Nhìn ra thế giới

Pháp du hành trình nhật ký (9)

XVIII

Thứ bảy, 17 tháng 6.

3 giờ chiều hôm nay đi xem "Nghĩa sĩ từ" ở Nogent sur Marne, cách thành Paris về phía Đông chừng mười cây-lô-mét. Đây là nơi kỷ niệm những quân sĩ An Nam bị tử trận ở Pháp trong hồi chiến tranh vừa rồi.

Chỗ này chính là vườn thí nghiệm các cây cỏ thuộc địa; nguyên khi Đấu xảo Thuộc địa ở Marseille năm 1906 có làm một cái nhà gỗ kiểu An Nam để đấu xảo, gọi là "cái nhà Thủ Dầu Một", xong cuộc Đấu xảo thì nhà ấy đem tự Marseille về đây, dựng ở giữa vườn để làm như một cái phòng thí nghiệm về thực vật học. Kịp đến khi chiến tranh, bộ Thuộc địa định sửa sang lại, làm một nơi để kỷ niệm các quân sĩ Việt Nam đi tòng chinh mà chẳng may bị chết trận ở bên này, giao cho Hội "Đông Pháp Kỷ niệm" (Le Souvenir indochinois) có quan nguyên Học chánh Gourdon đứng đầu trông nom. Bây giờ thời nghiễm nhiên là một cái đền thờ vậy. Dưới trời Tây mà phảng phất có một nơi miếu mạo như bên ta, nhác trông thấy lòng quê luống những bồi hồi. Giá được vài cây đa, cây đề, cây muỗm, cây gạo ở trước sân, hay một lũy tre nữa ở đàng sau thời hệt như ngôi đình bên mình. Hồn tử sĩ ở miền minh mạc, ví còn quanh quất đâu đây, tưởng cũng hay đi lại chốn này để mơ màng trước cái hình ảnh tổ quốc ở nơi khách địa cho bớt nỗi thương nước nhớ nhà. Vào đến trong đền thời hương án chỉnh tề, hương hoa ngào ngạt, trướng đối rủ rê. Lại kia bức hoành phi của Hội Khai Trí gửi tặng năm xưa, bốn chữ Hán nét vàng còn chói lọi mà mặt gỗ đã nứt rạn. Thường thường những đồ sơn đồ gỗ của mình đem sang Tây hay nứt như thế, là vì khí trời bên này khô hanh, không ẩm thấp như bên ta, phải dùng thứ gỗ thật khô mới chịu được.

Trong anh em có ông khéo kiếm được một thẻ hương và nhớ mua được bao nến đem tự Paris đi, mỗi bàn thờ thắp mấy nén hương, đốt một cây nến, rồi cúi vái, gọi là tỏ tấm lòng mỗi người thương tiếc kẻ đồng bào. Ôi! Giọt máu người Nam, nên ơn Đại Pháp; dẫu sánh với sự hi sinh của con em quí quốc chửa thấm vào đâu thật, nhưng vượt bể xa khơi, đem thân tự mấy nghìn trùng mà đến bỏ ở nơi chiến trường đây, nào biết việc thế giới thế nào, thù nước Đức là chi, chẳng qua nghe lời Bảo hộ, tin lòng Bảo hộ, tình nguyện ra đi, mong lập công danh với đời, để rỡ tiếng con nhà Hồng Lạc, lòng can đảm ấy, chí kiên gan ấy, dù không oanh oanh liệt liệt cũng đáng kính phục cảm thương. Kìa những tay anh hùng võ sĩ nước Pháp kia, liều mình ở nơi tử địa, chết là biết rằng vì nước mà chết. Chứ còn các anh em đồng bào ta, bỏ làng bỏ nước, bỏ vợ bỏ con mà sang đây, khi bước chân ra đi, trong bụng nghĩ thế nào? Tưởng phần nhiều anh em cũng là người quê mùa, mộc mạc, chất phác, thật thà, lúc đi cũng chẳng nghĩ ngợi xa xôi gì, chẳng qua là thuận cái lòng khuynh hướng tự nhiên của nòi giống, dù mạo hiểm mặc lòng, muốn cố đi mà tìm kiếm lấy một lối sinh hoạt rộng rãi hơn. Nhưng cái lòng khuynh hướng ấy tức là cái sức “bản năng” (instinct) của giống- nòi ta, đời  đời đã khiến cho dân tộc Việt Nam ngày một bành trướng trên cõi bán đảo Ấn Độ, Chi Na kia, nguyên phát tích tự phía nam nước Tàu mà dần dần lan khắp cả các đồng bằng, rừng núi, thung lũng, cao nguyên, tự vịnh Bắc Kỳ cho đến vịnh Xiêm La, cơ hồ muốn ngập cả Xiêm, nuốt cả Lào vậy. Sức “sinh hoạt” nhưng cũng là một sức mạo hiểm, mà rút lại cũng là để phát siển cái tiềm lực của giống nòi. Cho nên anh em bỏlàng bỏ nước, bỏ vợ bỏ con, mà đến đem xương gửi nước người, dẫu thời thế có khác, mà lòng mạo hiểm không khác với tổ tiên đời trước trèo đèo lặn suối để khai thác cho nước Nam nhà. Mà anh em thuận cái sức “bản năng” của nòi giống đến mạo hiểm như thế, là anh em cũng có công với nước nhà, lại vừa có công với Bảo hộ, có công với Bảo hộ tức là có công với nước nhà đã đành, nhưng còn có công riêng với nước nhà nữa là nuôi được cái sức mạo hiểm của tổ tiên, không đến nỗi để cho tuyệt diệt vậy. Như thế anh em dẫu có quê mùa mộc mạc mà thật còn hơn chúng tôi đây, chẳng qua là một giống yêu văn, một giống mọt sách, đời đời đem cái tư cách văn nhược mà làm cho còm cõi cả giống nòi. Có lẽ anh em cũng không từng nghĩ đến nhưng lẽ đó, những kẻ thức giả phải nghĩ đến mà phải hiểu cái ý nghĩa thâm trầm của sự hi sinh của anh em, tức là phải biết công cho anh em vậy.

            Ấy trong khi dạo xem đền kỷ niệm, xem hết trong đền xem đến ngoài vườn, có dựng một tấm bia kỷ niệm riêng cho những chiến sĩ theo đạo Gia tôkhông thờ trong đền, trong lòng vơ vẩn như thế. Mãi đến chiều anh em mới thơ thẩn ra về.

Khi về có rẽ vào rừng Vincennes. Rừng này cũng như rừng Boulogne, là một nơi đi chơi mát của người Paris. Bên ta không có những "rừng chơi" như thế này, chỉ có những "rừng hoang", "rừng rậm"; nói đến rừng là nghĩ ngay đến những nơi ma thiêng nước độc, thú dữ người mường. Rừng bên ta là "rừng nhiệt đới" (forêt tropicale), là tổ hổ beo, là hang sốt rét; tuy cũng là cái kho lâm sản quý báu, nhưng không phải là chỗ sống người, lại quyết không phải là chỗ cho người ngao du. Rừng đây là rừng ôn đới, chẳng qua là cái vườn cái trại lớn, đủ có vẻ sầm tịch cho người ta được hưởng cái thú lâm tuyền, nhưng không sầm tịch quá đến u uất lặng lẽ khiến cho người ta ghê sợ. Chung quanh thành Paris thường có những nơi rừng như thế, những ngày mùa hè nóng nực, hay những buổi chủ nhật tạnh ráo, người thành phố đến chơi đông lắm. Ở giữa rừng Vincennes này có một trường tập bắn của pháo binh. Ngoài cửa rừng trông ra ngoài phố thì có một cái lâu thành cổ, xưa làm pháo đài, nay làm trại lính, kiến trúc kiên cố mà quy mô hùng vĩ, thật là một kiểu thành cũ đẹp nhất ở nước Pháp. Tiếc vì có binh lính đóng, khách du lịch không thể vào xem khắp ở bên trong được. Nghe nói trong thành có một sở bảo tàng bày những đồ cổ của nhà binh, có cho khách xem, nhưng hôm nay quá giờ rồi.

