Từ ngày thành lập nước CHND Trung Hoa tới nay, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã có nhiều thăm dò và thử nghiệm trên vấn đề quan điểm tôn giáo. Có lúc Đảng kiên trì quan điểm duy vật lịch sử và chính sách tự do tín ngưỡng tôn giáo; có lúc chịu ảnh hưởng của « Thuyết Thuốc phiện » và « Thuyết đấu tranh » mà xuất hiện sai lầm tả khuynh. Cũng có rất nhiều trường hợp Đảng đã kết hợp với tình hình thực tế trong nước mà có sáng tạo.
Trước tiên nói về Mao Trạch Đông. Về mặt quan điểm tôn giáo, Chủ tịch Mao có mấy cống hiến như sau :
1) Xuất phát từ thực tế giới tôn giáo Trung Quốc, coi giới tôn giáo là đối tượng của mặt trận thống nhất dân tộc, coi công tác tôn giáo là một phần của công tác mặt trận.
2) Phân biệt hai loại mâu thuẫn khác tính chất, cho rằng phần lớn mâu thuẫn sinh ra trên vấn đề tôn giáo là mâu thuẫn nội bộ nhân dân.
3) Trưởng ban Mặt trận thống nhất Lý Duy Hán đề xuất « Thuyết 5 tính chất của tôn giáo », nhìn thấy tôn giáo không những chỉ là một loại tín ngưỡng tư tưởng mà còn là một lực lượng xã hội, do đó tôn giáo có 5 tính chất xã hội : tính quần chúng, tính lâu dài, tính phức tạp, tính dân tộc và tính quốc tế.
4) Nhấn mạnh trên vấn đề tín ngưỡng tư tưởng không thể áp dụng biện pháp có tính cưỡng chế ; cũng không thể cưỡng chế nhân dân tín ngưỡng chủ nghĩa Mác.
5) Trong công tác tôn giáo dân tộc nhấn mạnh áp dụng phương châm « thận trọng tiến chắc».
6) Năm 1963, Mao Trạch Đông khi duyệt văn bản thỉnh thị thành lập một số cơ quan nghiên cứu vấn đề nước ngoài có bút phê một chỉ thị quan trọng: « Chưa đề cập vấn đề nghiên cứu tôn giáo. Ba tôn giáo lớn trên thế giới cho đến nay vẫn ảnh hưởng tới đông đảo dân chúng nhưng chúng ta chưa có hiểu biết [về tôn giáo] » Mao Trạch Đông có thái độ nghiêm khắc đối với thần học tôn giáo nhưng ông nhìn thấy tính quan trọng của việc nghiên cứu tôn giáo, thấy được mối quan hệ khăng khít giữa nghiên cứu tôn giáo với khoa học nhân văn. Vì vậy năm 1964 đã thành lập cơ quan nghiên cứu tôn giáo đầu tiên của Trung Quốc — Viện Nghiên cứu tôn giáo thế giới. Ngày nay việc nghiên cứu tôn giáo ở Trung Quốc đang phát triển sôi nổi, điều đó có liên quan trực tiếp với lời phê năm xưa của Mao Trạch Đông.
Dĩ nhiên, từ sau năm 1957, do nhấn mạnh đấu tranh giai cấp là quan trọng nhất, quy kết vấn đề dân tộc là vấn đề đấu tranh giai cấp, thường xuyên nâng cao vấn đề tôn giáo thành vấn đề chính trị, trong « Cách mạng văn hóa » đã nâng « Thuyết Thuốc phiện » và « Thuyết đấu tranh » lên tới cao điểm, gây ra sự phá hoại lớn, hỗn loạn lớn, vứt bỏ tinh thần lý tính của chủ nghĩa Mác.
Đặng Tiểu Bìnhđã tiến hành cải cách mở cửa, đưa ra văn kiện số 19 năm 1982 về vấn đề tôn giáo, uốn nắn đường lối cực tả trong « Cách mạng văn hóa », khiến cho lý luận tôn giáo, chính sách tôn giáo và công tác tôn giáo trở lại quỹ đạo chủ nghĩa Mác ; sửa các án oan, án sai, án giả, thực hành chính sách tự do tín ngưỡng tôn giáo, làm cho hoạt động tôn giáo trở lại bình thường. Trên mặt lý luận, Đặng đã luận chứng về tính lâu dài và tính tất nhiên của sự tồn tại tôn giáo trong thời kỳ XHCN, vạch ra trọng tâm của công tác tôn giáo là đoàn kết quần chúng giáo dân để họ tham gia sự nghiệp xây dựng CNXH, lại nhấn mạnh sự đoàn kết và hợp tác giữa 3 đội ngũ : bộ môn quản lý tôn giáo, giới học thuật tôn giáo và giới tôn giáo. Từ đó trở đi, « Thuyết Thuốc phiện » bị phai nhạt ; các văn bản công bố liên quan đến tôn giáo không còn dùng câu « tôn giáo là thuốc phiện » nữa, bởi lẽ đã thấy tác dụng tiêu cực của câu này. Dưới chế độ XHCN, ai lợi dụng tôn giáo để làm mê hoặc nhân dân ? Nói như vậy [nói tôn giáo là thuốc phiện] là không đúng.
