Nhìn ra thế giới

Đài Loan giải quyết vấn đề đất đô thị với phát triển đô thị như thế nào?

Trong nội dung cải cách ruộng đất của Đài Loan gồm hai bộ phận lớn là cải cách ruộng đất nông nghiệp (bắt đầu làm từ năm 1950) và cải cách đất đô thị (bắt đầu làm từ năm 1956). Nội dung và vấn đề thực tiễn đặt ra đối với đất nông nghiệp và đất đô thị là hoàn toàn khác nhau, nên chủ trương, chính sách và cách làm của hai bộ phận là khác nhau, nhưng không tách rời nhau. Riêng về phần cải cách đất đô thị có những nội dung chủ yếu như sau.

1. Những vấn đề nẩy sinh xung quanh vấn đề đất đô thị trong quá trình đô thị hóa;

Thời kỳ đầu thập kỷ 50 thế kỷ trước, dân số nông thôn chiếm trên 50%. Sau hoàn thành cải cách ruộng đất nông nghiệp, kinh tế nông thôn phát triển, cơ khí hóa nông nghiệp ngày càng nhiều, lao động nông thôn vào thành phố làm công nghiệp, dịch vụ, bình quân năm trên 1% tổng dân số. Tỷ lệ dân số đô thị từ 64,2% năm 1977 tăng lên 74,2% năm 1986 (chưa tính dân số ven đô).

Dân số đô thị phình to, đất cần cho phát triển đô thị cũng tăng theo. Năm 1977 sử dụng 1.884 km2 chiếm 6,6% tổng diện tích đất. Năm 1986 tăng lên 3.935 km2 chiếm 11,8% tổng diện tích đất. Dân thành phố tăng, tăng nhà ở, tăng đất xây dựng. Đời sống dân tăng, yêu cầu nới rộng đất ở. Năm 1979 bình quân mỗi người 15,64m2, đến năm 1986 tăng lên 19,5m2. Tổng diện tích nhà ở từ 268 triệu m2 năm 1979 tăng lên 402 triệu m2 năm 1986.

Chất lượng sống xã hội tăng lên, yêu cầu đất cho xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng tăng lên:

Mặt đường mở rộng, từ 10-15 m mở lên 35-80m. Ngõ hẻm từ 5-10m mở rộng 30-40m. Chỗ để xe tăng nhiều. Hệ thống công trình ngầm, công trình nổi tăng lên; Yêu cầu cây xanh, lục hóa thành phố tăng lên; nhiều nhu cầu đất khác nữa.

Nhu cầu đất tăng, đất cung ứng không theo kịp làm cho giá đất tăng vọt.

Giá đất tăng cao làm cho chi phí xây dựng các công trình công cộng của nhà nước, công trình công cộng phục vụ dân sinh cũng tăng lên theo, chi phí về giá đất chiếm trên 50% giá thành xây dựng công trình. Ngân sách của chính phủ không thể nào đáp ứng được. Trở thành vấn đề quan hệ chính phủ với dân.

Đất trở thành đối tượng đầu cơ trục lợi lớn. Người cần đất không có. Người có đất lại để đầu cơ, trở thành vần đề nghiêm trọng, không chỉ là vấn đề kinh tế, mà còn là vấn đề xã hội, vấn đề dân sinh, vấn đề chính trị.

Như vậy, quá trình đô thị hóa là tất yếu àdân nông thôn chuyển thành dân đô thị là tất yếu àdân đô thị ngày càng tăng là tất yếu àsố lượng và qui mô thành phố tăng là tất yếu àhệ thống cơ sở hạ tầng, hệ thống công trình phục vụ công ngày càng tăng là tất yếu ànhu cầu đất cho các mặt trên ngày càng tăng là tất yếu ànguồn đất cung cấp chủ yếu là từ đất nông nghiệp, đất nông thôn nhưng lại có hạn là tất yếu àmâu thuẩn cung cầu đất cho đô thị hóa là nguồn gốc của đầu cơ đất tăng giá đất là tất yếu àlàm tăng chi phí xây dựng công trình là tất yếu àngân sách nhà nước không thể đáp ứng nhu cầu chi phí xây dựng là tất yếu. Tất cả đó là lô-gích của quá trình đô thị hóa ở Đài Loan trong thời kỳ chuyển mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đaị hóa, đô thị hóa nông nghiệp, nông thôn trong những thập kỷ 50, 60, 70, 80 thế kỷ trước.

