đối tượng của lệnh cảnh cáo không được có hành động chống đối và không được phép vào thành Edo, xem như hoàn toàn bị hất cẳng chính trị. Gia thần của họ còn chịu sự xử phạt nặng nề hơn. Phiên sĩ (hanshi) tức viên chức của phiên Echizen là Hashimoto Sanai (Kiều Bản Tả Nội) và của phiên Chôshuu là Yoshida Shôin (Cát Điền Tùng Âm) đều bị tử hình.
Vụ đại ngục năm Ansei (1858, Ansei 6)
Hoàng tộc
|
Thân vương Shôren.in no miya
|
Đuổi việc cho về hưu (inkyo) vĩnh viễn
|
Công khanh
|
Tả đại thần Konoe Tadahiro , Tiền nội đại thần Sanjô Sanemitsu tất cả 10 người.
|
Đuổi việc cho về hưu vĩnh viễn hay tạm thời, giam lỏng (kinshin)
|
Chư hầu
(Daimyô)
|
Tokugawa Nariaki, phiên chủ Mito, Tokugawa Yoshinobu, gia chủ dòng Hitotsubashi, Matsudaira Yoshinaga, phiên chủ Echizen, Yamanouchi Toyoshige, phiên chủ Tosa vv...
|
Đuổi việc vĩnh viễn hoặc tạm thời, giam lỏng hoặc cấm vào thành vv...
|
Mạc thần
|
Các quan bugyô như Iwase Tadanari, Nagai Naoyuki, Kawaji Toshiakira
|
Đuổi việc tạm thời, giam lỏng.
|
Chí sĩ
|
Hashimoto Sanai, Yoshida Shôin, Umeda Unpin, Raimi Kisaburô (con trai Rai Sanyô) tất cả 50 người.
|
Tử hình
|
Trong những người lãnh án tử hình có chí sĩ Yoshida Shôin là người lỗi lạc nhất. Ông tên là Norikata (Cự Phương), tự là Nghĩa Khanh, thường được gọi là Torajirô (Dần Thái Lang), sinh năm 1830 (Tenpô nguyên niên) trong một gia đình phiên sĩ ở Chôshuu. Trước họ Sugi, sau làm con nuôi nhà Yoshida, một sĩ tộc hạng trung, chuyên giảng binh pháp. Vì thế, thuở thiếu thời ông chỉ chuyên chú học binh pháp. Từ năm 1853 (Kaei 6), ông mới lên đường du học đó đây, chú ý đến thời sự và mưu đồ đổi mới đất nước từ khi có sự kiện đoàn tàu đen của Perry đến Nhật đòi mở cửa thông thương. Thấy rõ sức mạnh của người nước ngoài đang lăm le xâm chiếm nước mình, ông mới bỏ binh pháp mà theo học văn minh kỹ thuật phương Tây. Theo lời khuyên của học giả Sakuma Shôzan (1811-1864), thầy mình, ông phạm vào quốc cấm là tìm cách vượt biển ra nước ngoài. Sau khi tìm cách lên thuyền Nga ở Nagasaki và bị thất bại, ông hai lần xuống Shimoda để đi nhờ tàu Mỹ (chiếc Mississipi, ngày 25 tháng 4 năm 1854) của Perry, lại bị từ khước. Ông bị bắt về Edo tống vào ngục nhưng sau được cho về giam lỏng tại Hagi (Chôshuu) là nơi quê nhà. .
Lúc ở trong tù, ông giảng về Mạnh Tử cho tù nhân, sau khi về quê rồi, ông vẫn tiếp tục dạy triết lý ấy trong vòng họ hàng thân thích. Bài giảng của ông gồm cả những lời bình luận nhan đề Kômô Satsuki (Giảng Mạnh Cháp Ký), sau đổi tên thành Kômô Yowa (Giảng Mạnh Dư Thoại) cho hợp. Năm sau, ông mở “Trường thôn dưới bóng tùng” (Shôka sonjuku = Tùng hạ thôn thục) và thu nhận đệ tử khắp nơi. Nhiều người đã trở thành những nhà lãnh đạo tương lai thời Duy Tân. Sau vì phản đối kịch liệt việc mạc phủ ký hiệp ước giao hiếu thông thương trong những điều kiện bất lợi với liệt cường, việc chọn người kế vị chức Shôgun không thích hợp, cũng như mưu toan chống đối chính quyền đương thời mà ông bị liên lụy trong Vụ đại ngục và bị trảm thủ vào năm 1859 (Ansei 6), lúc mới 29 tuổi. Ông chính là người đã nhóm lên ngọn lửa đấu tranh cho phong trào tôn quân nhương di, khẩu hiệu của thời Mạc mạt vậy.
Nếu đơn giản hoá tư tưởng của Shôin thì đó là quan điểm “nhất quân vạn dân”, “vương thổ vương dân”, nhấn mạnh đến liên hệ quân thần và lòng trung thành tuyệt đối vào thiên hoàng, cơ sở tư tưởng kokutai (quốc thể, national communion) đặc biệt của người Nhật. Ngoài Giảng Mạnh Dư Thoại, ông còn viết Tây Du Nhật Ký, Lưu Hồn Lục vv..
