Ai cũng biết đưa ra lý lẽ thì phải có chứng cớ kèm theo để lý lẽ có tính thuyết phục, có cơ sở. Vậy nên cha ông ta dạy “Nói có sách, mách có chứng”.
Ai cũng biết đưa ra lý lẽ thì phải có chứng cớ kèm theo để lý lẽ có tính thuyết phục, có cơ sở. Vậy nên cha ông ta dạy “Nói có sách, mách có chứng”.
Bài học sơ đẳng cho những người làm công việc nghiên cứu là phải tham khảo tài liệu, tài liệu càng đáng tin cậy thì giá trị công trình càng cao. Qua cách tham khảo tài liệu cũng đã có thể đánh giá được trình độ của người làm nghiên cứu. Nhưng không chỉ có vậy, còn đánh giá được cái tâm của người nghiên cứu nữa. Có lẽ cái tâm lớn nhất là cái tâm đối với vốn trí tuệ, tài năng của cha ông để lại mà con cháu phải có trách nhiệm, đồng thời có niềm tự hào được tìm hiểu và tôn vinh, trân trọng. Chính vì vậy khi đọc bài viết “Văn nhân- tài đức và học vấn” của Phương Lựu trên báo Văn nghệ số 15 (13-4-2013) thì tôi thấy quá là thất vọng. Đề tài về văn nhân với tài đức và học vấn đâu phải là đề tài xa lạ gì với Việt Nam, với lịch sử văn hoá Việt Nam, vậy mà cả bài tác giả chỉ đưa ra toàn điển tích của Tàu, từ đầu cho đến đuôi không một câu chữ nào đả động đến tài đức của văn nhân Việt. Hiện có một số vấn đề nghiên cứu lý thuyết khá khó khăn với người Việt, như chủ nghĩa hiện đại, hậu hiện đại,các trường phái lý thuyết phi macxit mà khi làm nghiên cứu, ta buộc phải trích dẫn của người nước ngoài. Thế nhưng nói về văn nhân thì can cớ gì lại toàn trích dẫn từ Trung Quốc?
Tác giả Phương Lựu đã tiếp cận đến văn nhân với ba tiêu chí: Đức hạnh, Tài năng, Học thức. Nói về đức hạnh nhà văn, tác giả dẫn ra một loạt “ý kiến” và hiện thực cuộc sống của khoảng hơn 20 cao nhân Tàu để dẫn đến lập luận “Nói cho cùng thì lĩnh vực nào cũng phải có đạo đức, nhưng đức chưa đủ làm ra văn hay”. Thực ra để đi đến nhận định này thì không cần phải trích dẫn quá nhiều như vậy. Ai chả biết đâu phải người nào có đạo đức cũng viết được văn, chưa nói gì đến văn hay. Người đức hạnh thì nhiều nhưng nhà văn thì khá hiếm. Người Việt ta không nói nhiều đến chữ Đức mà nói đến chữ Tâm. Có đức mà không có tâm thì chỉ là một cỗ máy. Chính vì thế Nguyễn Du nói “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Với tiêu chí Tài năng, tác giả dẫn ra các đánh giá theo phân loại của khoảng 10 học giả Tàu về tài cao, tài thấp, thường tài, toàn tài và kết ở chữ thiên tài. Tác giả trích dẫn Vương Quốc Duy đời Thanh xếp hạng thiên tài văn nhân, gồm có Khuất Nguyên, Đào Uyên Minh, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha. Ở Việt Nam, từ những năm 1930, tức là ngay khi làn sóng sử dụng quốc ngữ trong văn học thơ ca vừa nở rộ, các nhà phê bình Việt Nam cũng đã sớm phát hiện ra các văn tài Việt. Những đánh giá đó vẫn chưa hề mất đi giá trị của nó. Không hiểu sao tác giả Phương Lựu lại không nói gì tới tiêu chí đánh giá tài năng trong văn học Việt, điều mà đọc giả rât mong mỏi được biết.
Ở tiêu chí Học thức, tác giả Phương Lựu cho rằng tài năng phải đi liền với vốn sống và vốn văn hoá, đi liền với chữ học và chữ thức. Và tác giả lại dẫn ra một loạt sách vở Trung Quốc nói về vai trò của học thức đối với nhà văn. Về chữ học thì người Việt chả xa lạ gì. Các bậc văn nhân Việt xưa đa phần là người có học, thậm chí đỗ đạt rất cao như Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh, tương đương Tiến sĩ, Nguyễn Khuyến đỗ đầu kỳ thi Đình, đến như nhà thơ Tú Xương lãng tử cũng hết sức chăm chỉ chuyện đèn sách, dù chỉ đỗ đến Tú tài. Tấm gương học tập của các vị ấy đáng để con cháu tham khảo. Nó không chỉ là học tập, nó là ý chí, là nghị lực, quyết tâm, sự dũng cảm và dấn thân. Tuy nhiên, tài học cũng không hẳn đã chứng tỏ tài văn, như Xuân Diệu ca ngợi Tú Xương “Ông Nghè ông Thám vô mây khói/ Đứng lại văn chương một Tú tài”.
Tôi đọc bài của tác giả Phương Lựu mà lòng buồn bã. Trong đó chỉ là những cái tên hết sức xa lạ với tôi, những cuốn sách chẳng nói với tôi điều gì mới mẻ, các nhận định cũng cũ kỹ xa xưa. Đâu rồi lịch sử của các văn nhân Việt Nam mà mỗi lời của họ với tôi mới là những lời vàng lời bạc, những lời mà họ đã chắt lọc được trên thực tế mà họ trải nghiệm ở chính quê hương này?
2119
2317
22067
221578
130677
114574521