Nhìn ra thế giới

Đất nhiễm độc ở Trung Quốc.

Nhân vụ Công ty Nicotex Thanh Thái đóng tại xã Cẩm Vân, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa chôn nhiều thùng thuốc sâu trong khu trụ sở Công ty, xin giới thiệu tình hình đất nông nghiệp nhiễm độc nghiêm trọng ở Trung Quốc, coi như một tiếng chuông cảnh báo về nguy hại của nhiễm độc đất với con người và nguy hại của văn hóa ứng xử của con người không đúng với thiên nhiên, với môi trường sinh thái.

Trong tháng Sáu năm 2013, nơi lâu nay được coi là vựa lúa cá trù phú của xứ Hồ Nam, nay bổng dưng mọi người xôn xao rằng, gần đây qua kiểm tra phát hiện trong gạo Hồ Nam có hàm lượng chất Cd (Cadimi – một kim loại nặng) vượt tiêu chuẩn cho phép, có hại đến sức khỏe của người tiêu dùng. Sự việc là từ tháng 3/2013, trong khi kiểm tra chất lượng gạo tại nhà máy xát gạo hiện đại của ông chủ Lưu Tương Ký ở thị trấn Đại Đồng Kiều, huyện Du, tỉnh Hồ Nam phát hiện chất Cd trong gạo của nhà máy vượt tiêu chuẩn. Vậy chất này từ đâu xâm nhập vào trong gạo, là vấn đề lớn đặt ra không chỉ đối với mọi người, đối với các nhà chuyên môn, mà trước hết đối với ông chủ nhà máy Lưu. Nếu đúng như vậy, thì gạo của nhà máy của ông làm sao tiêu thụ được, chỉ còn nước đóng cửa nhà máy.

      Qua kiểm tra nhiều lần về dây chuyền công nghệ của nhà máy từ khâu đầu tiên là đưa hạt thóc vào đến bóc vỏ trấu qua khâu chà xát đánh bóng đến khâu cuối cùng là đóng gói đều là trình tự khép kín có tính chất vật lý, nên không thể có khâu nào có thể sinh ra chất Cd được. Như vậy chất Cd này chỉ có thể là từ khâu sản xuất nông nghiệp trên đồng ruộng xâm nhập vào gạo mà thôi.

      Một điều tra từ năm 2007 lấy 91 mẫu gạo bất kỳ bán ở thị trường cấp huyện trở lên của 6 vùng Hoa Đông, Đông Bắc, Hoa Trung, Tây Nam, Hoa Nam và Hoa Bắc, kết quả cho thấy + 10%  lượng gạo bán ở chợ đều vượt tiêu chuẩn hàm lượng Cd, và gạo từ các vùng phía nam là chủ yếu. Một điều tra khác cho biết có đến 20 triệu Ha đất canh tác (1/6 tổng diện tích đất canh tác) Trung Quốc bị ô nhiễm kim loại nặng (Cadimi, Thủy ngân, Chì, Crômi, Thạch tín).

      Tại thành phố Quảng Châu, trên trang mạng Cục Giám sát quản lý thực phẩm dược phẩm đã công bố kết quả xét nghiệm thực phẩm ăn uống quí I/2013, trong đó có một hạng mục là có đến 44,4% sản phẩm từ gạo và chế phẩm từ gạo vượt tiêu chuẩn hàm lượng Cd. Cục này đã lấy mẫu xét nghiệm 18 lần có đến 8 lần không hợp tiêu chuẩn. Trong 31 mẫu gạo không hợp tiêu chuẩn do Văn phòng an toàn thực phẩm Quảng Đông công bố có đến 14 mẫu gạo đến từ Hố Nam hàm lượng Cd từ 0,26 g đến 0,93g trong 1 kg gạo. Tháng 2/2013 báo chí đã đưa tin đã có hàng vạn tấn gạo hàm lượng Cd vượt tiêu chuẩn của Hồ Nam chảy vào Quảng Đông từ năm 2009 đến nay. Hồ Nam trở thành vùng trọng điểm đất nhiễm độc.