2. Quan điểm giải quyết ?

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa ngay từ nông nghiệp nông thôn, chứ không phải tập trung vào những đô thị đã có sẵn, trong tiến trình chung công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa của cả nền kinh tế xã hội. Đô thị và nông thôn đối với xã hội, đối với quốc gia đều quan trọng như nhau, xây dựng và tiến bộ của cả hai, không thể thiên lệch.

Quán triệt thực hiện quan điểm tư tưởng “bình quân địa quyền” một trong nội dung của Chủ nghĩa Dân sinh trong Chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Chủ trương này nhằm giải quyết vấn đề đầu cơ tập trung ruộng đất vào số ít người. Quan điểm này đã được thể hiện tại Điều 142 trong Hiến pháp năm 1946 của Trung Hoa Dân Quốc:”Kinh tế quốc dân nên lấy Chủ nghĩa Dân sinh làm nguyên tắc cơ bản, thực thi bình quân địa quyền, tiết kiệm vốn, nhằm đạt được một quốc kế dân sinh mà mọi người đều giàu có.”.

Nguồn lợi do tăng giá trị tự nhiên của đất qui công, dùng vào xây dựng các công trình phúc lợi chung cho dân.

Xúc tiến sử dụng đất đô thị một cách hiệu quả để xây dựng đô thị lý tưởng. Phải có qui hoạch, kế hoạch hoàn mỹ làm qui phạm trên cơ sở sử dụng đất hợp lý, hoàn toàn thích ứng với nhu cầu thiết kế đô thị, phù hợp yêu cầu của phúc lợi công cộng xã hội, v.v.. nhắm phát huy tốt nhất giá trị cần có của đất đô thị. Trong tổ chức thực hiện cần áp dụng chế độ quản chế đất đô thị chặt chẽ để sử dụng đất đúng mục đích, đúng kỳ hạn, đúng qui cách, đúng bước đi theo qui hoạch kế hoạch chung. Đất công chỉ dùng cho sự nghiệp công.

Thực thi cải cách đất đô thị để phối hợp với phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy vấn đề phân phối hợp lý đất đô thị, xây dựng qui phạm đất đô thị, tạo điều kiện cho công thương nghiệp phát triển, nâng cao chất lượng xây dựng đô thị, tạo cơ sở có lợi cho tăng cường xây dựng kinh tế xã hội, tạo phúc cho toàn dân.

3) Triển khai thực hiện.

Là vấn đề mới, để cụ thể hóa những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo trên thành những qui định có tính pháp lý, tính khoa học, phù hợp quyền ích, trách nhiệm các bên, có tính thao tác cụ thể, v,v... qua nhiều khâu chuẩn bị công phu, tỷ mỷ, từ khâu tuyên truyền, tổ chức cơ cấu phụ trách điều hành từ chính phủ đến chính quyền tỉnh, huỵện, thị, hương, trấn đến khâu quan trọng nhất, tập trung công sức nhất là hình thành văn bản pháp lý – “Điều lệ thực thi bình quân địa quyền đất đô thị” và “Biện pháp qui hoạch lại đất đô thị”có nhiều nội dung trong đó, mà quan trọng nhất là các vấn đề liên quan giá đất, như tổ chức nghiên cứu xác định công thức định giá đất cho từng khu, từng lô cụ thể như thế nào, đánh thuế giá đất thế nào, chi trả giá đất trong giao dịch mua bán, trưng mua đất thế nào, xác định thế nào là phần giá đất tăng tự nhiên, cách tính cách thu và sử dụng khoản tăng này vào việc chung như thế nào, v.v…Tất cả những vấn đề đại loại như vậy, không thể giản đơn chủ quan của cơ quan chuyên môn suy nghĩ định ra, rồi thực hiện, mà là từ những qui định ban đầu, những Điều lệ tạm thời của cấp dưới chủ động đưa ra chỉ đạo thực hiện trong phạm vi hẹp của cấp mình, sau khi có chủ trương chung của cấp Trung ương; từ những kết quả điều tra khảo sát thực địa của chuyên gia các mặt kinh tế, địa chính, luật pháp, đoàn thể xã hội, … hình thành văn kiện của Tỉnh, Tỉnh lại trình lên Viện Hành chính xem xét tu sửa, Viện Hành chính lại trình lên Viện Lập pháp nghiên cứu xem xét, có ý kiến, lại tu sửa song song với quá trình thực tiễn tiến hành theo kế hoạch bước đi đã định.