Tối hôm nay có hẹn lại ăn cơm ở nhà ông P., đường Saint - Germain. Ông hiện làm quản lý công ty "Đông Pháp và Phi châu Tổng Thương cục" (Union commercial indochinoise et africaine), tức là sở chính của nhà "Gô đa" Hà Nội ta. Vào khoảng năm 1908, chính ông đã làm quản lý nhà "Gô đa" bên ta mấy năm, nên ông vẫn nhớ bên An Nam lắm, hôm gặp ở tiệc "Công Thương ủy hội" có ý ân cần hỏi han và hẹn hò đến nhà chơi để giới thiệu cho bà vợ, ông em và hai cô con gái biết, vì ông đã từng nghe mình diễn thuyết ở trường Thuộc địa mấy tuần trước. Bà vợ người nhã nhặn vui vẻ lắm; hai cô con thì cô lớn sắp ra thi tú tài kỳ này, cô nhỏ thì chính sinh ở bên ta năm trước, nhưng hai cô cũng không còn nhớ gì về bên An Nam mấy tí nữa; còn một cậu con nhỏ nữa cũng đương đi học. Trước khi về nhà riêng, ông P. có hẹn đến chỗ hội sở ông gần đường Royale để cùng lại bộ Lao động (Ministère du Travail) tiếp chuyện và đón ông em ông làm sảnh trưởng ở đấy, rồi cùng về nhà nhân thể. Chức sảnh trưởng trong một bộ (Directeur de ministère) cũng là một chức to, gần bằng như Tham tri Thị lang trong Bộ ta. Ông này lại có chân "Tham chính viện" (Conseil d'état), kể cũng là một bậc quan lại danh giá. Người có học thức rộng và am thông việc chính trị lắm. Chuyện vãn ít lâu, rồi ba người cùng về nhà riêng ông P. ở đường Saint Germain. Tiệc chỉ có mình là người lạ, cả nhà xúm lại nghe chuyện bên An Nam; hai ông bà thì nhắc lại chuyện cũ, lại hỏi về những sự thay đổi trong khoảng mười năm nay; hai cô và cậu con thì nghe ra dáng có ý tứ lắm, như nghe giảng một bài địa dư vậy, thỉnh thoảng hỏi một vài câu dí dỏm cũng buồn cười, nhất là cô lớn lại có vẻ phong vận hữu tình lắm, tưởng giá chuyến này ra thi vào kỳ vấn đáp được hỏi về bên An Nam, cô chắc biết được nhiều điều hơn chị em, không sách nào có, và bấy giờ có lẽ cũng nhớ đến anh thầy giáo tình cờ ở đâu lại nói chuyện cho mình nghe. Nhưng hiện nay con mắt mơ màng cô đương nghĩ ngợi gì? Có lẽ hồi tưởng đến thuở nhỏ ở bên An Nam chăng? Nhưng cô sở biết người An Nam bấy giờ chắc chỉ mới biết thằng bồi Ba, thằng bếp Tư, thằng xe Năm mà thôi, chứ đã biết người An Nam là giống gì. Nay nghe chuyện như phảng phất mơ màng, cảnh cũ tình nay, giao cảm trong lòng, cũng khó biết được cô nghĩ ngợi gì. Nhưng mà con mắt hữu tình thay! Miệng cười có duyên thay! Không có cái vẻ đường đột tự do như các cô con gái Tây khác, lại có cái vẻ dịu dàng thùy mị như một vị tiểu thư khuê các ở Đông phương. Bây giờ mình mới biết cái ý nhị phong thú của con gái Ba Lê... Ông sảnh trưởng thì nói chuyện chính trị, chuyện giáo dục, tỏ ra một người có ý tưởng rộng rãi; ông xưa nay không nghiên cứu về việc thuộc địa, nhưng ông nói nước Pháp ở thuộc địa phải có một cái chính sách khoan dung đại độ, hợp với nhân đạo, thời mới thỏa lòng những bậc tấn thân và tiếp được dư luận trong nước. - Mãi đến mười một giờ mới cáo từ ra về.

 

Chủ nhật, 18.

Hôm nay gặp ông B. học trò trường Thuộc địa, năm thứ nhì, ban Đông Pháp. Ông sắp thi lên lớp nhất (năm thứ ba). Sang năm mà đỗ tốt nghiệp thì sẽ được bổ sang làm quan cai trị ở bên ta. Bấy giờ sẽ là một vị quý quan sang trọng, có lẽ chẳng nhớ hay là chẳng muốn nhớ đến anh em mình nữa. Nhân ông nghe mình diễn thuyết ở trường hôm nọ, muốn làm quen, cho nên hôm nay hẹn đến trọ chơi, đưa cho xem mấy tờ báo có bình phẩm về bài diễn thuyết của mình. Tính vui vẻ, hay nói đùa. Mà có một cái tài lạ, là chưa sang bên ta bao giờ, chỉ học tiếng An Nam ở bên Tây mà nói đã sõi lắm, hát được bằng tiếng ta, nhịp Tứ đại cảnh! Hỏi ra mới biết rằng khi chiến tranh ông có được ở gần lính An Nam, nên có dịp tập nói tiếng ta nhiều. Hạng này mà sang làm việc bên ta thì sành lắm đây, có lẽ sành hơn... quan An Nam. Cũng là một tay "hách" sau này đó.

4 giờ chiều hôm nay, quan Thượng thư Sarraut và ông Nghị viên Outrey tiếp các phái viên Nam Bắc Kỳ ở Kinh tế cục để giới thiệu cho ông Nghị trưởng Hạ nghị viện Raoul Perret. Nhân có đặt một cuộc chớp bóng các "phim" về Đông Pháp, tân khách mời đến xem đông lắm, toàn là những nhân vật thuộc về "thuộc địa giới" (les milieux coloniaux), nghĩa là những người trong các giới mà có quan hệ gần xa đến các thuộc địa, như nghị viên, nhà báo, các nhà công thương, các quan binh, các quan lại thuộc địa, v.v... Tức cũng là một cách quảng cáo cho Đông Pháp; và thứ nhất là quảng cáo riêng cho... quan Thượng và ông Nghị ta. Các phái viên hôm nay phần nhiều áo gấm cả. Đúng giờ ông nghị trưởng đến, các phái viên đứng dẹp ra hai bên đón chào, rồi một ngài phái viên Nam trung thay mặt anh em đọc một bài chúc mừng, mình đứng xa cũng không nghe được câu gì cả. Nghe đâu bài này là ông nghị Nam Kỳ đã soạn sẵn cho học thuộc lòng, đại khái cũng là tỏ cái lòng rất kính trọng ông Nghị trưởng, rất trung thành với Đại Pháp. Chính cuộc nghênh tiếp ông Nghị trưởng hôm nay cũng là tự ông Outrey xướng ra. Nhân bữa đi thăm cố hương đức cha Bách Đa Lộc, ông có tra trong gia phả đức cha thấy họ Perret cũng có họ xa với đức cha, ông bèn mượn sao lấy cả thiên gia phả, và định hôm nay mời ông Nghị trưởng Raoul Perret đến để tặng ông bản sao ấy giữa chỗ công đồng, tỏ ra rằng ông cũng có quan hệ với Đại Pháp. Thật như phương ngôn ta nói rằng: Thấy người sang thì... Nhưng mà nghĩ cũng là một cách thù tạc khéo. Người ta ở đời muốn cho tiến đạt chỉ cần phải thạo những cách đó là đủ. - Trong đám đông các tân khách, mình lại được gặp ông đốc trường Thuộc địa, chính là anh em họ với ông nghị Nam Kỳ, đứng nói chuyện giờ lâu, có cả bà vợ, người con gái và người rể, thảy đều bình phẩm về bài diễn thuyết của mình bữa trước. Ông nói rằng ông thật không ngờ cuộc diễn thuyết ấy có đặc sắc như thế, vẫn tưởng rằng người An Nam nói thời không khỏi ra ngoài những câu tán tụng thường, biết đâu lời thành thực dễ cảm người và nhiều chỗ nói thật mà không mất lòng, ông cho là khéo. Mình nghe được lời khen như thế, dẫu không đến nỗi nở mũi ra, nhưng trong bụng cũng thích, - nhân tình ai chẳng thế? - định về trọ biên vào nhật ký cho nhớ, vì xem ra ông này nói cũng thực tình, chứ không phải là lời đãi bôi.