Thế nhưng nếu chỉ chủ trương tôn nhương mà người thanh niên lúc chết chưa đến 30 tuổi đầu và giảng về Mạnh tử thôi mà lại làm cho quốc dân khâm phục đến thế thì có gì không hợp lý. Guillaume Carrée[1] đã dẫn ra một đoạn văn dịch Giảng Mạnh dư thoại đáng suy ngẫm như sau: .
Tuy nhiên tôi nghĩ rằng trọng pháo, chiến hạm hay y học của bọn man di, những hiểu biết về thiên văn và địa lý của chúng có thể rất có ích cho nước ta. Chúng ta phải du nhập thật nhiều vào trong nước...Nếu loại bỏ cái học Tây phương bởi vì nó đến từ bọn man di, vì do những kẻ man di tạo ra, thì thử hỏi tại sao một người như Mạnh tử lại không tiếc lời ca ngợi Trần Lượng dù ông ta là một kẻ man di miền nam đến từ nước Sở để phục vụ ở Trung Nguyên. Những bậc minh quân ngày xưa khi dùng người, không hề loại bỏ người hiền chỉ vì gốc gác man di của họ. Còn nếu như người đó vẫn giữ tấm địa man rợ và kỹ thuật của hắn không đem lại lợi ích cho quốc gia thì lúc ấy hãy chém đầu hắn tại chỗ.
Khi tôi muốn theo tàu trốn sang đất Mỹ, Tượng Sơn tiên sinh (Sakuma Shôzan), thầy tôi, có căn dặn: Nếu việc ra đi này không thực hiện bởi một người có một tấm lòng trung cang thiết thạch thì sẽ là một mối nguy hại cho nhà nước.Nhưng theo ta, nhà ngươi đúng là kẻ xứng đáng để thực hiện việc đó”.
Tóm lại, Yoshida Shôin đã đại diện cho một thế hệ sống trong mâu thuẫn lớn là quan ngại sức mạnh của những kẻ muốn xâm lược nước ông nhưng cũng bị thu hút vì văn minh kỹ thuật tiến bộ của họ. Với một tấm lòng thiết thạch muốn giữ gìn bản chất dân tộc, ông và các môn đệ đã có đủ tố chất để vượt qua khó khăn.


Sakuma Shôzan (1811-1864) Yoshida Shôin (1830-1859
Thơ văn tôn vương đảo mạc
Để hiểu tâm tình của sĩ phu Nhật Bản giai đoạn đại thần Ii Naosuke lãnh trọng tránh lèo lái đất nước, không gì hay hơn là đọc mấy dòng thơ chữ Hán do văn nhân thời đó làm ra. Người tiêu biểu có thể đem ra giới thiệu ở đây là Yanagawa Seigan (Lương Xuyên, Tinh Nham, 1789-1858), một Nho gia thời Edo hậu kỳ và là nhà thơ có tài. Ông người đất Mino (huyện Gifu), từng tham gia Kôko shisha (Giang hồ thi xã), giao du với các văn nhân nổi tiếng đương thời như Ichikawa Kansai, Kan Chazan, Hirose Tansô. Ông lên Edo, mở Gyokuchi ginsha (Ngọc trì ngâm xã), đào tạo được nhiều nhân tài. Trước cảnh đời tao loạn, vận nước lênh đênh, ông tìm đến Kyôto, hô hào tôn quân nhương di, hoạt động gần gủi với các chí sĩ như Yokoi Shônan, Yoshida Shôin và Raimi Kisaburô... Trong vụ đại ngục năm Ansei, ông nằm trong danh sách những kẻ đáng bị bắt giam nhưng lại chết trước đó vì bệnh dịch tả.Sau đây là hai bài thơ ông viết. Bài trước phúng thích đám con cháu nhu nhược của Tokugawa Ieyasu, người mở đầu triều đại và được phong Chinh di đại tướng quân, bài sau nói lên lòng lòng ưu thời mẫn thế và sự uất ức của mình trước hành động các chính trị gia đương thời.
Thất đề
Đương niên nhưng tổ khí bằng lăng,
Sất sá phong vân quyển địa hưng.
Kim nhật bất năng trừ ngoại hấn,
Chinh Di nhị tự thị không xưng.
Thơ đánh mất đề.
Khi xưa cụ tổ khí hào hùng.
Gào gió tung mây cuộn đất bằng.
Nay cháu con khờ cho giặc lấn,
Chinh Di chức ấy thẹn hay chăng?
Ngẫu thành nhị thủ (kỳ nhị)
Thử sinh dữ thế xảo tương vi,
Hồi thủ thiên bàn sự tổng phi.
Lại hữu ngâm nga liêu tống lão,
Mỗi nhân phong cảnh đạm vong quy.