      Trong thực phẩm hàm lượng kim loại nặng vượt tiêu chuẩn nguy hại đến sức khỏe con người, đã có không ít vụ xẩy ra. Bình quân mỗi năm ở Trung Quốc xẩy ra 150 vụ sự cố ô nhiễm. Năm 2009 và 2010 đã xẩy ra gần 20 vụ máu nhiễm độc chì. Hoặc ở Nhật đã từng phát sinh “bệnh đau nhức” được công bố ở thế kỷ trước, là do sau khi nguồn nước sông bị ô nhiễm Cd, trong nước sông, lúa, tôm cá nhiễm lượng lớn Cd, sau đó thông qua chuỗi thực phẩm, Cd đi vào cơ thể người và tích lũy lại, dẫn đến xương bị loảng ra, các khớp bị tổn thương, toàn thân đau nhức thảm hại. Kim loại nặng còn tích đọng trong gan, thận, tụy, tuyến giáp, khung xương cốt, dẫn đến các chứng thiếu máu, huyết áp cao, rối loạn hệ thống tiết niệu, đau mỏi thần kinh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động bình thường của con người, càng nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng sự phát dục của trẻ em, gây ra các loại ung thư đối với người lớn.

Từ sự việc cụ thể này làm bục ra một vấn đề đất bị nhiễm độc hết sức nghiêm trọng nhưng lâu nay không được công bố ra ngoài. Sau nhiều lần Đổng Chính Vĩ, một luật sư Bắc Kinh yêu cầu Bộ Bảo vệ môi trường công khai 4 điểm : phương pháp điều tra, số liệu, nguyên nhân hình thành, giải pháp phòng trị tình trạng ô nhiễm thổ nhượng toàn quốc, vì liên quan đến quyền lợi sức khỏe của mọi người dân, liên quan đến cải thiện sản xuất nông sản phẩm. Nhưng Bộ Môi trường dứt khoát trả lời là thuộc về “bí mật quốc gia” nên Bộ không được phép công khai.

Đồng Tiềm Minh, chuyên gia Sở nghiên cứu địa chất tỉnh Hồ Nam cho rằng tình hình ô nhiễm đất nông nghiệp Trung Quốc là hết sức gay go. Trong báo cáo “Nghiên cứu hiện trạng và đối sách phát triển an toàn chất lượng gạo Trung Quốc” công bố năm 2010 của Sở Nghiên cứu lúa gạo Trung Quốc và Trung tâm giám sát kiểm nghiệm chất lượng chế phẩm lúa gạo Bộ Nông nghiệp nêu rõ, 1/5 đất canh tác của Trung Quốc đã bị ô nhiễm kim loại nặng, trong đó có 11 tỉnh và 25 vùng đất canh tác bị ô nhiễm Cd. Tại các vùng Hồ Nam, Giang Tây, phía nam Trường giang càng nổi cộm. Vậy đất bị nhiễm độc do đâu ?

Trương Duy Lý, Phó Chủ tịch Hội khoa học thổ nhượng Trung quốc cho rằng, xu thế ô nhiễm thổ nhượng Trung quốc ngày càng gia tăng, hiện rõ đặc điểm hết sức phức tạp, chất ô nhiễm cũ mới cùng tồn tại, chất ô nhiễm vô cơ hữu cơ hỗn hợp với nhau, với nhiều cấp độ nguyên nhân gây ra. Hoặc như cuối năm 2012, Sở Nông nghiệp Hồ Nam đánh giá ô nhiễm kim loại nặng đất nông nghiệp của tỉnh đã hiện rõ xu thế từ ô nhiễm nhẹ phát triển lên ô nhiễm kiểu phức hợp, từ ô nhiễm cục bộ phát triển lên ô nhiễm cả vùng, từ ô nhiễm ngoại ô thành phố phát triển lên ô nhiễm rộng ra cả vùng nông thôn, từ ô nhiễm đất dẫn đến ô nhiễm nguồn nước ngầm, ô nhiễm nông sản phẩm.         