 

Thứ hai, 19.

Gặp quan Đại tướng P. Ngài chỉ cho các chỗ nên đi xem ở Paris, lại hứa sẽ giới thiệu cho mấy ông nghị viên.

3 giờ chiều cùng với cậu H.Đ.D., học sinh trường Thuốc, đến thăm bà lớn Sarraut ở nhà riêng, đường Latour Maubourg. Nguyên khi ở Hà Nội đi, lệnh tế  là quan Chánh Liêm phóng ở Phủ Toàn quyền có cho giấy giới thiệu, nên bữa nay đến chào Bà lớn. Quan Thượng thư và Bà lớn không ở Bộ, vẫn ở nhà riêng. Bà lớn ân cần hỏi han, nói rằng vẫn nhớ bên An Nam lắm, khen người An Nam là một dân tộc khôn khéo, chăm chỉ và có tính thuần thục, dễ thương.

 

Thứ ba, 20.

Ông F. là chánh Công ty Rượu Đông Pháp có mời các phái viên về ăn cơm trưa ở nhà riêng ông ở làng Torsy, Seine et Marne, cách Paris 25 cây-lô-mét. Sáng sớm cho mấy cái ô tô đón anh em cùng đi. Cái biệt thự của ông đẹp lắm, đặt tên là Les Charmettes, chung quanh có cái trại mấy mẫu trồng các hoa quả. Hoa hồng không biết đến mấy chục thứ, quả hạnh (cerises) thời nặng trĩu trên cành, kể hàng mấy trăm gốc cây. Lại có đặt nhà "ôn thất" (serres) để trồng các thứ hoa cỏ lạ ở nhiệt đới. Trong vườn giữ sạch như li như lai, không có một cái lá rụng, một cái cành khô. Ông nói mỗi năm kinh phí về cái trại này tới mấy chục vạn quan. Tính ông thích làm vườn, những khi nhàn hạ thường ra trồng cây xới đất, cho là một cách thể thao tốt. Ông được tiếp anh em lấy làm vui vẻ lắm, vì phần nhiều ông đã từng quen biết bên An Nam. Dự tiệc, ngoài ông và các phái viên An Nam đủ mặt cả, còn có ông em ruột ông làm đại lý trong Công ty, bà em dâu, và hai đứa cháu gọi ông bằng ông bác. Hai thằng bé ngộ quá, mình chơi đùa với chúng nó lại càng thêm nhớ đến lũ con ở nhà. - Tiệc xong, chuyện vãn giờ lâu, rồi ra ngoài vườn chụp mấy cái ảnh làm kỷ niệm.

Chiều gặp hai ông D. và G. là hai người cán sự trong Hội "Đại Pháp Thuộc địa viện" (Institut Colonial française), ở đường Volney. Khi còn ở Marseille hai ông đã viết thư mời mình hễ đến Paris thời lại chơi, có ý muốn mời diễn thuyết ở Hội. Hôm nay hai ông cũng nhắc lại lời mời ấy, nhưng nói rằng đến cuối tháng tám hay đầu tháng chín các hội viên mới đông đủ cả. Mình không chắc còn ở đến bấy giờ không, nên không dám nhận. Vả sang đây là để đi chơi cho biết đó biết đây, phải có rộng thì giờ mới xem xét được, nếu cứ diễn thuyết hoài thì thành ra chỉ đóng cửa ngồi trong buồng mà cắm cổ viết, còn thú gì nữa. - Hai ông lại nói rằng hội Thuộc địa này là gồm nhiều người có danh giá, có thế lực ở nước Pháp, có ý muốn khoáng trương ra các thuộc địa, lập các hội sép ở mọi nơi, hỏi mình có thể đương được việc cổ động cho Hội ở bên ta không. Khi ra về, có đưa cho nhiều những chương trình, thể lệ và giấy má của Hội để về xem cho kỹ.

 

Thứ tư, 21.

Gặp ông nghị viên A., chủ tạp chí Revue du Pacifique (Thái Bình Dương tạp chí). Ông này là người đồng hạt với quan Toàn quyền Long, mới được nghị viện cử xét về sổ dự toán Đông Pháp, lại mới lập ra một tập nguyệt báo để nghiên cứu về việc Á Đông. Cũng là một tay sắc sảo trong phái thuộc địa ở nghị viện. Có người nói có ngày ông sẽ sang làm Toàn quyền Đông Pháp. - Buồng giấy ông ở cùng một nhà với Kinh tế cục Đông Pháp. Ông tiếp chuyện giờ lâu, hỏi han các việc bên An Nam; lại mời viết bài cho tạp chí của ông.

Gặp cô K., Tổng thư ký Hội "Đông Dương ái Hữu" (Socitété des Amis de l'Orient), ở viện Bảo tàng Guimet. Mình đã hẹn làm một bài diễn thuyết cho Hội này, trước khi dời Paris. Vậy bữa nay đến để định đầu bài và định ngày trước. Ngày thời định vào thứ tư mồng 5 tháng bảy mà đầu bài thời là nói về "Thi ca Việt Nam" (La Poésie Annamite). Đã không muốn nhận diễn thuyết ở đâu nữa, nhưng Hội "Đông phương" là một hội có tiếng, năm ngoái đã nghênh tiếp ông văn sĩ Ấn Độ Tagore, nay mời đến mình, cũng là một sự danh giá cho mình, nên cũng phải cố vậy. Thế là lại mất ba bốn ngày nằm hầm trong buồng để soạn bài. Mà ở đây tài liệu không có, sách vở không có, soạn cũng khó. Chỉ có một quyển Kiều, tối tối mấy anh em cùng trọ họp nhau lại pha chè uống cùng ngâm với nhau mà thôi.

 

XIX

Thứ tư, 21 tháng 6[1].

Buổi tối đi xem hát ở rạp Grand Guignol, đường Chaptal. Gần đây nghe tiếng rạp này xướng ra một lối diễn kịch mới, thiên hạ hoan nghênh lắm. Đặc sắc của rạp này là diễn những bài ngăn ngắn, khiến cho mỗi buổi diễn được bốn năm bài, bi kịch, hí kịch xen lẫn nhau, và bài nào cũng chú trọng về bộ, về cảnh, không kém gì lời văn.

Trong chương trình hôm nay có năm bài, bốn bài hí kịch độ một hồi hay hai hồi ngăn ngắn và một bài bi kịch có hai cảnh (tableaux). Bài sau ấy là lối "kịch bằng cảnh" (pièce en tableaux), lấy cảnh mà giúp thêm cho lời nói, lối này tưởng các rạp ở nước ta có thể châm chước mà phỏng theo được.