Bố y kinh tế tư Trần Lượng,
Kim đới tinh trung ức Nhạc Phi.
Tùng cổ hào hùng đa bất triển,
Si nhi ngốc hán lộng khu ky.
Ngẫu nhiên thành thơ (bài thứ hai trên hai)
Sống hết đời sao chả được gì,
Ngoảnh đầu nghìn lượt hỏi còn chi
May có thơ ngâm vui tuổi hạc
Xem dăm cảnh đẹp tạm quên về.
Lo dân, áo vải thương Trần Lượng[2].
Vì nước, đai vàng nhớ Nhạc Phi.
Trong sử anh hùng thường thất bại,
Bởi vì lũ ngốc nắm thời cơ. [3]
Yoshida Shôin,bạn của nhà thơ Yanagawa Seigan nói đến ở đây, vốn quê ở Hagi (tỉnh Yamaguchi bây giờ), từng mở trường học trong thôn gọi là Shôka Sonjuku (Tùng hạ thôn thục), đào tạo được nhiều học trò. Môn hạ của ông về sau đều là những nhân vật lỗi lạc, trong đó phải kể đến Takasugi Shinsaku (Cao Sam Tấn Tác), Kuzaka Genzui (Cửu Phản, Huyền Thụy), Itô Shunsuke tức Hirobumi (Y Đằng Tuấn Phụ tức Bác Văn), Yamagata Aritomo (Sơn Huyện,Hữu Bằng), Shinagawa Yajirô (Phẩm Xuyên, Di Nhị Lang) vv...Họ là những nhà hoạt động đã có công lao đổi mới nước Nhật từ giai đoạn cuối mạc phủ bước qua Meiji.Chỉ trong vòng hai năm, một thời gian cực ngắn, Shôin đã thành công đào tạo chừng ấy những vĩ nhân cho Nhật Bản.Ông thật là một nhà giáo dục đáng ca ngợi.
Ngày nay, vùng Hagi vẫn còn gìn giữ cẩn thận ngôi “trường thôn dưới bóng tùng” của ông. Đây là một nơi khách hành hương tấp nập lui tới.
Trong vụ đại ngục năm Ansei, một người có địa vị cao như lãnh chúa phiên Mito là Tokugawa Nariaki mà cũng phải chịu hình phạt ẩn cư và giam lỏng. Điều đó làm các phiên sĩ Mito lấy làm phẫn nộ. Một bộ phận bỏ phiên mà đi (datsuhan = thoát phiên). Họ bèn cùng với các phiên sĩ của phiên Satsuma mưu việc ám sát Ii Naosuke để báo thù tuyết hận. Năm 1860 (Mannen nguyên niên), vào ngày 3 tháng 3, đợi khi Ii Naosuke lên chầu trên thành Edo, họ đã phục kích ngoài cổng Sakuradamon và thực hành kế hoạch.
Ngày 3 tháng 3 âm lịch là thời điểm hoa anh đào sắp nở, thế mà hôm đó trời lại đổ tuyết rất lớn.Vì thanh kiếm là vật người samurai bảo trọng như tính mệnh và không muốn để nó bị tuyết làm ướt, các gia thần cận vệ của Ii Naosuke tuy mang kiếm theo nhưng lại bọc chúng trong bao bì rất kỹ càng. Do đó, khi những phiên sĩ của Mito tập kích thì họ bị vướng víu, không kịp tuốt kiếm ra để phản công. Tuy họ đông đến 60 mà những kẻ tập kích chỉ có 18 người, các gia thần của Naosuke đành nhìn chủ quân của mình bị sát hại trước mắt.
Theo lời thuật lại của các nhân chính, sau một tiếng súng lệnh, những kẻ tập kích đã ào ra, tiến sát tới kiệu của Ii Naosuke và đâm vào đó nhiều nhát kiếm. Sau đó họ đã lôi Ii Naosuke người bê bết máu từ trong kiệu ra và chém rơi đầu.
Việc giết quan Tairô đệ nhất triều đình giữa thanh thiên bạch nhật là một hành động chôn vùi uy tín của mạc phủ.Nó đã dẫn đường đến sự suy vong của chính quyền Edo. Vụ Ii Naosuke bị ám sát được các nhà viết sử gọi là “Cuộc biến loạn ngoài cổng Sakuradamon” (Sakuradamongai no hen).

Tranh thuật lại cuộc ám sát Ii Naosuke ngoài cửa Sakuradamon (24/03/1860)
3.2 Tình thế rối bòng bong hồi cuối đời mạc phủ:
Cuộc vận động chính trị tiêu biểu cuối đời Mạc phủ (Mạc mạt) dĩ nhiên là phong trào “tôn quân nhương di”. Tư tưởng được gọi tắt là sonjô (tôn nhương) này trước kia là hai tư tưởng độc lập, bởi “tôn vương luận” và “nhương di luận” thoạt tiên không liên hệ gì với nhau. Tư tưởng tôn vương xem Thiên hoàng như là bậc tôn quí nhân đức nhất, xứng đáng là đối tượng của sự sùng bái.