Như năm 1956, nhà nước công bố chủ trương thực thi bình quân địa quyền đất đô thị, trước khi sửa đổi và công bố “Điều lệ bình quân địa quyền” năm 1977, các nơi dựa vào một số điều trong Luật ruộng đất năm 1946, triển khai thực hiện qui hoạch lại đất đô thị, ban đầu mới có 61 khu đô thị thực hiện đến 1976 đã triển khai ra 128 khu. Hoặc như thành phố Cao Hùng năm 1957 đã chủ động nghiên cứu định ra “Qui trình thực thi qui hoạch lại đất đô thị thành phố Cao Hùng” được Bộ Nội Chính phê chuẩn và chỉ cho áp dụng trong phạm vị thành phố Cao Hùng. Các huyện thị khác cũng làm như vậy. Năm 1962 chính quyền cấp tỉnh Đài Loan ban hành “Qui tắc qui hoạch lại đất đô thị tỉnh Đài Loan”, “Qui trình tổ chức Ủy ban qui hoạch lại đất đô thị các huyện thị tỉnh Đài Loan”. Hai văn bản này trình lên trung ương phê chuẩn, trung ương yêu cầu đưa nội dung trong hai văn bản này vào “Điều lệ thực thi bình quân địa quyền đất đô thị ” công bố năm 1964. Nhưng nội dung Điều lệ này chưa thật tỷ mỷ, các nơi triển khai thực hiện ngày càng nhiều, nên lại được điều chỉnh bổ sung và năm 1979 ban hành “Biện pháp qui hoạch lại đất đô thị” mới thực sự chu toàn, nội dung gồm 23 điểm chủ yếu. Sau 9 năm thực hiện “Biện pháp qui hoạch lại đất đô thị”, năm 1986, lần sửa thứ bảy “Điều lệ thực thi bình quân địa quyền đất đô thị” lại bổ sung một số điểm trong “Biện pháp qui hoạch lại đất đô thị”. Sau đó lại bổ sung sửa tiếp vào năm 1988, nội dung gồm 17 điểm chủ yếu : Chọn khu đất qui hoạch lại; Tiêu chuẩn định ranh giới phạm vi khu qui hoạch lại; Cách tiến hành tranh thủ sự đồng ý của người chủ sở hữu đất; Soạn thảo và công bố kế hoạch qui hoach lại; Điều tra hiện trạng và đo vẽ hiện trạng khu đất qui hoạch lại; Điều tra nguyên nhân hình thành giá đất trước qui hoach và dự kiến giá đất sau qui hoạch lại; Nguyên tắc phân phối đất; Tính toán chênh lệch giá đất và bồi thường giá đất; Công cáo phân phối thành quả qui hoạch lại đất và tiếp nhận ý kiến khác; Bồi thường di dời vật kiến trúc, mồ mả, cây trồng trên khu đất; Cấm di chuyển và xây dựng trên đất trong thời gian qui hoạch lại; Chỉnh lý địa tịch đất qui hoạch lại; Cắm mốc các giao điểm đất sau khi qui hoạch lại; Đấu thầu công khai chi phí qui họach lại; Xử lý khoản kết dư chi phí qui hoạch lại và khoản thu đấu thầu; Đốc thúc giao nộp khoản chênh lệch giá; Đánh giá và công bố kết quả qui hoạch lại đất đô thị.

