Những góc nhìn Văn hoá

Thi pháp hoàng gia của văn học thời Hồng Đức

Chữ Nôm ra đời có ý nghĩa hết sức lớn lao trong sự phát triển của nền văn hoá dân tộc. Văn học chữ Nôm, trải theo chiều dài lịch sử đã phát triển ngày càng rộng rãi trong đời sống văn học. Nghiên cứu phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm của các triều đại hành chính quan phương là một công việc hứa hẹn nhiều điều lí thú mà tác giả bài viết đang theo đuổi. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đề cập đến phương thức sáng tác của văn học Nôm thời Hồng Đức mà Lê Thánh Tông là đại diện tiêu biểu.

Từ khi có văn học viết đến nửa sau thế kỉ XV, Lê Thánh Tông là hoàng đế có trước tác nhiều nhất. Ông sáng tác toàn diện, cả thơ lẫn văn, cả Hán lẫn Nôm. Với chữ Nôm, Lê Thánh Tông đã rất có ý thức về việc phát triển ngôn ngữ của văn học dân tộc – ngôn ngữ Tiếng Việt. Việc sáng tác thơ bằng chữ Nôm và nâng qui mô sáng tạo có tính chất nhà nước, mở ra cho thơ ca Nôm khoảng trời sáng tạo với phương thức sáng tác quan phương đặc thù của văn học trung đại. Hơn thế, Hồng Đức Quốc âm thi tập là tác phẩm mở đầu cho thể tài thơ Nôm vịnh Nam sử và mở đầu cho xu hướng pha trộn màu sắc tiếu lâm trong thơ đề vịnh như là một cách gia tăng vị thế của dân tộc.Đây là nét mới mẻ của tập thơ, là mảng khu biệt về đề tài so với những sáng tác văn học Nôm trước đó. Thập giới cô hồn quốc ngữ văn được ghi nhận như áng biền văn Nôm tài hoa của thế kỉ XV.

1.Xướng họa bằng thơ Nôm – Nho hóa chữ Nôm trong sinh hoạt thơ ca cung đình

Nho hóa chữ Nôm như một công cụ quản lí hành chính nhà nước là tham vọng của người anh hùng cái thế Hồ Quí Ly từ cuối thế kỉ XIV. Tuy nhiên, những rào cản mang tính chất ý thức hệ khiến khát vọng đẹp đẽ và có phẩn viển vông ấy chưa có điểm dừng để kể công điểm tích. Được đánh giá như một điểm tựa vững chắc của lòng tự hào dân tộc, thời Thịnh Lê là giai đoạn đỉnh cao của công cuộc phát triển văn hóa dân tộc mà Lê Thánh Tông là vị vua có công lớn nhất.Chuyện Lê Thánh Tông sắc dụ phê phán Nguyễn Vĩnh Trinh, Lương Như Hộc không học thể thơ Nôm nên làm thơ còn nhiều chỗ thất luật[1] chứng tỏ ông rất quan tâm đến thơ Nôm đường luật và sinh hoạt thơ ca bằng chữ Nôm diễn ra hằng thường chốn lầu son.Văn học Nôm lúc này có nội dung phản ánh phong phú.Nguyễn Phạm Hùng viết:Đây là tập thơ phong phú, đa dạng về đề tài, chủ đề, bút pháp. Nó kết hợp cả phong cách cao nhã và phong cách bình dân, ước lệ và hiện thực, trữ trình và tự sự, trang nghiêm và hài hước. Nó đã thể hiện sâu sắc cái bản lĩnh thơ Lê Thánh Tông, khả năng ứng hợp rộng rãi của thơ ông với các phong cách thơ khác, để khẳng định sự tiên phong chủ đạo của mình trong các sáng tác ấy. [1, 542]

Với thơ Nôm, Lê Thánh Tông có vai trò đặc biệt trong việc làm hưng thịnh một cách thức sáng tạo giàu màu sắc quan phương. Chữ Nôm là phương tiện ghi lại những khoảnh khắc “Tuyết nguyệt phong hoa xui hứng khách”[2] của những trí thức đương thời chốn gác tía lầu son.Cách sáng tạo thơ Nôm xướng họa đã cho chữ Nôm một địa vị cung đình chính thức và ngạo nghễ[3]. Hồng Đức quốc âm thi tậplà kết quả của phong trào sáng tác thơ Nôm do nhà vua khởi xướng, mang âm điệu ngợi ca vua chúa, triều đình, đạo đức, lễ giáo phong kiến.Những vấn đề quan phương mang qui mô thời đại đã viện đến chữ Nôm để truyền tải như là phương tiện hữu hiệu Nho hóa thứ văn tự riêng có của người Việt. Tiếng Việt trong Hồng Đức quốc âm thi tập vì thế có những vị thế đặc biệt trong hành trình cung đình hóa vốn liếng ngôn ngữ riêng có của dân tộc. Đó là cách nhìn tỉnh táo và có tầm chiến lược của người đứng đầu triều đại Lê Thánh Tông.