Có lẽ điều sau đây sẽ làm chúng ta ngạc nhiên nhưng thực ra tư tưởng tôn vương (tôn quân) là lời răn dạy của Chu Tử học.Đương thời giới võ sĩ xem đó là một điều thường thức mà mạc phủ cũng chấp nhận. Những người cầm quyền họ Tokugawa đều được Thiên hoàng phong cho chức Sei Daishôgun (Chinh Di đại tướng quân). Làm sao có thể coi nhẹ Thiên hoàng được, bởi vì như thế là gián tiếp coi nhẹ Shôgun.
Đặc biệt, nơi “tôn vương luận” được đề cao hơn cả là phiên Mito, một trong “tam gia” (sanke), cột trụ của dòng họ Tokugawa. Lãnh chúa đời thứ hai, Tokugawa Mitsukuni (Đức Xuyên Quang Quốc) đã dồn tâm lực để cổ xúy cho chủ trương này. Ông đã cho gia thần biên soạn bộ Dai Nihonshi (Đại Nhật Bản sử) vĩ đại mà trong đó, gia đình thiên hoàng đóng vai trò trung tâm.Sự nghiệp này đã được các lãnh chúa đời sau của phiên Mito tiếp nối. Từ đó, phiên Mito đã trở thành chiếc nôi của tư tưởng tôn vương mà sự tôn sùng thiên hoàng là cơ sở lý luận của các phiên sĩ. Quyển Nihonshi, như ta đã biết, hoàn thành dưới thời Meiji.
Còn “nhương di luận”, nó đã xuất hiện lúc nào và phát xuất từ đâu?
Chính ra nó là một tư tưởng khá đơn thuần.Những kẻ chủ trương nó chỉ muốn đánh đuổi người ngoại quốc ra ngoài cõi mà thôi.
Hồi bắt đầu thế kỷ 19, tàu bè liệt cường thường xuyên xuất hiện ở ven viển Nhật Bản.Lúc thì họ đo đạc vùng duyên hải, lúc thì họ đổ bộ. Trước tình thế như vậy, những người Nhật Bản - vốn không quen với sự có mặt của người ngoại quốc – đã đâm ra sợ hãi và căm ghét. Cứ như thế mà tư tưởng nhương di đã bùng cháy lên một cách nhanh chóng. Có thể hiểu trước tiên như một sự dị ứng.
Thế nhưng hai tư tưởng đã đã được nhập làm một nhân một tình cờ có tính lịch sử. Ở phiên Mito, cứ điểm của tôn vương luận, có sự kiện những người ngoại quốc đổ bộ lên.
Tháng 5 năm 1824 (Bunsei 7), có tàu Anh xuất hiện ở Ôtsuhama, một cái bến thuộc địa phận phiên Mito. Có hai người trong đám thủy thủ đã lên bờ để hỏi lương thực và nước. Sự kiện này làm người Nhật sở tại xôn xao và gieo mầm tư tưởng nhương di vào đầu các viên chức của phiên, từ lâu đã nuôi dưỡng bằng tôn quân luận. Nhân vật chủ chốt trong đám họ là hai học giả Fujita Tôko (Đằng Điền, Đông Hồ) và Aizawa Yasushi (Hội Trạch, An).
Kể từ khi Đề Đốc Perry đến Nhật, đã có nhiều người lớp trẻ đã đến Mito để tìm hiểu, học hỏi về tư tưởng tôn quân do người trong phiên chủ trương. Yoshida Shôin của phiên Chôshuu cũng là một trong những người ấy.
Đến khi Thiên hoàng Kômei (Hiếu Minh), một ông vua không ưa gì người ngoại quốc, cự tuyệt việc phê chuẩn hiệp ước mạc phủ ký với người Mỹ, họ tỏ ra đồng cảm và ca tụng ông là bậc quân chủ thức thời. Phong trào chủ trương bỏ rơi một mạc phủ yếu hèn để đặt kỳ vọng vào triều đình càng ngày càng trở nên rầm rộ, đến độ nó phát triển thành một cuộc vận động chính trị “tôn quân nhương di”. Điều ấy có nghĩa là nếu có chiếu chỉ của thiên hoàng thì họ sẽ phụng mệnh để chấp hành ngay việc bài trừ người ngoại quốc.
Những võ sĩ vô chủ (vì đã “thoát phiên”) của Mito đều sùng bái tư tưởng “tôn nhương”. Ai đi ca ngợi “tôn nhương” thời đó đều được đánh giá những chí sĩ (shishi). Thế nhưng, những kẻ đã sát thương chức Tairo là Ii Naosuke ngoài cổng Sakuradamo, các nhân vật chủ trương mở cửa (kaikokuha = khai quốc phái) cũng như người ngoại quốc thì không còn được xem là những chí sĩ nghĩa là đấu tranh chính trị bằng tư tưởng và thuyết phục nữa. Họ đã chứng tỏ niềm tin của mình qua hành động và những hành động này đều có tính quá khích.