Bài bi kịch xem cảm động quá, đề là "Một đêm ở Luân Đôn" (Une nuit à Londre ou The Black Veil) của Gustave Frajaville và C. Choisy (là quản lý rạp Grand Guignol) rút trong thuyết bộ của nhà văn sĩ nước Anh Dickens và đặt thành cảnh. Truyện một người đàn bà già có con phạm trọng tội phải án xử tử thắt cổ, sớm mai hành hình, đêm đến tìm một ông thầy thuốc danh sư nọ, kêu van ông ngày mai đúng giờ ấy đến nhà bà cứu cho một người sắp chết, nhưng không nói rõ vì cớ gì; hôm sau ông đến, xác mới khiêng về, nhưng đã chết rồi không thể cứu được nữa. Bấy giờ ông mới hiểu là người tội nhân mới bị thắt cổ; nhưng người mẹ trông thấy xác con như phát điên lên, cứ ôm lấy mà than khóc kể lể một cách rất thảm thiết, một mực van ông cứu cho, bà nói: "Con tôi dại dột, nó quá nghe anh em mới đến nỗi này, chứ nó không đáng tội. Tôi xin ngài, tôi van ngài cứu cho con tôi, nó chưa chết đâu"… Ông thầy thuốc bấy giờ trong lòng cảm thương bi đát vô cùng, vẫn biết rằng kẻ phạm tội với xã hội, thời xã hội có quyền trừng trị, ấy là lẽ công bằng, nhưng mà trị kẻ có tội mà để thương, để xót, để đau, để khổ cho người không tội, há phải là lẽ công bằng sao? Song cái công lý của người đời chỉ biết thô lược như thế thôi; người ta ăn ở với nhau lấy một công lý mà xử chưa đủ, phải có lòng từ bi bác ái mới được, vì trông thấy cái cảnh đau khổ của bà già này, ai là người cầm lòng cho đang?... - Diễn khéo quá, tài quá, dáng bộ cảnh bày hiển nhiên như thực, khiến người xem rùng mình sởn tóc, lay chuyển cả quả tim, cảm kích đến phải chẩy nước mắt ra. Có bà đầm ngồi bên nức nở khóc đến mười lăm phút đồng hồ. Người ta nói có khi có người cảm kích quá ngất người ngã ra. Trong bài kịch, lời nói không có mấy, mà những lúc không nói lại là chỗ hay nhất.

Xét ra văn diễn kịch phải là văn cứng cát lắm mới được; văn quốc ngữ ta bây giờ còn non nớt, dùng vào diễn kịch không khỏi khuyết điểm. Vậy nếu bây giờ có một lối kịch như lối kịch bằng cảnh đó, lấy cảnh mà giúp sức cho lời văn, thời hợp với trình độ của ta lắm. Vả lại lối này là đoản kịch, chỉ một vài hồi mà thôi, và diễn không đầy một giờ đồng hồ, tưởng bắt chước cũng không khó.

Trong lời quảng cáo của rạp Grand Guignol này có nói: "Rạp Grand Guignol ngày nay cả thế giới đều biết tiếng là nơi kịch trường ở Paris diễn được lắm bài ly kỳ, có khi kết cấu cũng bạo, nhưng bao giờ cũng có đặc sắc văn chương. Rạp này đã có một lối riêng, thiên hạ đến xem đặt tên cho là genre Grand Guignol, bất cứ hí kịch hay bi kịch, bao giờ cũng có một cái vẻ đặc biệt, có khi cảm kích vô cùng. Những bài bi kịch thời hành động mau, và giống hệt như sự thực, vì lối diễn kịch này không có dung được những cảnh giả dối. Phàm diễn ra là đều diễn cái chân tướng của sự đời, nồng nàn, mãnh liệt, khốc hại, hung tàn, cốt lấy thực, mà trong sự thực có cái vẻ đẹp thâm trầm ở đó. Hí kịch thì bao giờ cũng có văn chương, cũng có trí tuệ, khi thời sự xảy đột ngột, khi thời đối đáp dĩnh ngộ, làm cho tức cười không nhịn được, v.v...".

 

Thứ năm, 22.

Ngày thứ năm, ở Théâtre Française (tức là Comédia Française) thường có diễn kịch ban ngày, và diễn những kịch cổ điển cho học trò các trường xem. Nhân xem nhật báo thấy hôm nay diễn bài Le Bourgeois gentilhomme của Molière (tức ông Vĩnh dịch là Trưởng giả học làm sang), anh em rủ nhau đi xem. Bắt đầu diễn từ 1 giờ 30 trưa, đến 5 giờ mới xong.

Bài này Hội Khai Trí đã diễn năm trước, chắc là không bao giờ bằng người ta được, nên có ý nhận kỹ xem họ hơn mình cái gì. Phường hát ở đây là những tay nghề có tiếng trong nước, mà bài này lại là một bài cổ kịch, họ diễn đi diễn lại không biết đến mấy trăm mấy nghìn lượt rồi, chắc là phải thạo lắm, phải hay lắm. Thế mà cứ bình tình mà xét, cũng không lấy gì làm tài cho lắm, sánh với bọn tài tử của mình diễn năm nọ cũng là một tám một mười mà thôi, chứ không đến nỗi cách xa nhau một trời một vực, như mình vẫn tưởng thế. Nhưng có ý nhận ra không phải là họ không có thể làm hơn nữa đâu, nhưng vì là bài cổ kịch nên họ cũng diễn chiếu lệ đó mà thôi, không có ý cẩn thận, không có ý trau chuốt, nên còn có chỗ sơ suất, còn có chỗ khuyết điểm.

Độ này ở nghị viện đương thảo luận về vấn đề cải cách trung học, nên theo hẳn về đường tân học hay là nên giữ lấy phần cổ học La Mã, Hy Lạp. Có hai đảng phản đối nhau: đảng tiến bộ thì theo về tân học, đảng bảo thủ thì muốn giữ cổ học. Mà chính phủ có ý khuynh hướng về đảng bảo thủ, muốn đổi lại chương trình trung học, đặt thêm phần cổ văn Hi - La xen vào với các môn học mới khác. Không những ở nghị viện các đảng cãi nhau phân vân, mà trong dân gian cũng chỗ này diễn thuyết, chỗ kia hội họp, kẻ bàn ra, người bàn vào, kẻ tán thành, người phản đối, bên nào cũng có một phần lẽ phải cả. Tối hôm nay có một cuộc diễn thuyết của hội Université nouvelle (nhất danh là Les Compagnons), thuộc về đảng tiến bộ, tổ chức tại Hôtel des Sociétés savantes, đường Danton, để cùng bàn về vấn đề ấy. Nhật báo đăng có mấy ông giáo trường Đại học Sorbonne diễn thuyết. Vậy cơm tối rồi, thủng thẳng đến nghe xem nghị luận thế nào. Người dự cuộc cũng đông lắm, mình đến thì đã thấy bắt đầu rồi. Có hai ông giáo Guignebert và Mornet diễn thuyết, đại khái nói rằng cổ văn tuy hay thật, nhưng không thích hợp với thời nay, không nên cưỡng bách con trẻ phải học, sợ chậm mất thì giờ của chúng nó và hại đến các món khác còn cần hơn. Sự giáo dục cần phải ban bố cho khắp trong dân gian: ấy là nghĩa vụ cốt yếu của một nước dân chủ. Vậy phải mở rộng các trường trung học cho trẻ con bình dân vào, không nên đặt chương trình khó khăn để hạn chế. Trong bình dân thiếu chi những con trẻ thông minh tuấn tú: phận sự của quốc gia là phải ra công đề bạt cho những trẻ ấy được hưởng sự giáo dục hoàn toàn, và sau này có cách trổ tài xuất chúng. Vậy quốc gia phải cấp lương học cho những trẻ có tư cách ở các trường tiểu học để cho chúng nó vào trung học được. Bậc trung học phải mở rộng cho cả quốc dân, chứ không thể để riêng cho một bọn có tư bản được. - Hai ông giáo này nói thạo lắm: ôn tồn dễ nghe mà lại có cái vẻ hoạt bát hùng hồn. Nghe biết là những người đã quen giảng học, và cũng quen nói với công chúng.