Trải qua trên dưới 30 năm tiến hành cải cách đất đô thị (qui hoạch lại đất đô thị) đã tiến hành trên 400 khu với diện tích gần 4.800 ha, của 21 thành phố, quận, huyện của tỉnh Đài Loan (Cộng hòa Đài Loan gồm có đảo lớn Đài Loan, các đảo Bành Hồ, Mã Tổ và số đảo nhỏ khác; trong đó đảo lớn Đài Loan được tổ chức thành cấp tỉnh Đài Loan) đã đem là hiệu ích quan trọng trên các mặt:

Đã giải quyết được các mục tiêu, yêu cầu đô thị hóa ngày càng mở rộng, với chất lượng cao, trong khi ngân sách nhà nước hạn hẹp. Chính phủ đã bằng hai công cụ lớn là công cụ qui hoạch, kế hoạch, cách làm phù hợp, cụ thể và công cụ chính sách, quan trọng nhất là chính sách giá đất phù hợp lợi ích cụ thể các bên, vừa thể hiện các quan điểm tư tưởng lớn ở trên, vừa coi trọng tình hình thực tiễn từng nơi từng lúc đề luôn có sự điều chỉnh bổ sung phù hợp xuyên suốt trong 30 năm thực hiện, không hế đụng đến biện pháp hành chính, cưỡng chê di dời, thưa kiện. Vì các qui hoạch, kế hoạch, chính sách nói là của chính phủ, nhưng thực chất là của các bên liên quan cùng bàn bạc, thống nhất, chứ không còn là của chủ quan của chính phủ. Đã huy động nguồn lực trong dân, người sở hữu đất đã cung cấp đất và kinh phí để xây dựng các công trình công cộng. Trên 1.400 Ha diện tích dùng cho công trình công cộng không phải bồi thường, tiết kiêm chi phí trưng mua và phí xây dựng công trình gần 43 tỷ Đài tệ, bình quân người dân trong khu qui hoạch lại gánh chịu 36,58% tổng chi phí qui hoạch lại đất đô thị, vì các hộ cũng được hưởng lợi thỏa đáng trong đó. Như lợi thế của mảnh đất nay khác trước, nếu bán được giá hơn trước nhiều. Những khu đất trong phạm vi qui hoạch lại đã được qui hoạch toàn diện về cơ sở hạ tầng chìm nỏi, và bố trí hệ thống các công trình công cộng, phân lô vuông vắn, …đã tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng toàn diện từng khu đô thị cũng như tổng thể từng thành phố đi ngay vào hiện đại hoàn chỉnh về mọi mặt. Thực hiện đô thị hóa gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngay tại nông thôn, nông nghiệp, đồng đều ở tất cả các vùng, giúp cho sớm xóa cách biệt thành thị nông thôn, mật độ dân đô thị không tăng mà giảm hơn trước, từ 4.251 người/km2 năm 1976 giảm xuống 2.798 người/km2 năm 1987 và trong một thành phố cũng nhờ bố trí hợp lý các công trinh dịch vụ công, tránh được quá tập trung vào một số khu phố nào đó. Nhờ vậy đã nâng cao đời sống, mức sống, nếp sống đô thị văn minh hiện đại của người dân.

Giá đất đô thị được cân bằng hợp lý, tệ nạn đầu cơ đất tự nó tiêu tan.

Không chỉ ngày nay, mà cách nay 10 , 20 năm về trước, ai đã đến Đài Loan đều thấy, thành phố ngăn nắp, đường sá, hè phố thông thoáng, hiện đại. Hệ thống cung cấp điện, nước sạch, nước thải, khí ga, hệ thống thông tin, chiếu sáng, và các hệ thống dịch vụ khác…đến tận từng hộ, từng khu phố. Hệ thống công viên với các cấp độ quốc gia, thành phố, khu phố, đường phố đầy đủ, sạch sẽ cho mọi lứa tuổi, tầng lớp nhân dân sinh hoạt. Có thể nói bộ mặt của đô thị cũng như bộ mặt của người dân đô thị đều thể hiện rõ nét văn minh hiện đại của một đô thị thời hiện đại./.    

Nguồn tham khảo: Ghi chép cải cách ruộng đất Đài Loan của Uỷ ban văn kiện Tỉnh Đài Loan, năm 1989)                                                                                                                                        

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114599710

Hôm nay

2311

Hôm qua

2406

Tuần này

2311

Tháng này

226327

Tháng qua

131357

Tất cả

114599710