Năm 1860 (Mannen nguyên niên), người thông dịch cho lãnh sự Townsend Harris tên là Heusken (Hendrik Conrad Joannes Heusken, 1832-1861, gốc Hà Lan) đã bị các lãng sĩ (võ sĩ vô chủ) phiên Satsuma chém chết. Năm sau, các lãng sĩ của phiên Mito cũng tập kích công sứ quán của người Anh (sử chép là vụ Đông Thiền Tự hay Tôzenji jiken, 1861) làm 2 nhân viên bị thương. Tôzenji là một ngôi chùa vùng Shinagawa thuộc thành phố Tôkyô bây giờ. Nhân đó, phiá người Anh đòi hỏi mạc phủ không để họ trú ngụ trong chùa chiền (như cách thức vẫn làm cho đến nay đối với các phái bộ nước ngoài) mà phải xây cất cho họ công quán mới với hệ thống phòng thủ kiên cố.
Nhân đó, mạc phủ bắt đầu xây cất công sứ mới cho người Anh ở Goten.yama (Shinagawa, Tôkyô). Năm 1862 (Bunkyuu 2), công quán vừa hoàn thành không lâu thì đã bị nhóm võ sĩ phiên Chôshuu của Takasugi Shinsaku phóng hỏa thiêu rụi (Đó là sự kiện Phóng hỏa công sứ quán Anh hay Igirisu kôshikan yakiuchi jiken).

Andô Nobumasa ( 1819-1871)
Trong phái “tôn nhương” (sonjô), bắt đầu có những tiếng nói kêu gọi hãy dẹp bỏ mạc phủ để xây dựng một chính quyền mới với triều đình là trung tâm. Nó cũng đi đôi với việc hô hào đuổi cổ người ngoại quốc ra khỏi đất nước. Lo lắng vì những mầm biến động như vậy, chức Rôjuu đương thời là Andô Nobumasa (An Đằng, Tín Chính, 1819-1871, người thay thế Ii Naosuke) mới tính đến việc xúc tiến việc kết hợp một cách êm đẹp giữa phái tôn quân với phái theo mạc phủ trong một quá trình gọi là “công vũ hợp thể” (kôbu gattai). Công tức là công gia, công khanh, chỉ triều đình. Còn vũ là vũ gia, chỉ chính quyền quân nhân của mạc phủ vậy. Việc này chứng tỏ đã có sự thay đổi trong nội bộ mạc phủ: vì muốn giữ cho được sự yên ổn, họ đành đổi từ thể chế độc tài sang thể chế hòa hợp. Để chứng tỏ điều đó, Andô Nobumasa đã thực hiện việc rước công chúa Chikako (còn gọi là Kazu no miya = Hòa cung, em gái của Thiên hoàng Kômei) về làm phu nhân cho Shôgun đời thứ 14 Iemochi (Gia Mậu, tên cũ là Yoshitomi = Khánh Phúc) vào năm 1862 (Bunkyuu 2).
Thế nhưng công chúa Chikako (Thân tử, 1846-1866) đã hứa hôn với một người khác, hoàng thân Arisugawa no miya Taruhito shinnô. Chính cô cũng ghét việc phải bỏ Kyôto để lên Edo. Vì tính cách hầu như cưỡng chế của việc kết hôn, trong dân chúng lại nổi lên lời đàm tiếu “Như thế là mạc phủ bắt (công chúa) Kazu no miya làm con tin hay sao?” làm cho nhóm “tôn nhương” phẫn nộ. Kết quả là đại thần Andô Nobumasa đã bị một nhóm phiên sĩ của Mito tập kích bên ngoài cửa Sakashita thành Edo nhưng ông chỉ bị thương. Sir Rutherford Alcock có tường thuật lại là ông rất dũng cảm, bị thương rồi mà vẫn bình tĩnh điều khiển bộ hạ chống trả những kẻ tập kích. Tuy nhiên, vì sự kiện đó mà đại thần mất thế đứng và phải rút lui khỏi sân khấu chính trị. Sử gọi là Cuộc biến loạn ngoài cổng Sakashita hay Sakashitamon no hen.

Kazu no miya (1846-1877) trong phim dã sử truyền hình Atsuhime.
Thế nhưng sự kiện nói trên vẫn không trì hoãn được kế hoạch “công vũ hợp tác” của hai phía. Người nối tiếp việc thực hiện nó là lãnh chúa phiên Satsuma, Shimadzu Hisamitsu (Đảo Tân, Cửu Quang, 1817-1887). Ông là một người có thực lực, giữ vị trí quan trọng nhất trong chính quyền Satsuma cho dù ông không phải là lãnh chúa. Hisamitsu chỉ là cha ruột của lãnh chúa mà thôi nhưng dân trong phiên kính nễ ông và gọi là quốc phụ (kokufu), đủ hiểu thanh thế của ông như thế nào.