Ở một nước tự do có khác, bất cứ chuyện gì cũng có thể đem ra công chúng mà nghị luận được. Kẻ nói đi người nói lại, quốc dân đứng giữa mà phán đoán. Chính phủ ở trên mà chiết trung, tưởng còn hơn là cái chính sách "bịt bung", rút lại chẳng có lợi cho ai hết. Song cho được đủ tư cách nghị luận hay là phán đoán, cái trình độ văn minh cũng phải kha khá mới được, nếu còn thấp kém lắm thì dẫu được quyền bàn cũng chẳng biết bàn gì, được quyền nói cũng chẳng biết nói sao, nói lắm bàn lắm càng lại nát chuyện nhiều, huống lại còn biết phán đoán sự hay sự không, lẽ phải lẽ trái là gì nữa! Nhưng muốn nâng cao trình độ dân thì có cách gì? Duy có sự học mà thôi[2]...

 

XX

Thứ sáu, 23 tháng 6.

Buổi sớm đến thăm quan cai trị C., ở Kinh tế cục, đưa bản thảo bài diễn thuyết ở trường Thuộc địa để đem in. Nguyên sau hôm diễn thuyết có nhiều quý quan khuyên nên in bài diễn thuyết, cho công bố được rộng hơn. Nhưng in sách ở bên này đắt lắm, lấy tiền đâu mà làm được. Vả lại không phải là thứ sách bán được; có in ra chẳng qua cũng để tặng các nhà văn sĩ, hay nhà chính trị có để ý về việc thuộc địa để mong cho người ta biết đến nước Nam mình một chút, thế mà thôi. Cũng có một vài cái báo muốn xin để đăng, nhưng đăng trong báo thì lẫn lộn với các bài khác, tất không ai chú ý đến. Bên này người ta còn nhiều những việc tầy đình, việc thuộc địa, việc nước Nam mình có ai cho vào đâu. Thật có đi ra ngoài mới biết thế giới là rộng. Các báo lớn bên này, thường mỗi tuần lễ hay nửa tháng mới có một mục nói về việc thuộc địa, mà đặt vào trang thứ tư hay thứ năm, chứ có được vào trang nhất hay trang nhì bao giờ. Như mình chuyến này cũng là may lắm, được mấy cái báo như La Dépêche coloniale, L'éclair, l'Echo de Paris, Comoedia, chú ý đến, nói về sự diễn thuyết và lại trích mấy đoạn diễn thuyết nữa. Song bài nhật báo thời cũng không ai để ý xem cho kỹ làm gì. Nhân nói chuyện với quan cai trị C., ngài nói rằng để sẽ bàn với Kinh tế cục xuất tiền ra in cho, không ngại gì, vì Kinh tế cục vẫn có một bộ tùng thư in những bài khảo cứu về Đông Pháp. Bởi thế nên hôm nay đem bản thảo đến cho ngài, ngài hứa sẽ bảo in riêng ra mấy trăm quyển để gửi về nhà, còn ở Pháp này muốn biếu hay tặng những ai, cứ kê tên ra sẵn, khi nào in xong sẽ gửi thẳng cho những người ấy. Thế thật là tiện cho mình đủ đường.

Chiều hôm nay được quan đại tướng P. cho phiếu vào xem ở Thượng nghị viện. May lại gặp giữa buổi một ông nghị (nghe đâu thuộc về đảng xã hội, không rõ tên là gì) đương chất vấn chính phủ về việc trong khi chiến tranh, quan binh có kết án lầm mấy người lính đem xử tử vì tội tháo lui trước quân giặc, sau xét ra mới biết rằng án ấy oan và mấy người lính kia vô tội, tức gọi là cái án Vingré. Ở Thượng viện tuy thường vẫn êm ái hơn ở Hạ viện, nhưng cũng có khi nghị luận kịch liệt; hôm nay kể cũng là một buổi kịch liệt. Ông nghị chất vấn chính phủ này hết sức công kích bọn quan binh vì võ đoán mà đã làm chết oan mấy mạng người, công kích chính phủ đã dung túng những cách võ đoán như thế. Ông nói rất là hùng hồn cảm động: có một lúc ông đập tay xuống bàn mà nói to lên rằng: "Ừ, nào có phải thiệt oan mấy mạng người mà thôi đâu, còn để cái khổ cái nhục cho người sống nữa! Các ngài có nghĩ đến tình cảnh những cha mẹ, những vợ con mấy người chết oan ấy không? Các ngài có nghĩ đến cái đau đớn, cái tủi nhục vô cùng của lũ trẻ con kia, trong khi các trẻ con khác trong làng có cha anh đi trận về, nào là mền đay, nào là bội tinh, nghênh ngang vang vẻ trong làng xóm, mà mình hễ thò mặt ra đầu ngõ thời người ta vạch mặt gọi tên nói rằng: "Thằng này là con thằng phản quốc đây. Cha nó ngày trước đã bị xử tử". Các ngài có nghĩ đến những nông nỗi đắng cay chua xót ấy trong lòng một kẻ hài nhi không? Kẻ hài nhi ấy sau này là dân nước đấy, là lính nước đấy! v.v…". - Quan Binh bộ là ông Maginot, người cao lớn, giọng dõng dạc, rõ ra cái thái độ một quan Thượng thư Binh, lên diễn đàn đáp lại, đại khái nói rằng: "Chính phủ cũng biết án đó là lầm, tội đó là oan. Nhưng mà đương buổi chiến tranh bối rối, những sự oan uổng ấy làm sao mà tránh cho khỏi được? Vả lại, dù thế nào nữa, việc đã dĩ nhiên rồi, bây giờ nói sao cũng không thể khôi phục được mệnh người nữa. Như vậy thì dở dói ra làm chi cho thêm nỗi đau lòng. Thôi thời bây giờ chính phủ đã nhận lỗi, sẽ ra sức giúp đỡ cho cha mẹ vợ con những người ấy, ban tiền dưỡng lão, tiền tuất cô , tiền tuất quả cho người ta được yên thân. Vả trong buổi binh hỏa dị kỳ, những người chết oan chết khổ biết là bao nhiêu, biết mấy mươi nghìn vạn mà kể: tổng chi cũng là chết cho nước cả! v.v...". - Quan Binh bộ hết sức biện bạch, mấy ông nghị về đảng phản đối nhất định không nghe, xin phải tra cho ra lỗi tự ai và làm tội những viên tướng tá đã kết cái án oan ấy. Hai người nói cùng giỏi cả, nói xong đảng nào vỗ tay cho người đảng ấy, biểu đồng tình. Duy người xem thì không có phép vỗ tay, phải giữ thái độ khách bàng quan, nghe nói hay, nghe nói dở, cũng phải cứ nghiêm lặng như không; ấy là lệ trong nghị viện như thế!

Sáng sớm mai Hoàng thượng đến Paris. Mình tuy không dự sự gì, nhưng cũng là người An Nam, tưởng nên cùng anh em ra đón ở ga cho phải phép. Song tự mình đã không đóng vai gì mà đánh cái áo gấm xúng xính, thời chỉ tổ cho thiên hạ chỉ trỏ vô ích, thà rằng làm hoàn toàn một anh khách quan còn hơn. Bởi thế nên mấy bữa nay phải đi cắt một bộ jaquette mấy trăm quan, lối này là một lối lễ phục không trọng thể mà cũng không tầm thường, trung bình, mặc vào dịp nào cũng được. Mình mặc jaquette, đầu đội mũ "quả dưa" (melon), coi cũng "ra phết" một thầy "thư ký toà sứ” (tòa sứ đây không phải như tòa sứ bên mình). Vào hiệu ảnh chụp cái ảnh gửi về nhà, người thợ ảnh cho là một viên quan lại ở toà sứ Nhật Bản, nhưng lại nói rằng: "Ông là người Nhật thì khí cao quá". Mình nghĩ bụng rằng nếu quả được là người Nhật, - dẫu là một người Nhật "quá khổ" nữa mặc lòng, - thì còn gì bằng!...