2. Đề vịnh bằng chữ Nôm – Nôm hóa phương thức ngôn chí, tự thuật

Đề vịnh là cách thức sinh hoạt văn hóa, văn học phổ biến của các nhà Nho Trung Quốc và Việt Nam, về căn bản nó thuộc phạm vi thơ ngôn chí, lấy sự vật làm đối tượng đề vịnh thông qua đó bộc lộ tâm trạng, gửi gắm nỗi niềm. Thông thường chủ yếu thơ đề vịnh viết bằng chữ Hán. Tuy nhiên, dưới thời Lê Thánh Tông, thơ đề vịnh bằng chữ Nôm khá phát triển. Trong Hồng Đức quốc âm thi tập lượng thơ đề vịnh chiếm tỉ lệ lớn: vịnh năm canh, vịnh tứ thời, vịnh Bắc sử, vịnh những liệt nữ… Đặc biệt đáng chú ý là trong mảng thơ đề vịnh có thể tài thơ Nôm vịnh Nam sử. Chúng tôi khảo sát thấyHồng Đức quốc âm thi tập có 34/ 328 bài thơ là thơ vịnh Nam sử. Cơ sở cảm hứng cho những bài thơ vịnh Nam sử là tinh thần trân trọng văn hóa Việt, trân trọng đạo đức truyền thống của người Việt, đề cao những danh nhân văn hóa của dân tộc mình, trân trọng những người phụ nữ Việt (Hai bài thơ về Vũ Nương), những danh thắng của người Việt... Điếu Lê Khôi[4] là bài thơ vịnh một nhân vật có công với triều Lê. Lê Khôi là cháu gọi Lê Lợi bằng chú, giỏi võ nghệ, được cử coi trấn giữ Thuận Hóa (1430), sau về tùng chinh Cao Bằng (1431). Đời Nhân Tông trấn giữ đất Nghệ An (1443). Lê Khôi từng cầm quân đi đánh Chiêm Thành bắt được vua Chiêm là Bỉ Cai (1445), trở về tới Hà Tĩnh thì mất. Sau đó Lê Khôi được thờ ở Nam Giới (Hà Tĩnh). Năm 1470, Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành nhân qua đền thờ Lê Khôi bèn làm bài Điếu Lê Khôi bày tỏ nỗi thương tiếc khôn xiết và ngợi ca người bề tôi giỏi làm trụ cột cho quốc gia như thai tinh[5] trên trời.

Dẹp yên tám cõi mới buông tay,

Lồ lộ thai tinh một đóa mây.

Tể tướng bếp tàn mai lạnh vạc

Tướng quân doanh vắng liễu chau mày[2, 430].

Bài thơ là điểm nhìn của một người hậu sinh am hiểu lịch sử của vương triều mà mình cai trị, nhận ra công trạng của tiền nhân – cũng là bề tôi trung thành của vương triều trước. Từ đó nhận thức về vai trò của mỗi bề tôi như quả mơ điều canh[6], lòng xót thương khichốn quân doanh vắng bóng người tướng tài hết lòng vì nước (liễu chau mày). Khát vọng của người cai trị về những bề tôi trung thành, tài cán, mưu lược cũng được kí thác qua bài thơ. Lớn hơn hết thảy là niềm mong muốn, tự hào về nền thái bình thịnh trị dài lâu cho dân tộc, cho đất nước.

Trước Lê Thánh Tông, Nguyễn Trãi đã quan tâm đến đời sống bình dị của người Việt. Tuy vậy, chúng ta chưa thấy những tấm gương kinh bang tế thế, phò nghiêng đỡ lệch hoặc những liệt nữ, những di sản văn hóa của người Nam trong thơ Nguyễn Trãi. Sự tìm tòi về mặt thể tài với nguồn thi hứng dồi dào đã cho tác giả Hồng Đức quốc âm thi tập những trải nghiệm thú vị. Bùi Duy Tân cho rằng “Thơ vịnh Nam sử bằng Nôm của Lê Thánh Tông và các tác gia thời Hồng Đức đến nay vẫn là cổ kính nhất. Các tác gia lại khéo kết hợp việc đề cao Nho giáo với tinh thần tự hào dân tộc, cảm hứng dân tộc với cảm hứng đạo lý nho gia nên đã có những thành công rất đáng ghi nhận”[7].