Thứ nhất, là do bản thân nơi đất đó vốn đã hàm chứa nhiều kim loại nặng. Theo thống kê của gần 5.000 bản luận văn trong hơn 30 năm qua đã chỉ rõ ở các vùng tập trung dân đông đúc như xung quanh khu mỏ, xung quanh khu nhà máy công nghiệp, xung quanh thành phố thị  trấn, hai bên đường cao tốc, khu công viên, v.v…hầu như thổ nhượng đều bị ô nhiễm với mức độ khác nhau. Kinh tế càng phát triển, ô nhiễm càng nghiêm trọng, phía nam nghiêm trọng hơn phía bắc. Như Hồ Nam sở dĩ bị ô nhiễm kim loại nặng là vì Hồ Nam là quê hương của kim loại màu, có lịch sử khai thác tuyển chọn đã mấy trăm năm, dọc hai bờ sông Tương Giang và hai vùng Tương Tây, Tương Nam, các khu khai thác mỏ, các nhà máy công nghiệp nặng nhất là các nhà máy hóa chất, cơ sở sản xuất nông dược, chủ yếu tập trung ở Chu Châu, Hoành Dương, Sâm Châu. Qua điều tra năm 2009, có đến 25% diện tích đât canh tác của tỉnh bị ô nhiễm kim loại nặng. Hoặc Quảng Tây là tỉnh khai thác lớn kim loại màu, đã xác định có 5 loại kim loại nặng gây ô nhiễm là thủy ngân, chì, cadimi, crôm và thạch tín (asen). Tỉnh Quảng Đông trong các điểm điều tra chất lượng môi trường thổ nhượng toàn tỉnh vừa qua có 8 loại nguyên tố kim loại nặng đều vượt chuẩn gần 30%, riêng khu tam giác châu Chu giang lên đến 40%, toàn tỉnh diện tích thổ nhượng sạch chỉ còn 11%, ô nhiễm nhẹ 77%, ô nhiễm nặng khoảng 12%. Trong 1/5 tổng diện tích đất canh tác Trung Quốc bị ô nhiễm kim loại nặng, có 2 triệu ha bị ô nhiễm vùng mỏ, khoảng 5 triệu ha bị ô nhiễm dầu lửa, khoảng 50.000 ha bị ô nhiễm các đống chất thải cứng, gần 10 triệu ha bị ô nhiễm các loại rác thải công nghiệp, trên 3,3 triệu ha bị ô nhiễm nước tưới ruộng ô nhiễm. 7 hệ thống sông lớn đều bị ô nhiễm, trong đó Hải Hà bị nặng, Hoàng Hà, Liêu Hà mức trung bình, Tùng Hoa, Hoài Hà mức nhẹ, Trường giang, Chu giang còn tốt. Ngoài ra các nhà máy công nghiệp cũ, các kho chứa hóa chất, nông dược đã di dời chỗ khác để lại nền đất bị ô nhiễm càng nặng ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của cư dân mới đến dựng nhà ở trên đó.

Thứ hai, do bản thân nông nghiệp đã thực hiện chế độ canh tác ngày càng bất hợp lý:

Quá trình dài thực hiện hóa học hóa bất hợp lý, quá lạm dụng phân hóa học, thuốc sâu, thuốc diệt cỏ, màng mỏng nilông. Trong bản thân các hóa chất này đều hàm chứa kim loại nặng, nhất là trong nông dược. Như lượng nông dược Trung Quốc sử dụng đến 1,3 triệu tấn gấp 2,5 lần mức bình quân của thế giới. Qua tính toán, lượng nông dược sử dụng hàng năm chỉ có trên dưới 0,1% là có tác dụng trực tiếp vào mục tiêu phòng trị sâu bệnh, còn lại 99,9% nông dược là đi vào hệ thống sinh thái, gây nên lượng lớn thổ nhượng chứa kim loại nặng, các chất ô nhiễm hữu cơ. Như tỉnh Hồ Nam, năm 2011 toàn tỉnh sử dụng phân hóa học 8,363 triệu tấn, nông dược 120.400 tấn, ni lông mỏng dùng trong nông nghiệp 75.900 tấn. Nhưng hiệu suất cây trồng lợi dụng được các chất này ngay trong vụ sản xuất chỉ trên dưới 30%, còn lại trên dưới 70% tồn đọng lại trong đất, nhất là màng mỏng nilông phải mất trên 20 năm mới phân hủy. Hoặc như hiện nay toàn cầu mỗi năm tổng lượng Cd đưa vào thổ nhượng là trên dưới 660 tấn, trong đó 55% là bằng con đường phân hóa học. Kiểu khai thác “tước đoạt” thổ nhượng này càng tăng mạnh bước đi của kim loại nặng vào thổ nhượng.