 

Thứ bảy, 24.

10 giờ sáng, Hoàng thượng đến Paris, đi chuyến xe lửa riêng ở Lyon lên; đỗ ở ga Bois de Boulogne là nhà ga để riêng đón các bậc vua chúa. Hoàng thượng đi cùng với quan Thượng thư Thuộc địa Sarraut; quan Giám quốc và quan Thủ tướng có phái đại biểu ra đón. Kèn, trống, cờ, quốc ca, lính bồng súng, lính kỵ mã, nghi vệ cũng như nghi vệ thường, tưởng không có gì là đặc biệt. Có lẽ chỉ có lạ mắt cho người Paris là các sắc gấm sặc sỡ của các quan hộ giá. Mình không được biết thành Paris xưa nay đón các bậc đế vương các nước thế nào, nên không thể so sánh được lần này với các lần kia khác nhau thế nào. Nhưng nhận ra người đứng xem ít lắm. Nghe khách qua đường thấy đám lạ dừng lại xem, chỉ thấy nói: "Ồ! Họ ăn mặc hay nhỉ! Kỳ nhỉ!"; có người lại hỏi lẫn nhau: "Người nước nào vậy?".

Anh em cất mũ cúi chào, thế là hết phận sự thần dân ở nơi khách địa, rồi vua quan trảy về dinh quan Thuộc địa, bọn mình cũng nhân mũ cao áo dài thuê xe hơi dạo quanh một vòng phường phố, mặc dầu cho thiên hạ cho là người Tàu hay người Nhật, cũng chẳng hề phải biện bạch là giống An Nam.

Cơm trưa rồi, đi chơi cửa hàng Bon Marché ở đường de Sèvres. Hàng này vào hạng các "cửa hàng lớn" (grands magasins) như Le Louvre, Le Printemps, Galeries La fayette, v.v... bán đủ các đồ hàng, thứ nhất là đồ ăn mặc. Hàng này rộng bằng mấy dẫy phố thông luôn, tầng trên, tầng dưới, tầng hầm, ngõ ngang, ngõ dọc, thang cuốn, thang máy, kẻ lên người xuống, người ra kẻ vào, lúc nào cũng tấp nập như ngày hội, đi vào đấy không khỏi lạc đường, vào phố này mà ra tận đầu phố kia. Nhân vào khu bán các đồ chơi trẻ con, mua mấy thằng phệnh, con thú và cái xe, để gửi về lũ trẻ ở nhà cho vừa kịp tết tháng tám. Nhà hàng nhận gói gửi cẩn thận, chỉ phải chịu thêm tiền bưu phí mà thôi. Lũ trẻ nhận được mấy gói này chắc là mừng lắm. Nghĩ đến chúng nó lại càng thêm nhớ; nhưng mình nhớ nhà có lẽ nhà lại nhớ mình hơn, vì người đi còn có dịp khuây khỏa, chứ kẻ ở thường hay chuyên lòng tơ tưởng; đó cũng là cái thường tình của người ta, dẫu người anh hùng còn không khỏi, huống nữa là kẻ tầm thường. Nhưng có người nặng tình thê tử quá, chưa bước chân ra khỏi cửa đã thương nhớ sụt sùi, lúc nào cũng như đeo cái mặt sầu kẻ tha hương, như thế thì cũng quá. Người nước mình phải cái nỗi gia đình bận bịu, lắm khi cũng ngăn trở cho người có chí.

Ở hàng Bon Marché ra, cạnh ngay đấy là đường du Bac. Sực nhớ đây chính là nơi nội sở của hội Truyền giáo Viễn Đông (Séminaire des Missions étrangères). Cố R. cùng đi tầu với chúng mình mấy tháng trước có hẹn khi nào lên Paris vào đây thăm, mà bấy lâu chưa có dịp nào. Anh em bèn rủ nhau vào thăm cố. Đây chính là nơi nhà dòng chính để luyện tập các cố đi sang truyền giáo ở bên ta. Trong phòng khách thấy có treo mấy cái hình Đức cha Bách Đa Lộc. Cố được gặp mặt anh em lấy làm vui vẻ lắm, hỏi han về sự cảm giác ở Paris thế nào. Sự cảm giác của chúng mình thì chắc là tốt cả, chỉ hiềm không có thể ở nơi đây lâu được mà thôi. Về phần cố thời nói rằng vì bận công việc nhiều, có lẽ đến cuối năm hay đầu sang năm mới trở lại Á Đông được.

 

Chủ nhật, 25.

Còn nhớ Maurice Barrès có câu nói rằng: "Nhìn bức tranh đẹp mà cảm, không phải là cảm cái nét bút nó vẽ khéo, không phải là cảm cái mầu sắc nó tốt tươi, chính là cảm cái tâm tình của người hoạ giữa lúc cầm bút vẽ vậy" (Ce que l’on admire dans un tableau, ce n’est pas la couleur, nile dessin, mais plus profondément la quanlité de l’âme de l’artiste au moment où il peignit). Vậy thời muốn hiểu một bức họa phải hiểu cái tâm tình của người họa. Như xem bức tranh Tàu, vẽ một cái lều gianh với một khóm trúc ở giữa đám núi đá gồ ghề, tưởng ngay đến cái cuộc đời thanh tĩnh của một người đạo sĩ ẩn mình ở chốn sơn lâm; hay là vẽ chiếc thuyền con đủng đỉnh trên mặt nước thời nghĩ ngay đến cái tư cách an nhàn phóng dật của một tay thi ông mặc khách nào lấy gió mát trăng thanh làm bạn, câu thần chuốc rượu làm duyên mà vui qua ngày tháng trong chốn sơn thủy hữu tình. Chí ư trông bức tranh mẫu đơn tức nghĩ đến cái vẻ đẹp của người mĩ nhân; trông bức tranh tùng bách, tức tưởng đến cái tiết tháo của người cao sĩ. Bởi thế nên mắt nhìn mà lòng cảm, vì tựa hồ như người xem trông qua bức họa mà thấu được tới tâm tình của người họa vậy. Nay đối với các bức danh họa của Tây, mình không hề có cái cảm như thế bao giờ. Một người thuần cựu học mà xem tranh Tây không có cảm gì thì còn có lẽ, chứ mình cũng sở đắc ở Tây học ít nhiều mà không biết thưởng thức cái hay cái đẹp của mĩ thuật Tây phương, thì cũng lạ thật. Có lẽ bởi cái óc tối tăm mà chưa khai quang được ra chăng? Hay là bởi con mắt thịt thiếu cái tia sáng về mỹ thuật? Chẳng hay bởi cớ gì, nhưng trông những bức vẽ đàn bà trần truồng thỗn thện, thịt bắp vai u, thật không hiểu cái ý tứ của họa giả thế nào. Nghe người ta cắt nghĩa thì cũng biết vậy; đọc thấy trong sách thì cũng hiểu vậy; thấy người khen thì cũng khen theo cho khỏi mang tiếng dốt, chứ cứ thực thì chẳng có cảm một chút nào. Có lúc nghĩ lẩn thẩn những bức họa họ cho là tuyệt bút kia, giá đáng kể hàng muôn hàng triệu, tưởng giá có người cho để treo nhà cũng không lấy làm thích, vì không hiểu nó là cái gì. Nhiều khi vẫn lấy cái đó làm một điều khuyết điểm trong sự giáo dục của mình, mà tự lấy làm băn khoăn một mình. Vì những cái công trình mỹ thuật kia, cả một phần thế giới có tiếng là văn minh đều công nhận là tuyệt phẩm tuyệt tác, mà mình tuyệt nhiên không biết cảm phục, thời chẳng là ngu và dốt lắm dư? Cũng biết thế, nhưng không thể làm sao được, thời thà thú thật rằng ngu và dốt còn hơn miễn cưỡng mà a dua. Song xét cho cùng ra thì có lẽ là bởi cái tinh thần của Đông Tây khác nhau, thuộc về đường học vấn, đường nghĩa lý thời sự mâu thuẫn ấy còn có thể giải quyết điều hòa được, chứ thuộc về đường mỹ thuật, đường cảm giác thời sự mâu thuẫn ấy lại càng biểu lộ ra rõ rệt vậy. Bởi thế nên sách Tây, nghĩa lý Tây, ta có thể hiểu được, mà đàn Tây, hát Tây, tranh Tây, ta không bao giờ hiểu được bằng người Tây. Có khi tưởng rằng hiểu, mà xét kỹ ra thật chưa hiểu, vì không có cảm. Lại có khi miễn cưỡng muốn cảm cho được, nhưng cái cảm đó không cho là thành thực được. Cho nên mỗi lần thấy có người nhìn bức tranh Tây khen là đẹp, nghe bài đàn Tây khen là hay, mình vẫn tự hỏi không biết lời khen ấy có quả là thành thực không? Đông Tây tuy vậy vẫn còn xa cách nhau lắm.