Về bút pháp sáng tác, cách thức đề vịnh, tán dương, thù phụng trong thơ Nôm thời Hồng Đức cũng không khác cách thức sáng tạo trong thơ chữ Hán. Có nghĩa là không có sự phân biệt trong tâm thức sáng tạo về thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm. Hơn nữa, cảm xúc khuôn sáo và tính chất ước lệ trong thơ đề vịnh bằng chữ Nôm dường như ít hơn. Đặc biệt, thơ Nôm thời Hồng Đức có một mảng thơ đề vịnh có màu sắc tiếu lâm. Nét khu biệt ở phương diện nghệ thuật mà thơ Nôm thời Hồng Đức đăng tải chính là nghệ thuật trào lộng. Dường như đây là lối rẽ độc đáo trong văn phong của những bậc túc nho tài hoa thời Hồng Đức mà Lê Thánh Tông là đại diện tiêu biểu nhất. Chất điển nhã, trang trọng nhường chỗ cho óc hài hước, cho biểu tượng hai mặt trong những bài thơ vịnh tượng Bà Banh, vịnh con cóc, con giận, con muỗi, cái quạt, cối xay, cây đánh đu...như là bước tiến mới mà trước đó chưa có trong sáng tác tác của Nguyễn Trãi.   Hơn nữa, xét về về mặt ngôn ngữ, lúc này chữ Nôm đã có khả năng dùng để ngôn chí, tải đạo một cách đường hoàng chốn cửu trùng thăm thẳm. Nó là phương tiện để trí thức cung đình kí thác niềm tự hào về những nhân vật lịch sử, về văn hóa, về phong tục của người Nam. Nó là miền riêng của lòng tự tôn dân tộc nằm trong sự đối sánh với văn hiến bề dày Trung Hoa. Vì thế, thơ vịnh Nam sử “là một sáng tạo có tính chất thời đại[8].

3.Về phương thức dụng điển trong thơ Nôm thời Hồng Đức - cách kết nối với tiền nhân hay là ý thức nâng cao địa vị cho thơ Nôm?

Dụng điển vốn là phương thức sáng tác quan phương phổ biến của văn học trung đại. Dùng điển cố, người sáng tác xưa không chỉ vận dụng nó như một phương tiện diễn đạt mà còn thể hiện vốn kiến thức dồi dào về lịch sử, văn học, xã hội, văn hóa, kinh nghiệm sống của người xưa. Việc sử dụng điển cố góp phần nâng cao khả năng biểu hiện, tính hàm súc của ngôn ngữ, cũng như tính hình tượng văn học.

Cách dụng điển trong Hồng Đức quốc âm thi tập khá thành thục và nhuần nhuyễn. Những điển cố giúp tác giả diễn tả được nhiều ý nghĩa, nhiều bài học trong khuôn khổ một lượng từ hạn hẹp. Lượng điển mà tác giả dùng nguyên ý của nó (nguyên điển) chiếm tỉ lệ khá cao và giá trị biểu đạt nội dung của điển khá linh hoạt, chẳng hạn:

Bài Giang thiên mộ tuyết(Tuyết buổi chiều ở trên sông) có câu:

Đầu Ngô, cuối Sở từng đi lại,

Viếng hỏi Quân sơn ấy ở đâu?[5, 120]

Trong câu thơ có sử dụng điển Quân Sơn, chú rằng: Theo bài Nam khang ký của Vương Thiền Chi nói, thì ở huyện Hu có Quân Sơn, mỗi khi sau trận mưa to gió lớn, nghe văng vẳng có tiếng đàn hát, gọi là Tiên cung. Bài thơ Chơi Động Đình của Lý Bạch có câu “Đan thanh họa xuất thị Quân Sơn” nghĩa là: màu sắc vẽ ra núi Quân  Sơn. Như thế thì Quân Sơn là một ngọn núi tưởng tượng.