Lạm dụng hóa chất nông nghiệp thời gian dài làm cho các vi khuẩn có ích (những vi khuẩn có năng lực phân giải kim loại nặng) trong thổ nhượng bị giảm sút, chất lượng thổ nhượng giảm theo, năng lực tự làm sạch của thổ nhượng suy giảm, dẫn đến sản lượng và chất lượng cây tròng giảm sút. Theo thống kê của Bộ Bảo vệ môi trường, mỗi năm lương thực bị nhiễm kim loại nặng cao đến 12 triệu tấn, trực tiếp gây tổn thất kinh tế lên tới 20 tỷ Nhân dân tệ. Quá trình dài sử dụng lượng lớn phân hóa học làm cho độ PH của đất ngày giảm thấp (tức độ chua tăng lên, mức độ chua hóa của đất chỉ 30 năm qua đã bằng mức chua hóa 300 năm trong điều kiên tự nhiên), càng tạo môi trường thuận lợi cho các kim loại nặng vốn có trong đất được giải phóng, làm tăng hàm lượng kim loại nặng trong đất.

Do người nhiều đất canh tác ít, đã chạy theo năng suất sản lượng trên đơn vị diện tích, coi nhẹ bảo hộ và bồi bổ chất lượng đất, bỏ chế độ luân canh hưu canh, áp dụng rộng rãi chế độ liên vụ, một năm làm nhiều vụ trong thời gian dài, không còn thời gian cho đất nghỉ, để đất có thời gian tự khôi phục năng lực tự làm sạch. Nước, độ phì, không khí và nhiều thứ nguyên tố trong chất lượng thổ nhượng là quan hệ với nhau, nhưng không được chăm sóc, như đất ruộng lúa ở Hồ Nam nay chỉ cày sâu khoảng 13cm, có nơi chỉ gãi qua 8 cm, so với trước đã giảm mất 3-4 cm, đã bỏ mất chế độ “cày sâu cuốc bẩm”.

Trong chăn nuôi lợn, để diệt giun sán lợn giúp tăng trọng nhanh và có thịt màu đỏ tươi đẹp, người ta đã cho thêm chế phảm có chứa thạch tín (Asen) và axit xuyn phuya rích trong thức ăn lợn. Những chất này theo phận chăn nuôi ra đồng ruộng.

Các cơ sở sản xuất, kho tàng nông dược nhỏ lẻ, công nghệ sản xuất, thiết bị bảo quản lạc hậu, tùy tiện xả thải ra môi trường dân cư, đồng ruộng.

Nguồn nước tưới cây, tưới rau quả đã bị ô nhiễm kim loại nặng, khói bụi từ nhà máy công nghiệp khi gặp mưa rơi xuống đồng ruộng, làm cho đất bị ô nhiễm.

Thứ ba, sự hiểu biết, nhận thức về ô nhiễm đất và tác hại nghiêm trọng của ô nhiễm đất đến con người đến môi trường sinh thái, đến phát triển kinh tế xã hội không đầy đủ của các cấp lãnh đạo cũng như của dân chúng trong thời gian dài.

Về ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước, tiếng ồn dễ nhận biết dễ thấy tác hại, còn ô nhiễm đất khó nhận biết, khó thấy tác hại trực tiếp, nhất là quan niệm và tiêu chuẩn sạch về nông sản phẩm mới dừng lại ở cảm quan bề ngoài, chưa chú trọng về hàm lượng kim loại nặng ẩn chứa bên trong từng hạt gạo, cọng rau, trái cây, dễ bị “điếc không sợ súng”, nên đã có không ít nhận thức và hành vi “ô nhiễm đi trước, trị lý đi sau”, “phá hoại trước, sửa chữa tính sau” miễn sao thu được lợi nhuận cao, GDP tăng nhanh đạt thành tích nhiệm kỳ trước mắt, “đời cua cua máy, đời cáy cáy mò”, không hơi đâu mà lo xa cho mệt. Mặt khác về phía kiểm soát cũng gặp không ít hạn chế, lúng túng, chỉ dừng lại những qui định chung chung, không có hiệu lực thực sự, là lỗ hyổng lớn cho tình trạng gây ô nhiễm đất ngày càng nghiêm trọng.

Điều ẩn chứa đằng sau ô nhiễm môi trường nói chung, ô nhiễm đất nói riêng là chưa giải quyết tốt vấn đề mâu thuẩn giữa phát triển với bảo vệ môi trường; giữa lợi ích trước mắt, cục bộ, bộ phận với lợi ích lâu dài, toàn diện, toàn cục; giữa chất lượng và số lượng, tốc độ với bền vững, chiều sâu với chiều rộng trong phát triển kinh tế; giữa kinh tế, môi trường sinh thái với con người với xã hội và ngược lại con người, xã hội đối với kinh tế, môi trường sinh thái.