Nhân hôm nay đi xem bảo tàng Le Louvre một lần nữa, nên về mới nghĩ ngợi lan man và nghị luận lông bông như thế. Trong mấy giờ đồng hồ, mắt nhìn không biết mấy nghìn bức tranh, mấy trăm pho tượng, thật là bao nhiêu cái tinh xảo của văn minh mỹ thuật Thái Tây trong mấy trăm năm tích tụ cả lại đây, nhiều cái cũng biết là đẹp, cũng phục là khéo, nhưng thật chưa được hiểu rõ cái tinh thần nó thế nào.

Khi xem xong ra về, mua mấy pho sách về nghề họa và nghề chạm của nước Pháp (sách bán ngay trong nhà bảo tàng) và một hộp cartes postales chụp ảnh những tranh và tượng đẹp nhất trong viện này. Bao giờ về nhà rảnh thì giờ thử nghiên cứu xem có hiểu được cái tinh thần của mỹ thuật Thái Tây không. Nếu thật không thể cảm được thời có lẽ phải chịu cho cái câu của văn sĩ nước Anh Rudyard Kipling: "Đông là Đông, Tây là Tây, không bao giờ gặp nhau được" là phải vậy.

Ông V. giỏi thật. Ít người có cái tài tháo vát như ông. Nghĩ bọn mình đi chơi ở Paris, nếu cứ cuốc bộ thì không đi được mấy tí, mà mỗi bước một lên xe thì hại tiền quá; nhân đọc báo thấy có người có cái ô tô muốn bán, ông liền mua ngay, rồi làm đơn xin sở tuần cảnh cho giấy phép cầm máy lấy. Muốn được phép phải cầm máy thử trong mấy nghìn thước, ở nơi đường phố đông đảo, mà đường phố bên này nguy hiểm hơn bên ta biết bao nhiêu. Thế mà ông "thi" được, chẳng kém gì các trạng "sô-phơ" bên này. Ông nói rằng mua cái xe như thế, tự mình cầm máy được, thì chỉ phải mất tiền dầu mà đi chơi tiện biết bao nhiêu, nếu xem ra xe tốt dùng được thời khi về sẽ đem về, nếu không tốt lắm thời sau này bán lại cũng không thiệt gì. Cái xe sơn vàng, hiệu Berliet, trông cũng ra dáng. Hôm nay mới lau dầu xong, anh em lên xe, dạo chơi phường phố, nghiễm nhiên ra một bọn phong lưu công tử. Ông chủ cầm máy, một người ngồi bên cạnh trông bản đồ xướng lên từng phố. Lắm lúc đi đường nọ ra đường kia, vì có ai thuộc đường đâu. Nhưng đi đã không có mục đích thời đi đâu thì đi, đâu cũng là đi chơi cả. Bọn mình ở nhà ai cũng có công này việc nọ, bước chân ra cửa là có việc phải đi, có nơi phải đến, nay mới biết cái thú đi chơi lông bông.

Hôm nay đem cả M.B. học trò trường Thuộc địa, - sắp quan cai trị chúng mình nay mai đây, - cùng đi chơi. Đi bâng quơ một hồi, rồi sau định lên thẳng xóm Mông Mạc, nhưng không phải là chủ ý thăm các "chị em", vì "chị em" đây - cũng như chị em bên ta, - không có "làm việc" ban ngày, và xóm này giữa thanh thiên bạch nhật thường vắng ngắt buồn tênh, chỉ bắt đầu từ 8, 9 giờ đêm trở đi mới thấy đèn như sao sa, người như kiến cỏ, tiếng đàn ánh ỏi, khói thuốc mịt mù. Xóm Mông Mạc không phải chỉ là một xóm thuyền thợ nữa. Trừ mấy phố lớn toàn những hàng ăn, hàng rượu, rạp múa, rạp hát, còn thì những đường dốc quanh co, nhà ở cũ kỹ, vì đây chính như một nơi cao nguyên ở giữa thành Paris, cho nên lên chơi đây gọi là "lên dốc" hay lên "lên đống" (monter vers la Butte). Ở chỗ cao nhất có dựng một toà nhà thờ tên là Basilique du Sacré -Coeur" (Nhà thờ Quả tim thánh), kiểu romano - byzantin, trông rất là vĩ đại, xây ngoài bằng cương thạch, trong bằng cẩm thạch, lại lồng những kính vẽ rất lộng lẫy, dài 100 thước, rộng 50 thước, trên có cái mái tròn cao 60 thước và cái gác chuông cao hơn 90 thước. Nhà thờ này bắt đầu làm từ năm 1875 bằng tiền của thập phương cúng, mãi đến năm 1921 mới xong. Trèo lên trên gác chuông thời gồm được toàn cảnh thành Paris, trông vùng ra bốn bề được tới 50 cây-lô-mét. Quả chuông đây có tiếng là to nhất nhì trong thế giới, đúc năm 1895, nặng tới 1 vạn 7 nghìn 7 trăm 35 kí-lô. Trước mình vẫn tưởng rằng các nhà thờ lớn là lối kiến trúc đời xưa, nhất là đời Trung cổ, thiên hạ có lòng sùng đạo hơn bây giờ, không ngờ ngày nay lối ấy cũng còn thịnh hành mà giữa thế kỷ thứ 19 người Tây phương còn có đủ lòng tín ngưỡng mà dùng tới năm mươi năm trời, mấy trăm triệu bạc để dựng nên một nơi giáo đường vĩ đại như thế này. - Hôm nay là ngày chủ nhật, thập phương đến lễ đông lắm; bước chân vào trong nhà thờ thấy người đứng chật ních cả, phần nhiều là những hạng bình dân, người lao động, tiếng đọc kinh, tiếng cầu nguyện, tiếng chuông đánh, om om như trong một cái đỗng lớn, mà ở giữa bàn thời hàng nghìn cây bạch lạp lấp lánh trong xa xa. Coi cũng có cái vẻ uy nghiêm thật.