Hoặc có trường hợp dùng tinh thần của điển. Trong bài Vịnh vua Cao Tổ nhà Hán, có hai câu thơ:

Sục vào núi Trĩ hươu chùn cổ

Đuổi đến sông Ô khỉ ướt đuôi.[5, 82]

Trong hai câu thơ mà có tới ba điển:

Điển Núi Trĩ: Theo Vũ Lăng ký chép: Núi Bạch Trĩ có con trĩ trắng bằng đá, từ đầu đến đuôi dài chừng hai trượng, vươn cánh như muốn bay lên không. Lại theo Liệt di truyện chép: Mục công nhà Tần đi săn, bắn được chim trĩ cái, chim trĩ liền hóa ra một tảng đá. Do đấy người ta gọi núi ấy là núi Trĩ, tên một địa điểm then chốt của nhà Tần.

Điển Hươu chùn cổ: Khoái Triệt nói với Hán Cao Tổ rằng: “Nhà Tần làm sổng con hươu, mọi người đều đuổi bắt, ai tài giỏi lanh chân thì bắt được”. Ở đây tác giả lấy chuyện con hươu để ví với ngôi vua nhà Tần. Khi Lưu Bang kéo quân đến Hàm Dương, vua Nhị đế nhà Tần yếu thế phải đầu hàng và ngôi vua bị lật đổ. Ý nói Lưu Bang đã bắt được vua nhà Tần. Điển Khỉ ướt đuôi: Hàn Sinh ví Hạng Vũ như con khỉ đội mũ. Khi đánh nhau với Lưu Bang, Hạng Vũ bị thua ở Cai Hạ và chạy đến (sông) Ô Giang tự vẫn.

Mật độ các điển cố trong Hồng Đức quốc âm thi tập khá dày đặc, điều đó cho thấy việc dụng điển là phương thức sáng tác đặc thù của văn học trung đại, mà văn học viết bằng chữ Nôm không phải là ngoại lệ. Thực tế sáng tác, không có sự phân biệt trong việc dụng điển của hai thứ ngôn ngữ đó. Thời Hồng Đức, các tác giả của thi đàn đều là những người được đào tạo từ cửa Khổng, sân Trình và đỗ đạt cao - những người có học vị Đồng tiến sĩ trở lên. Dụng điển là cách kết nối với tiền nhân - cách tri nhận những bài học lịch sử, cách lĩnh hội những phương diện khác nhau trong ý nghĩa của mỗi dữ kiện lịch sử. Nó phản ảnh tinh thần hồi cố điển nhã của những bậc túc nho từng ôm mộng đèn sách, coi sách vở từ chương là cái đích đẹp đẽ trong lí tưởng hành đạo của mình. Vì vậy dễ hiểu vì sao trong tập thơ mật độ điển tích điển cố dày đặc và tính chất uyên bác của những bài thơ Nôm được chú trọng. Vì thế, chữ Nôm thời Hồng Đức mang đầy đủ tính cách của ngôn ngữ sang trọng chốn hoàng cung. Nó có địa vị bình đẳng với chữ Hán.

4.Văn Nôm biền ngẫu trong Thập giới cô hồn quốc ngữ văn – Nôm hóa cách thức thìn giới.

Nét đặc trưng quen thuộc của văn chương nhà Nho là ngôn chí, tải đạo. Chức năng giáo huấn, thìn giới luôn được đề cao như là mục tiêu số một của văn chương. Thập giới cô hồn quốc ngữ văn của Lê Thánh Tông là một tác phẩm văn học mà tính cách chức năng rất rõ. Nét độc đáo của tác phẩm văn học này là dùng văn Nôm biền ngẫu như là phương tiện đắc dụng để thìn giới[9] những cô hồn thuộc mười loại người trong xã hội, cũng là một cách giáo hóa của kẻ bề trên với mười loại người sống dưới thời đại mà Lê Thánh Tông trị vì. Văn biền ngẫu với giọng điệu mực thước, trang trọng, với tâm thế tự tại, an nhiên, với tấm lòng rộng mở, chan hòa của nhà Nho trị vì thiên hạ biết đoái thương đến tất thảy chúng dân.

Sau một số bài phú Nôm thời Trần, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn là tác phẩm tiếp tục dùng văn biền ngẫu viết bằng chữ Nôm. Những câu văn tương xứng, nhịp nhàng đã tỏ ra rất đắc dụng khi răn mười đối tượng trong đời sống đương thời.Ngôn ngữ trong tác phẩm đã thể hiện  “khả năng to lớn trong việc phản ánh đời sống phong phú và đa dạng của một xã hội ngày càng phức tạp hơn[10]. Nội dung của bài văn là suy nghĩ về những kiếp người vì mệnh bạc phải ra cô hồn vất vưởng. Quan điểm khen chê trên cơ sở lăng kính của kẻ bề trên và lấy lợi ích của chế độ phong kiến làm chuẩn. Những câu văn mực thước, đượm ý vị nhân sinh và sử dụng nhiều điển trong sử sách Trung Quốc được sử dụng trong bài văn:

Đứng Tao Đàn[11] gióng cờ nghe trống,

Đến tự tường[12] ngang thiết cầm thương.