Shimadzu Hisamitsu ( 1917-1887)
Hisamatsu đã dẫn theo 1.000 quân và tiến về Kyôto. Ông thuyết phục triều đình liên kết
với mạc phủ và chứng tỏ tinh thần hợp tác giữa hai bên để giúp mạc phủ cải tổ chính trị bằng cách phái một sứ giả lên Edo nói chuyện.Sau đó, ông tháp tùng sứ giả của Thiên hoàng lên Edo, tiếng là giúp việc cảnh bị nhưng chính ra là bám sát bên cạnh mạc phủ để đốc thúc họ tiếp nhận chủ trương của mình.
Một người chỉ thuộc vào hàng tozama không phải thân cận gì với nhà chúa, lại chẳng có chức danh gì chính thức mà cả gan lên tiếng đòi hỏi mạc phủ những điều như thế, quả là hi hữu. Thế nhưng mạc phủ đã phải chịu nghe theo ông mà thi hành cải cách. Qua đó, chúng ta thấy quyền uy của mạc phủ đã suy sụp tới mức độ nào rồi.
Cuộc cải cách của mạc phủ ở giai đoạn này có tên là cải cách trong năm Bunkyuu (Bunkyuu no kaikaku), (1861-1864). Những thay đổi chính là việc giảm bớt sức ép cho chế độ tham cần giao đại tức thay phiên lên chầu (sankin kôtai), áp dụng quân chế Tây phương trong quân đội vv...Thế nhưng điều chúng ta phải chú ý hơn cả là việc bổ nhiệm nhân sự trong các chức vụ mới. Người trách nhiệm toàn bộ chính trị (chức Chính sự tổng tài) từ đây sẽ là lãnh chúa Echizen, Matsudaira Yoshinaga (Tùng Bình, Khánh Vĩnh, 1828-1890), người phụ tá Shôgun sẽ là Hitotsubashi Yoshinobu (Nhất Kiều, Khánh Hỷ, 1837-1913), còn chức thủ hộ phủ Kyôto sẽ là lãnh chúa phiên Aidzu, Matsudaira Katamori (Tùng Bình, Dung Bảo, 1835-1893). Mới nhìn qua tên các nhân vật, người ta đã thấy dấu hiệu sự trở lại chính trường của phái Hitotsubashi, những người từng bị Ii Naosuke trù dập trong vụ đại ngục năm Ansei.
Thế thì cuộc kết hợp giữa triều đình liệu đã xảy ra một cách tốt đẹp hay không? Rất tiếc phải trả lời rằng nó đã thất bại.
Phiên Chôshuu (tỉnh Yamaguchi, cực nam Honshuu) vốn dương cao ngọn cờ tôn vương, đã tìm cách chận đứng việc Satsuma (phiá tây tỉnh Kagoshima, cực nam Kyuushuu) trong việc thực hiện “công vũ hợp tác” mà họ cho là nửa vời. Trước tiên, phiên Chôshuu đã thành công việc nắm được chủ quyền trong triều đình. Thế rồi từ đó, nấp bóng triều đình, họ làm mói cách để ép buộc mạc phủ phải tuyên bố cho phép các phiên có hành động “nhương di”.
Không biết cách nào hơn, mạc phủ đành chấp nhận đòi hỏi của Chôshuu. Ngày 10 tháng 5 năm 1863 (Bunkyuu 3), mạc phủ ra lệnh cho chư phiên “nhất tề nhương di”. Thế nhưng hôm đó chỉ có mỗi phiên Chôshuu y hẹn, pháo kích vào tàu ngoại quốc. Những phiên khác thì bất động, chắc họ đều nghĩ thời điểm bây giờ đâu còn là lúc có những hành động quá khích như kiểu đó được nữa.
Đúng ra, có một thiểu số thuộc phái “tôn nhương” đã bằng lòng hiệp đồng trong hành động với phiên Chôshuu. Ví dụ phiên sĩ Tosa (Thổ Tá, phía nam đảo Shikoku) là Yoshimura Toratarô (Cát Thôn, Hổ Thái Lang) và công khanh Nakayama Tadamitsu (Trung Sơn, Trung Quang) cùng hô hào “tôn vương nhương di” và tấn công văn phòng chức daikan (quan hành chánh đại diện mạc phủ ở lãnh địa họ trực quản) tại Yamato Gojô. Sử chép đó là loạn của Tenchuugumi (nhóm Thiên Tru, Thiên Trung), một tổ chức cần vương. Tuy nhiên, mục đích của nhóm người này hình như không phải là “nhương di” mà chỉ nhắm đánh đổ mạc phủ (thảo mạc = tôbaku).