Từ đó vấn đề đặt ra cần xem xét lại những bất cập trong đường lối, chiến lược, chính sách phát triển kinh tế nói chung, nhất là về phát triển công nghiệp, đô thị, nông nghiệp, nông thôn, trong xây dựng và thực hiện luật pháp, trong nghiên cứu khoa học kỹ thuật liên quan, trong xây dựng nâng cao sự hiểu biết và ý thức trách nhiệm về bảo vệ cải thiện chất lượng môi trường nói chung và môi trường đất nói riêng của các cấp lãnh đạo và toàn xã hội.

Vấn đề khắc phục, làm giảm tốc đô ô nhiễm đất được đặt ra quyết liệt, mạnh mẽ trong kế hoạch 5 năm lần thứ 12 của Trung quốc, nhưng cũng gặp không ít khó khăn:

Về kỹ thuật, công nghệ xử lý, làm sạch đất khó hơn gấp nhiều lần làm sạch không khí, sạch nước, bởi vì kim loại nặng khó tách khỏi thổ nhượng, khác hẳn với các chất thải hữu cơ. Nơi bị ô nhiễm nhẹ cũng phải mất 3 – 5 năm vẫn chưa thể khôi phục được hoàn toàn như cũ. Hiện nay trên thế giới đưa ra nhiều cách, nhưng chủ yếu dựa trên hai nguyên lý : kiềm chế (in- aiturem ediation) và loại bỏ (re move, ex-situ) bằng các giải pháp chon cách ly, cố hóa ổn định, phân ly bằng nhiệt, ổn định hóa học, thay đất mới, tẩy rửa thổ nhượng, biện pháp sinh học. Nhưng mỗi giải pháp đều có hạn chế nhất định trong áp dụng và nẩy sinh vấn đề khác càng khó khắc phục hơn.

Thập kỷ 70 thế kỷ trước, Nhật Bản đã xử lý thổ nhượng tại huyện Phu-San, với diện tích 863ha đất ruộng, chi ra 340 triệu USD với 33 năm để tiến hành thay đất mới, bình quân mỗi ha gần 400.000 USD.

Các chuyên gia cho rằng, tương đối mà nói, dùng cách thay đất mới giá thành rất cao, nếu dùng biện pháp sinh học, bằng cách trồng cây liên tục trong nhiều năm, mỗi ha ít nhất cũng phải 300.000 nhân dân tệ, với tổng diện tích canh tác Trung Quốc bị ô nhiễm kim loại nặng là phải bỏ ra ít nhất 6.000 tỷ nhân dân tệ, nhưng lại không thể ngừng sản xuất để xử lý đất, cũng không thể vì xử lý ô nhiễm mà thay đổi công năng của đất canh tác.

Hơn nữa hiện nay còn nhiều vấn đề chưa rõ, như mức độ ô nhiễm, ô nhiễm loại kim loại nào, diện tích cụ thể và ở đâu; mục tiêu, tiêu chuẩn khôi phục đến mức độ nào là đạt.

Về phương diện kỹ thuật vẫn rất lạc hậu, không có hệ thống giám định hữu hiệu, không thể kịp thời cập nhật tình hình, không thể định ra phương án khôi phục chuẩn xác. Ngay như hiện nay, Trung quốc đánh giá “địa lực” (sức của đất), thường dùng hàm lượng chất hữu cơ của thổ nhượng, nhưng trong thực tế giám định lại dùng toàn lượng chất hữu cơ, chứ không phải chất hữu cơ hoạt tính, nên khó phản ánh đúng diễn biến địa lực và thổ nhượng của đất canh tác.

Về kinh tế, ai bỏ ra khoản chi phí lớn này, cũng là vấn đề tranh cãi.

Lý Quốc Tường, nghiên cứu viên, Viện khoa học xã hội Trung quốc cho rằng, từ góc độ chuối an toàn thực phẩm để xét, phải tăng cường kiểm soát đầu nguồn là quan trọng nhất. Tổn thất do ô nhiễm công nghiệp gây ra không thể đổ lên đầu nông dân gánh chịu, mà phải do cơ sở công nghiệp thải ra gánh chịu, cần xác định rõ chủ thể chịu trách nhiệm.