Tuyết Bá Ngạn, hoa Đỗ Lăng[13], chẳng câu chẳng lạ,

Thiếp Lan đình, tập Liên xã[14], mọi nét mọi màu. [2,443,444]

                                                     (Phần Thứ tư Giới nho sĩ)

Kết thúc mỗi đoạn là một bài kệ bằng thơ có ý nghĩa tổng kết, răn bảo. Đây là nét truyền thống có từ văn học thời Lý Trần. Trước khi viết những dòng kệ, tác giả luôn có dòng “Hỡi ôi!” đầy thương cảm, nêu những đúc kết của hai cõi âm - dương, sống - chết bằng hai cụm từ giàu sức gợi cho tất cả các phần “sống bởi chưng...” và “thác cho phải...”[15] như một lời than não nề cho sự phù du của kiếp người. Những đánh giá của tác giả về từng hạng người thực sự được đúc kết sau hai từ “sống bởi chưng...”. Giới thiền tăng “chưa sạch mọc lông nhẫn nhục”, giới quan liêu “báo nghĩ đầy người”, giới nho sĩ “Bàn bạc sự người”, giới thiên văn địa lý “tiết lậu thiên cơ”, giới lương y “gia giảm lỗi phương”, giới tướng quân “cậy sức anh hùng”, giới hoa nương “dỗ bạc dỗ tiền”, giới thương cổ “ăn lãi ăn lời”, giới đãng tử “ở nết ỡm ờ”....tất cả đều là nguyên cớ để khi chết là những cô hồn “đói ăn khát uống”, “phiêu lưu đòi chốn”, “trầm luân địa ngục”, “cơ hàn đòi chốn”...Bài kệ sau mỗi phần đúc rút tinh thần của nội dung đã trình bày trước đó, cô đọng, hàm súc và giá trị tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ rất rõ. Trong phầnThứ ba giới quan liêu, kết thúc bằng bài kệ:

Điêu đang[16]ngan ngát áo hồng sa,

Mừng chịu ơn phong xuống tới nhà.

Tan rợp bóng hòe che mặt ngọc,

Hương ngừng dặm liễu đượm hài hoa.

Tiệc vây la ỷ[17]người sum họp,

Nhạc vỗ cầm tranh[18]tiếng dõi ca.

Phú quí nhìn xem yêu hết tấc[19],

Máy nghèo[20]sao khéo hãm người ta?[2, 442]

Bài kệtái hiện hành trạng của kẻ làm quan với những lụa là, những đàn, những hát, những phú quí cám dỗ, những mưa móc ân trạch của kẻ bề trên….Giá trị răn dạy được biểu hiện bằng hình thức rất mĩ học, rất kiểu cách, rất chuyên nghiệp bởi ngòi bút của một trí giả đương thời có tài. Cách dụng điển cố cầu kì, lời văn hoa mĩ, giàu nhạc tính. “Kết cấu của Thập giới cô hồn quốc ngữ văn rất chặt chẽ, tinh tế và thể hiện một ý thức thận trọng trong việc rèn rũa lời văn và phát huy thể tài[21]. Dường như bậc chân nho cách chúng ta sáu thế kỉđã đem từng khúc ruột quặn đau của mình làm bút, trích từng giọt lệ rớm máu của mình làm mực, viết lên một tình tự nồng nàn da diếtvề những khổ đau của kiếp người.Có một dòng mạch chảy tràn qua những qua những con chữ, vượt biên khỏi những giới hạn của tam giáo, vượt qua những vạch mốc của giới hạn lịch sử, của giới hạn phông nền văn hóa thông thường hiển hiện trong bài văn Nôm biền ngẫu. Đó là lòng yêu vô bờ đối với con người, là trái tim rung động với những nỗi đau mang tầm nhân loại. Thập giới cô hồn quốc ngữ vănlà tác phẩm văn học chức năng nghi lễ hay đơn thuần là tác phẩm sẻ chia những suy tư về thời cuộc của người trị vì thiên hạ? Dư vị của nó, phạm vi bao quát của nó, những vấn đề mà nó đề cập dường như vượt ra ngoài mục đích giáo huấn ban đầu. Ý vị nhân sinh của bài văn lan tỏa và dư ba, tạo cho người thưởng thức cảm nhận đến tận cùng những thăng trầm, những biến cố trong cuộc đời và số phận của mỗi kiếp người.