Tuy Thiên hoàng Kômei ghét người ngoại quốc nhưng có lẽ ông không hề mơ đến việc mình sẽ đoạt lại chính quyền từ tay mạc phủ. Do đó, ông đã phê phán mưu tính việc “thảo mạc” của nhóm người này. Biết được sự tình, hai phiên chủ trương “công vũ hợp thể” là Satsuma và Aidzu (phía tây tỉnh, Fukushima, Đông Bắc Edo) - được sự đồng ý của Thiên hoàng - thực hiện một cuộc đảo chánh để đuổi thế lực quá khích Chôshuu ra khỏi triều đình vào ngày 18 tháng 8 năm 1863. Như thế, lực lượng gồm người của phiên Chôshuu và nhóm công khanh quá khích trong triều đã bị tống khứ ra khỏi thành phố Kyôto. Sự kiện này được mệnh danh là Chính biến ngày 18 tháng 8. Trong đám công khanh thất thế lúc đó, có tên của Sanjô Sanetomi (Tam Điều, Thực Mỹ, 1837-1891), một người đáng nhớ vì ông sẽ còn có cơ hội trở lại đóng những vai trò quan trọng trên sân khấu chính trị.
Tuy nhiên, dù cuộc đảo chánh đã xảy ra, nó không làm cho lực lượng của phái “tôn nhương” - mà Chôshuu đóng vai trò chủ chốt - bị yếu đi.Không những thế, hành động của họ càng ngày càng có màu sắc quá khích.Ví dụ như vào tháng 10 cùng năm ấy (1863), 2.000 người thuộc phái “tôn nhương” do Hirano Kuniomi phiên Fukuoka dẫn đầu, đã tập kích và chiếm giữ trụ sở hành chánh của chức daikan ở Tajima (gọi là vụ biến loạn Ikuno). Lại nữa, lúc ấy, những thành phần gọi là chí sĩ trên toàn quốc đã lẻn vào Kyôto và ngấm ngầm có những hoạt động chính trị hòng phục hồi uy thế của phe nhóm mình.
Việc lùng bắt các chí sĩ cần vương này vốn là nhiệm vụ của người lãnh chức thủ bị Kyôto, Matsudaira Katamori, lãnh chúa phiên Aidzu. Katamori đã rất tích cực trong nhiệm vụ. Ông trao quyền lực cho một cơ quan cảnh sát rất đắc lực có tên là Shinsengumi (Tân tuyển tổ) do Kondô Isami (Cận Đằng, Dũng, 1834-1868) lãnh đạo.
Vào tháng 6 năm 1864, Shinsengumi đã nghe từ miệng những chí sĩ bị họ bắt giữ một tin động trời.Đó là kế hoạch “sẽ phóng hỏa thành phố Kyôto rồi thừa lúc hỗn loạn bát nháo sẽ tấn công Matsudaira Katamori cũng như tất cả đồng bọn thuộc nhóm “công vũ hợp thể”. Sau đó sẽ xông vào ngự sở của Thiên hoàng, đoạt lấy ông ta mang về Chôshuu”. Dĩ nhiên kế hoạch này hết sức táo bạo.
Chính vì vậy mà lực lượng cảnh sát Shinsengumi của mạc phủ mới đi lùng các chốn khả nghi có các chí sĩ đang ẩn nấp. Rốt cục, họ đã khám phá ra một nơi là lữ quán Ikedaya, nơi các chí sĩ đang hội họp. Cuộc tập kích đã xảy ra làm 7 chí sĩ bị thiệt mạng và 23 người khác bị bắt sống.
Sử chép đây là vụ quán Ikedaya (Ikedaya jiken). Nghe tin chẳng lành, các chí sĩ Chôshuu đùng đùng nổi giận và phiên Chôshuu đã gửi một đạo quân lớn tiến vào Kyôto. Rốt cuộc một cuộc chạm trán đại qui mô giữa Chôshuu với các lực lượng của Satsuma và Aidzu đã bùng nổ ngay tại kinh đô.
Shinsengumi là những ai?
Nguyên lai, Shinsengumi (Tân tuyển tổ) hay Miburô (Những lãng sĩ, những con sói ở Mibu vì Mibu là tên vùng trung tâm Kyôto vì “lang” và “lãng” cùng đọc là “rô”) được thành lập từ một nhóm quân cận vệ riêng gọi là Rôshigumi (Lãng sĩ tổ) tháp tùng Tướng quân Tokugawa Iemochi khi ông lên Kyôto. Năm 1863, 13 người trong nhóm đó đã ở lại hẳn kinh đô và kết hợp với các thành phần khác trong xã hội (nông dân, thương nhân, thợ thủ công, y sĩ, nhà tu) nhưng chủ yếu vẫn là samurai vô chủ, thành một lực lượng quân sự. Họ xin chính quyền mạc phủ cho mình đảm nhiệm việc trị an để bảo vệ thành phố, lúc đó rất nhiễu nhương vì có quá nhiều phe nhóm chính trị và thường gây đổ máu hay đốt phá. Họ được phép làm việc dưới sự chỉ huy và chi viện của phiên Aidzu (thuộc Fukushima), vốn ủng hộ lập trường của mạc phủ.