Ở nhà thờ ra trong bụng vơ vẩn, nghĩ rằng người ta ở đời có sống là có khổ, cho nên tôn giáo nào cũng bày phương cứu khổ cho loài người. Xem như những bọn làm ăn lam lũ này, đầu tắt mặt tối cả ngày, chiều đến vào cầu ở nhà thờ cũng quên được nỗi lao khổ đi ít nhiều, và mong rằng đời này khổ đời sau có lẽ được sướng hơn. Lòng tín ngưỡng là cái của quý của loài người, người nào đã mất lòng tín ngưỡng thời cũng nên tự tiếc cho mình mà trông thấy kẻ khác có tín ngưỡng, dẫu sự tín ngưỡng ấy biểu lộ ra ngoài một cách thật thà nữa mặc lòng, cũng không nên đem lời gièm pha báng bổ. Nhân sực nhớ đến chiều ngày 30 tết năm nọ, hàng phố đã đóng cửa, các nhà đã lên đèn, pháo đã bắt đầu nổ lác đác ở vài nơi, chợt đi qua trước một cái miễu nhỏ ở phố kia, thấy một người đàn bà quần nâu áo vải đương cầm mấy nén hương lum khum vừa khấn vừa vái, khấn một cách thiết tha và nói to như người kêu trước cửa quan: "Tấu lậy đức Thánh mẫu, thân con cực khổ trăm đường, nay là tối ba mươi rồi, chạy chợ cả ngày không được mấy hào bạc mà chồng ở nhà chỉ cờ bạc rượu chè, tối về không có tiền cho nó thì nó đánh nó chửi. Tấu lạy Thánh mẫu, xin Thánh mẫu phù hộ cho chốc nữa về nó đừng hành hạ, để cho ông vải con được yên trong ba ngày tết...". - Tự đó thấy những sự lễ bái trong dân gian, không dám làm mặt kẻ cả cao thượng mà bĩu miệng chê bai nữa, biết rằng sự tín ngưỡng là cái thuốc giải phiền cho người đời...

Chung quanh nhà thờ rặt những đường phố ngúc ngoắc, chỉ những lên dốc xuống dốc hoài, mà nhà cửa coi ra dáng cổ lắm, xe ô tô phải gửi một lão chủ quán ở tận dưới phố xa kia, vì không thể nào trèo lên được, dốc hơn là dốc Tam Đảo.

Cạnh nhà thờ có một bức tượng đồng, hình một người võ sĩ phải chịu tội, đến gần xem thì thấy đề rằng: "Tượng võ sĩ De La Larre, năm 1766 bị Giáo hội làm tội ở thành Abbeville vì đi trước một đám rước đạo không ngả mũ chào". Hỏi ý cái tượng ấy làm ra là bởi thế nào thì ông B. nói rằng tượng này do một phái dân sở tại đây không tin sự lễ bái, muốn tỏ ý phản đối việc lập nhà thờ, bèn cũng quyên tiền dựng ngay cạnh đây, cho thiên hạ biết cái thói chuyên chế độc ác của giáo hội xưa nay vẫn hay bách hại những người không tin đạo mình. Ở nước tự do có khác, tư tưởng gì cũng có cách biểu lộ ra được.

Khi quay xe về có rẽ vào một nơi đề là "nhà thị sảnh" (mairie) mà trông ra dáng tồi tàn, không phải như các nhà thị sảnh khác. Sau mới biết nhà thị sảnh đây không phải là nhà thị sảnh chính thực, chính là một nhà thị sảnh "hoạt kê". Người Mông Mạc đây có tính hiếu tự do và thích khôi hài, cho nên hay làm nhiều chuyện kỳ khôi, không phải là phản đối với quan quyền, nhưng có ý nhạo báng quan quyền. Cho cách cai trị của nhà nước là phiền, một bọn hiếu sự bèn rủ nhau tuyên bố xóm Mông Mạc độc lập, đặt làm một "chợ tự do" (commune libre), cũng bầu thị trưởng, cũng đặt thị sảnh, cũng có hội đồng, cũng có phần việc, nhưng nhất thiết làm trái nhà nước cả, để làm một chuyện chơi đùa. Nhà "thị sảnh" đây tức là nơi họp tập của bọn hoạt kê hiếu sự đó. Gần đến nơi chỉ nghe thấy những tiếng kèn nói, tiếng người say rượu hò hét và đập bàn đập ghế om sòm. Thấy vậy, bọn mình đều lùi ra cả. Nghe nói trong nhà có cuộc đấu xảo, bày những tranh vẽ của các tay tài tử "nghèo đói" ở trong xóm để bán lấy tiền lập một kho trữ kim cứu giúp cho họ, nhưng thấy các tài tử to tiếng quá không dám vào. Định bữa nào vào chơi đây phải đánh cái "cát két" lệch, đeo cái "cà vạt" nghiêng, và tập lấy cái giọng lè nhè be bét như anh em, thời mới thật là hợp cách. Biết đâu? Nếu có thì giờ ở lâu bên này, có lẽ cũng có ngày thí nghiệm một phen như thế; cũng là một cách khảo cứu phong tục vậy.

Gần bảy giờ tối mới đánh xe về trọ.

Thứ hai, 26[3].

Hôm nay Hoàng thượng cùng quan Sarraut đến thăm nghĩa sĩ từ ở Nogent sur Marne. Sẵn có ô tô, anh em cũng đánh bộ "gia két", đội mũ "mơ lông" chạy xe về Nogent xem lễ. Quan nguyên học chính Gourdon làm hội trưởng hội "Đông Pháp Kỷ niệm" (Le Souvenir Indochinois), diễn thuyết chúc mừng, Hoàng thượng đáp lại mấy câu, chắc là những lời hùng biện cả, nhưng đứng xa chẳng nghe thấy chi hết. Xong rồi Hoàng thượng vào thắp hương trong đền, ra đặt vòng hoa sắt ở cái đài Kỷ niệm những chiến sĩ theo đạo Thiên Chúa ở ngoài vườn, dạo quanh vườn một lượt, rồi lên xe, vua quan trẩy về Paris hết.

Còn chúng mình ở lại rẽ vào Joinville le Pont tìm mả một người học sinh An Nam ở nghĩa địa làng. Người ấy có cha mẹ ở Nam kỳ viết giấy nhờ ông V. có qua đấy thì vào thăm. Ai ngờ chốn nhà quê xa xôi ở nước Pháp này mà cũng có nắm xương của con em Nam Việt. Cậu này sang học đây năm trước, chẳng may bị bệnh chết. Hội Aliance française tống táng hẳn hoi, rồi sau đem di hài vào đây chôn cùng với mấy anh em học sinh người Bắc nữa. Mả xây kiên cố lắm, trên có tảng đá trắng khắc đủ tên tuổi rõ ràng. Các cậu là những bậc thanh niên tuấn tú của nước nhà, vì ham tân học mà bỏ cửa bỏ nhà, lìa cha lìa mẹ, sang du học tận đây, mong rằng chóng được tốt nghiệp về nước đem tài học mà thi thố cho ích quốc lợi dân, chẳng may nắm xương đất khách, ngọn cỏ rầu rầu, khiến cho kẻ đồng bào lạc bước đến đây, luống những ngậm ngùi. Nhưng các cậu dù thác mà vẫn có công với nước: các cậu là kẻ hy sinh cho sự học mới vậy. Hồn có thiêng xin phù hộ cho các anh em du học sau này học hành được tấn tới.
 


[1]Đoạn này thuộc sốmới (86, tháng 8-1924) nhưng vẫn ghi ngày nhưởsốtrước(NHS chú).

[2]Bịkiểm duyệt bỏmất một đoạn.

[3]Nguyên bản ghi “Thứhai, 28”, đúng ra phải là ngày 26. Nay sửa lại (NHS chú).

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114574828

Hôm nay

2141

Hôm qua

2285

Tuần này

2141

Tháng này

221885

Tháng qua

130677

Tất cả

114574828