Văn Nôm biền ngẫu tỏ ra đắc dụng và phát lộ những nét đắc dụng của nó. Đinh Gia Khánh cho rằng: “Tác phẩm này đã được viết với một bút pháp vững vàng: trật tự phân minh, đối ngẫu thỏa đáng, hình tượng sắc sảo, từ ngữ chính xác và tinh tế[22].

Thập giới cô hồn Quốc ngữ vănlà áng văn mà người viết dụng công khéo léo. Nghệ thuật sử dụng đối trong tác phẩm cầu kì, tinh xảo, điển nhã,tài hoa. Trong toàn bộ tác phẩm chúng tôi thống kê được 59 điển. Phạm vi đề cập của các điển khá rộng, trong đó có điển cố thuộc Đạo giáo và tư tưởng Lão Trang (7 điển), điển cố Phật giáo (3 điển), còn lại là điển cố thuộc về những nhân vật lịch sử Trung Quốc, rút từ Thơ Đường, từ Hán Thư, Kinh dịch, Lục thao, Tam lược… Đặc biệt đáng lưu ý là Lê Thánh Tông đặc biệt có cảm hứng với việc sử dụng các điển cố Nho giáo. Riêng phần Giới Nho sĩ đã có tới 17 điển cố Nho giáo được huy động, chưa kể những điển cố về lĩnh vực này nằm rải rác trong toàn bộ tác phẩm. Điều này hết sức dễ hiểu, Lê Thánh Tông là vị vua anh minh thời kì mà quốc gia dân tộc đang mạnh lên từng ngày, Nho giáo được coi như phương tiện đắc dụng để xây dựng và ổn định xã hội nên việc trú trọng đến những điển thuộc lĩnh vực này là hoàn toàn có cơ sở.

Với cách vận dụng linh hoạt, sáng tạo thanh luật, việc lựa chọn hình ảnh, ví von, so sánh hết sức sắc sảo, chân thực và đầy tính thẩm mĩ, biền văn Nôm trong Thập giới cô hồn Quốc ngữ văn có sức ám ảnh, sức lôi cuốn người đọc, sức cảm và sức lay động sâu sắc với những ai từng lật giở những trang biền văn Nôm vào loại tương đối cổ này. Nhìn nhận một cách thấu suốt, tước bỏ đi vị thế trị vì, cái nhìn bề trên, người đọc nhận thấy lòng yêu thương ngập tràn của một con người trần thế với tâm hồn nhạy cảm biết sẻ chia với những kiếp người nói chung trong cuộc thế vốn lắm khổ đau, nhiều thăng trầm. Dẫu cũng đã xa lắm về mặt thời gian nhưng có một điều hết sức gần gũi về mặt tư tưởng, rằng, áng văn nôm Thập giới cô hồn Quốc ngữ văn cho đến tận ngày nay vẫn bảo lưu những giá trị thẩm mĩ và nhân văn sâu xa mà Lê Thánh từng phát hiện.Chúng tôi cho rằng, văn Nôm biền ngẫu trong tác phẩm là một thành tựu đáng ghi nhận, là bước tiến về ngôn ngữ và thể loại của văn học Nôm trong diễn trình văn học Nôm dân tộc.

5. Những đóng góp của Lê Thánh Tông - vị chánh soái của thi pháp hoàng gia[23]

Không phải đến thế kỉ XV chữ Nôm mới được người đứng đầu quốc gia quan tâm. Ở thế kỉ XIII chữ Nôm đã được chọn như điểm về của cảm hứng thẩm mĩ Phật giáo – thứ cảm hứng quan trọng bậc nhất của văn học Lý Trần bởi ông vua – thi sĩ – phật hoàng Trần Nhân Tông. Với Cư trần lạc đạo phú Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, Trần Nhân Tông đã tôn vinh chữ Nôm như phương tiện đắc dụng để kí thác tư tưởng thời đại mình. Tuy nhiên, để có qui mô và cách thức tổ chức chuyên nghiệp mang tính chất cung đình thời Lê Thánh Tông mới có. Thơ Nôm thời Hồng Đức là biểu trưng rực rỡ của một thời đại tự chủ huy hoàng. Vũ Đức Phúc viết: “Ông đã sử dụng thơ văn Nôm trong công việc triều đình và cả việc thờ cúng trang nghiêm, dựng thành bia đá, biển thờ. Bản thân ông là một nhà thơ tiếng Việt lớn có phong cách riêng biệt vừa giản dị vừa cao cả, giàu cảm xúc và lòng yêu dân, xứng đáng với thơ của một đế vương hay chữ và sáng suốt. Ông có một ảnh hưởng quyết định đến toàn bộ thơ ca đương thời, đó là một thời đại thịnh trị, ông cũng lại ảnh hưởng sâu sắc đến các đời sau.” [1, 482]