Sau nhiều cuộc thanh trừng nội bộ vì ý kiến bất đồng, Kondô Isami (1834-1868) nắm quyền chỉ huy, người phụ tá nổi tiếng của ông là “quỷ sứ” Hijikata Toshizô (1835-1869) vì ai cũng khiếp sợ. Có lúc lực lượng đông đến 300 người. Kẻ thù của họ là nhóm võ sĩ phiên Chôshuu và sau đó cả phiên Satsuma khi mà hai bên Satchô trở thành đồng minh chia sẻ quan điểm tôn nhương. Thủ đoạn của Shinsengumi rất dứt khoát và tàn nhẫn nhưng kiến hiệu. Tuy nhiên, sau khi Shôgun Yoshinobu giao trả quyền bính cho triều đình, họ đành phải rút khỏi Kyôto và bắt đầu đụng trận với quân triều đình (quan quân) ở Toba Fushimi (1868), vùng phụ cận kinh đô. Tuy là những kiếm sĩ tài nghệ và chiến đấu dũng cảm nhưng họ không thể đương cự được với hỏa lực trội hơn [4]nên đã thất bại, phải chạy về Edo rồi dần dần tan rã. Kondô Isami mang thương tích, bị bắt sống, hỏi tội và chết chém. Saitô Hajime (một đội trưởng) còn lên Aidzu tử thủ. Riêng Hijikata Toshizo tiếp tục cuộc kháng chiến trên đảo Hokkaidô với ý định cùng với Enomoto Takeaki thành lập một nước Cộng hòa Ezo nhưng sang năm sau cũng bại tử khi quan quân tiến lên miền bắc.
Đối với người Nhật, Shinsengumi đã trở thành một huyền thoại, đề tài cho tiểu thuyết, phim ảnh, tuồng kịch và manga, được nhắc đến với lòng thương cảm và kính phục. Trước tiên bởi vì họ là những kẻ ...chiến bại. Hai là nhiều người trong họ là thường dân, đã tranh đấu, xé rào cản xã hội lâu đời để đạt được mơ ước trở thành samurai dù có muộn màng. Ba vì họ là một tập đoàn ưu tú, dũng cảm, thiện chiến, khắc khổ, kỹ luật, đúng như hình tượng lý tưởng mà người Nhật đặt ra cho mình. Cuối cùng, họ là những nạn nhân của thời cuộc, thành vật hy sinh trong một giai đoạn lịch sử chuyển đổi khi Nhật Bản đang mò mẫm đi tìm một thể chế chính trị thích hợp mà kẻ thù hôm qua có thể thành bạn tốt hôm nay.

Hijikata Toshizô, chỉ huy phó Shinsengumi ( 1835-1869)
Cuộc chiến với một bên là Chôshuu, một bên là Satsuma và Aidzu ở Kyôto được mệnh danh là Kinmon no hen hay biến loạn ở cấm môn tháng 7 năm 1864 vì lúc đó quân Chôshuu muốn tiến vào cấm thành. Cũng có tên khác là Hamaguri gomon no hen. Cuộc chiến đấu giữa các phiên đã gây tổn thất nặng nề cho dân chúng vì phải có đến 2 vạn 8 nghìn nóc gia làm mồi cho ngọn lửa và nhiều thường dân bị chết cháy. Phía Chôshuu thua trận. Triều đình bèn nghĩ ngay đến việc phát lệnh thảo phạt Chôshuu. Mạc phủ bèn ứng chiếu và họp 21 phiên lại điều quân đánh Chôshuu với tội danh đã khởi động cuộc chiến. Mười lăm vạn binh đã tiến xuống miền nam bao vây phiên Chôshuu. Đó là cuộc thảo phạt Chôshuu lần thứ nhất.
Bên phía Chôshuu thì trước tình thế đó, chính quyền được chuyển từ tay phái “tôn nhương” (có khuynh hướng cách tân) sang tay phái bảo thủ. Chính quyền mới buộc 3 vị karô (gia lão, trọng thần lãnh đạo chính trị của phiên) phải nhận lấy trách nhiệm gây nên cuộc chiến và mổ bụng tự sát (seppuku). Đầu của họ được gửi về mạc phủ để tạ tội, kết cuộc xem như đã được tha thứ.
[1]Histoire du Japon, tr.945
[2]Trần Lượng, học giả đầu đời Nam Tống, một trung thần có lòng kinh thế tế dân. Ông là khuôn mẫu của người trí thức thời cuối Mạc phủ.
[3]Nguồn Uno Naoto, Kanshi wo yomu (Nihon no Kanshi, Edo no koki), NHK xuất bản, tr.180-182.
[4]Trong khi tướng Pháp Jules Brunet hướng dẫn phái đoàn cố vấn quân sự bên cạnh mạc phủ theo lệnh Napoléon III thì thương nhân người Anh Thomas Glover cung cấp súng ống tối tân và cả trọng pháo cho Satsuma. Nói chung, tuy quân mạc phủ dù được Pháp trang bị súng ống và cả tàu chiến nhưng hỏa lực kém hẳn quân triều đình.Riêng đội viên Shinsengumi chủ yếu sử dụng kiếm kích.