Hoặc có ý kiến đưa ra nguyên tắc “ai gây ra ô nhiễm, người đó xử lý”, nhưng phần lớn các nhà máy công nghiệp đều là của nhà nước, hơn nữa gây ra trong quá trình dài, qua nhiều đời lãnh đạo nhà máy, nên cuối cùng lại phải lấy tỉền nhà nước để giải quyết.

Lại có người đề ra nguyên tắc “ai hưởng lợi, người đó chịu trách nhiệm xử lý”, thì cũng như nguyên tắc trên, cuối cùng vẫn nhà nước chịu trách nhiệm.

Trong nông nghiệp chủ yếu là nông dân làm theo chế độ canh tác do nhà nước hướng dẫn, hơn nữa ruộng đất là thuộc sở hữu nhà nước, nông dân chỉ nhận khoán sản lượng, chứ không nhận khóan giữ chất lượng đất, nên nông dân không thể bỏ tiền ra xử lý ô nhiễm.

Cũng có ý kiến đề nghị tổ chức bảo hiểm đất, nhưng cũng khó thực hiện. Cũng có ý kiền đề nghị kêu gọi các tổ chức kinh tế kỹ thuật đấu thầu xử lý ô nhiễm đất. Còn nhiều sáng kiến khác, nhưng chưa cái nào đã đi vào thực tiễn.

Về luật pháp thì còn nhiều bất cập, chưa thành hệ thống bao quát được mọi khâu của quá trình giám sát, ngăn ngừa, phát hiện, điều tra, xử lý, trừng phạt gây ra ô nhiễm, có hiệu lực thực sự.

Và nhiều mặt liên quan khác cũng phải xem xét chấn chỉnh.

Từ chuyện ô nhiễm đất của Trung Quốc, chúng ta có thể suy ngẫm nhiều điều. Để có được danh hiệu đứng thứ hai thế giới về GDP, với sự trả giá nhiều mặt, trong đó sự trả giá về sự phá hoại chất lượng đất nông nghiệp, tư liệu sản xuất cơ bản của mấy trăm triệu nông dân ít ra vài ba thế hệ tới, phá hoại từ đầu nguồn của chuỗi sản xuất cung cấp thực phẩm không an toàn cho cả tỷ người sử dụng, cũng đáng suy nghĩ. Con người ngày càng đi lên hiện đại, nhưng lâu nay lại không nhận thực rõ hiện đại là con dao hai lưỡi. Nếu hiện đại rơi vào tay con người có tầm kiến thức và tầm văn hóa tương ứng với hiện đại, thì sẽ phát huy sức mạnh tích cực cho xã hội phát triển. Nếu ngược lại, hiện đại nắm trong tay con người thiếu hiểu biết, thiếu tầm văn hóa tương ứng lại càng phát huy sức mạnh tiêu cực phá hoại của hiện đại đối với xã hội, với con người. Chúng ta đi sau, đúng là lạc hậu với thiên hạ, nhưng nếu chúng ta biết tìm học những bài học phản diện của thiên hạ đi trước, để mình tránh lặp lại cái giá phải trả của thiên hạ, để tìm ra cách đi của mình đúng đắn phù hợp với tình hình của mình, phù hợp với cơ hội mới, điều kiện mới của thời đại là rất cần thiết./.

..........................

(Nguồn: Mạng Tân Hoa ngày 08/11/012, 28/01/013, 02/3/013, 22/3/013, 19/5/013, 12/6/013, 21/6/013; Mạng Trung Quốc ngày 25, 26/02/013; Nhất báo Pháp chế ngày 01/11/012, 09/5/012; Mạng Bộ Bảo vệ môi trường ngày 25/7/012, 14/5/013; Nhật báo Quang Minh ngày 26/5/013; Nhật báo Triết giang ngày 16/10/012; Nhật báo Phương Nam ngày 14/6/013; Báo Khoa học kỹ thuật ngày 06/6/012; Báo tham khảo kinh tế ngày 17/6/2013; Báo Thanh niên TQ ngày 22/02/013.)

Hà Nội, tháng Chín, năm 2013.

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114599927

Hôm nay

2528

Hôm qua

2406

Tuần này

2528

Tháng này

226544

Tháng qua

131357

Tất cả

114599927