Với văn học nước nhà “Lê Thánh Tông là người đầu tiên Nhà nước hóa, chính thống hóa văn học Nho gia, đưa văn học này thành văn chương chính đạo, bác học, cao quí, đồng thời lại có quan điểm khoáng đạt với văn học Nôm, văn học tiếng Việt. [1, 374] Theo chúng tôi, vai trò của Lê Thánh Tông cần được nhấn mạnh ở phương diện ông là người nỗ lực Nho hóa và quan phương hóa chữ Nôm và văn học Nôm. Lê Thánh Tông cho chữ Nôm một địa vị mới - địa vị cung đình. Với thơ Nôm thời Hồng Đức, những vấn đề to lớn thiên kinh địa nghĩa, thế đạo nhân tâm được đăng tải bởi thơ Nôm. Lê Thánh Tông có quan điểm cởi mở, đúng đắn với văn học Nôm. Ông chính là đại diện cho bước phát triển mới của thơ Nôm đường luật thế kỉ XV. Trong khuôn khổ lăng kính Nho giáo và thực tế đời sống chính trị thời Thịnh Lê, Hồng Đức Quốc âm thi tậplà một tập thơ có giá trị không chỉ về đời sống tâm tư tình cảm, giải trí, khoe tài mà nó có giá trị về mặt chính trị rất lớn. Lần đầu tiên chữ Nôm được coi là phương tiện đắc dụng để bộ máy chính thể hành chính ngâm ngợi, thù tạc, ca công tụng đức. Lần đầu tiên những vấn đề quốc gia đại sự được khúc xạ qua cảm hứng sáng tạo và được truyền tải bằng chữ Nôm – thứ chữ thuộc về miền tâm thức sâu thẳm của người Việt bản địa.Thơ Nôm trong Hồng Đức quốc âm thi tập, biền văn Nôm trongThập giới cô hồn quốc ngữ văn đóng góp vào quá trình phát triển thơ ca tiếng Việt sau bước đột khởi và kết tinh của Nguyễn Trãi ở Quốc âm thi tập.

Tài liệu tham khảo:

[1]. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (1998), Hoàng đế Lê Thánh Tông nhà chính trị tài năng, nhà văn hóa lỗi lạc, nhà thơ lớn, NXB Khoa học xã hội.

[2].TT Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 4, Nxb Khoa học xã hội.

[3]. Nhiều tác giả (2007), Lê Thánh Tông về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục.

[4]. Mai Xuân Hải (chủ biên) (1986), Thơ văn Lê Thánh Tông, NXB Khoa học xã hội.

[5]. Phạm Trọng Điềm, Bùi Văn Nguyên (Phiên âm, chú giải, giới thiệu), (1962), Hồng Đức Quốc âm thi tập, NXB Văn hóa.

[6].Vũ Tiến Quỳnh (1998), Phê bình văn học: Lý Tế Xuyên, Vũ Quỳnh Kiều Phú, Lê Thánh Tông, Ngô Chi Lan, Nguyễn Bỉnh Khiêm, NXB Văn nghệ thành phố HCM.

[7]. Bùi Duy Tân (1999), Khảo và luận một số tác gia, tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, NXB Giáo dục.


[1]Xem: Nhiều tác giả (2009), Đại Việt sử kí toàn thư trọn bộ, NXB Văn hóa thông tin, tr. 621.

[2]Trích một ý thơ trong Hồng Đức quốc âm thi tập

[3]Tuy nhiên, Hồng Đức quốc âm thi tập không phải là tác phẩm của Hội Tao Đàn, mà là tập thơ của văn thần trong suốt 28 năm niên hiệu Hồng Đức (1470 -1497).

 

[4]Trong cuốn: Hồng Đức Quốc âm thi tập, (Phạm Trọng Điềm, Bùi Văn Nguyên (Phiên âm, chú giải, giới thiệu), NXB Văn hóa,1962)ghi là Lê Du và có chú thích hơi khác.

[5]Ba ngôi sao lớn trên trời, dùng để ví với ba chức tam công (Thái sư, thái phó, thái bảo). Ở đây ca ngợi Lê Khôi có công trạng lớn.

[6]Điều canh hàm ý là chăn dân, vỗ trị quốc gia được người bề trên đặc biệt coi trọng.

[7]Xem: Lê Thánh Tông và bước phát triển mới của văn học trung đại Việt Nam, in trong cuốn: Bùi Duy Tân (1999), Khảo và luận một số tác gia, tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, NXB Giáo dục, tr.121.

[8]Xem: Lê Thánh Tông và bước phát triển mới của văn học trung đại Việt Nam, in trong cuốn: Bùi Duy Tân (1999), Khảo và luận một số tác gia, tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, NXB Giáo dục, tr.121.

 

[9]Theo Trần Văn Giáp, từ  thập giới trong nhan đề là chỉ mười cõi, mười loại chứ không phải mười điều cấm. Ông kết luận: “tác giả chỉ muốn kể “cả các giới trong xã hội” đều có thể mắc tội trở nên cô hồn”. (Trích: Nhiều tác giả (2007), Lê Thánh Tông về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, tr.668).

[10]Đinh Gia Khánh (chủ biên) (1998), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XVIII, NXB Giáo dục, tr.290

[11]Tao đàn: nơi hội họp của các nhà thơ văn, hội của các nhà thơ văn.

[12]Tự tường: Tức là các loại trường quốc học thời xưa. Thiết và thương là hai thứ khí giới. Câu này ý nói: đến trường học vẫn vững vàng như người giỏi võ sử dụng khí giới.

[13]Bá Ngạn, Đỗ Lăng: Bá Ngạn rút từ ý câu thơ Hiệp khách hành của Ôn Đình Quân“Bạch mã dạ tần lê, tam canh Bá Ngạn tuyết” (Ngựa trắng đêm thường hí, tuyết Bá Ngạn suốt ba canh); Đỗ Lăng rút từ ý câu trong bài Nhàn nhật đăng cao của Tống Chi Vấn: “Kinh thủy kiều nam liễu giục hoàng. Đỗ lăng thành Bắc hoa ung mãn” (Liễu ở phía Nam cầu Kinh Thủy chuyển màu vàng, hoa ở phía Bắc thành Đỗ Lăng đang nở rộ). Đây tác giả mượn ý nói thơ của nho sĩ rất hay, như thơ Ôn Đình Quân, Tống Chi Vấn.

[14]Lan Đình, Liên Xã: Vương Hy Chi đời Tấn dùng bút bằng râu chuột (thử tu) viết bài tựa Lan đình tập gồm 324 chữ rất đẹp, người đời sau lấy chữ đó làm chữ mẫu, Liên xã tức Bạch Liên một hội thơ đời Đường, tập thơ Bạch Liên này do nhà sư Tề Dĩ đời Đường biên soạn và tự tay viết chữ rất tốt. Ý câu thơ ở đây muốn nói chữ viết của nho sĩ rất tốt như chữ Vương Hy Chi và Tề Dĩ.

[15]Riêng phần thứ hai Giới đạo sĩ sau phần“Hỡi ơi!” không thấy có hai câu dạng này như chín phần khác.

[16]Điêu đang: Đội mũ hình con điêu – một thứ chồn có đuôi rất đẹp. Các quan đại thần ngày xưa hay đội mũ nạm bạc có trang sức hình đuôi con điêu, ngụ ý mềm dẻo mà cứng rắn.

[17]La ỷ: Lụa là

[18]Cầm, tranh: Hai thứ đàn cổ mắc dây sắt hoặc đồng, đàn cầm có 5 hoặc 7 dây, đàn tranh tức đàn 16 dây hoặc 36 dây

[19]Hết tấc: Tấc là độ đo 1/10 của thước. Hết tấc nghĩa là : đo đến tấc cuối cùng của thước, nghĩa là cùng cực.

[20]Máy nghèo: Dịch chữ nguy cơ. Cả câu này có nghĩa là : Cuộc vinh hoa phú quí chỉ là cái máy nguy hiểm hãm hại người ta.

[21]Đinh Gia Khánh (chủ biên) (1998), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XVIII, NXB Giáo dục, tr.290.

[22]Trích: Đinh Gia Khánh (1980), Lịch sử văn học Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, tr.232.

[23]Chữ dùng của GS. Bùi Duy Tân trong Lê Thánh Tông – con người và sự nghiệp, NXB ĐHQG, 1997, tr.114

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114574950

Hôm nay

2263

Hôm qua

2285

Tuần này

2263

Tháng này

222007

Tháng qua

130677

Tất cả

114574950