Trên vấn đề tôn giáo, tập thể lãnh đạo thế hệ III của Trung Quốccũng đưa ra hai lý thuyết, tức « Thuyết thích ứng » và « Thuyết dẫn dắt [nguyên văn: dẫn đạo] ». Trong nhiều quan điểm quan trọng họ đề xuất về vấn đề tôn giáo, tôi cho rằng quan trọng nhất là câu « Tích cực dẫn dắt tôn giáo thích ứng với xã hội XHCN ». Câu này do Giang Trạch Dânđưa ra. Trước đó nhiều học giả từng thăm dò vấn đề rốt cuộc tôn giáo nên có mối quan hệ như thế nào với xã hội XHCN. Hai học giả tiêu biểu là La Trúc Phong và Tiêu Chí Điềm ở Thượng Hải qua điều tra nghiên cứu đã viết cuốn « Vấn đề tôn giáo của Trung Quốc trong thời kỳ XHCN » và nhiều bài báo, đề xuất có thể điều hòa phối hợp tôn giáo với xã hội XHCN. Các nghiên cứu của họ đã cung cấp những ý kiến tham khảo quan trọng cho việc đổi mới lý luận tôn giáo ở Trung Quốc.
« Tích cực dẫn dắt tôn giáo cho thích ứng với xã hội XHCN » —ý tưởng đó quan trọng ở chỗ nào ? Tính chất quan trọng ấy thể hiện ở chỗ : lần đầu tiên trong lịch sử phong trào cộng sản, trong lịch sử phát triển chủ nghĩa Mác đã giải quyết đúng đắn chính diện vấn đề mối quan hệ giữa tôn giáo với CNXH. Nếu tôn giáo có thể thích ứng với xã hội XHCN, thế thì nó tất phải có điểm chung với CNXH mà không phải là tuyệt đối đối lập ; nếu không thì không thể nào dẫn dắt được, không thể nào thích ứng được. Dĩ nhiên tôn giáo cũng có chỗ không thích ứng, nhưng vì có cơ sở thích ứng với nhau, cho nên có thể dẫn dắt; dẫn dắt thì không phải là đấu tranh —đây là một sáng tạo đổi mới rất nổi bật.
Kiên trì « Thuyết thích ứng » và « Thuyết dẫn dắt » thì phải vứt bỏ lập trường phản tôn giáo đòi đấu tranh với tôn giáo, vứt bỏ quan điểm coi tôn giáo là lực lượng khác mình; phải không những coi tôn giáo là kiến trúc tầng trên của xã hội chế độ tư hữu mà còn là kiến trúc tầng trên của xã hội XHCN, tôn giáo là một hệ thống văn hóa xã hội bình thường. Tôn giáo thích ứng với xã hội XHCN không những là trên mặt chính trị thì tư tưởng tôn giáo, văn hóa tôn giáo có thể nối thông với văn hóa tư tưởng XHCN. Cho nên Giang Trạch Dân nói giới tôn giáo phải yêu nước và tôn trọng pháp luật, phải khai thác các nhân tố tích cực trong giáo lý, trong đạo đức tôn giáo để phục vụ xã hội XHCN. Như vậy là đã vượt xa cách đặt vấn đề trong thời đại Mao Trạch Đông (thời Mao đặt vấn đề là : người cộng sản chúng ta chỉ có thể liên minh về chính trị với giới tôn giáo, còn trên tư tưởng thì phải nghiêm ngặt vạch rõ giới hạn).
Tôn giáo thích ứng với xã hội XHCN trên tất cả các mặt, là hòa hợp mà vẫn khác biệt [hòa nhi bất đồng], là sự thích ứng có khác biệt. Điều đó có liên quan tới truyền thống văn hóa của Trung Quốc. Ông Phí Hiếu Thông nói kết cấu của dân tộc Trung Hoa là đa nguyên nhất thể. Trên mặt văn hóa cũng như vậy : Tam giáo Nho, Phật, Đạo đứng ngang nhau, ngoài ra còn có đạo Islam [1], Ki-tô giáo [2], đạo Mani [Manicheism], đạo Do Thái, nhiều loại tôn giáo chung sống hòa bình. Vùng Trung Nguyên chưa bao giờ xảy ra chiến tranh tôn giáo đổ máu, cũng chưa hề xuất hiện tòa án [Tài phán sở] tôn giáo, là điều hiếm có trên thế giới.
Người cộng sản Trung Quốc kế thừa truyền thống tốt đẹp đó của văn hóa Trung Quốc, ngày càng khoan dung về chính sách tôn giáo và về thái độ đối với tôn giáo, ngày càng xa rời cách làm theo kiểu nước Nga mà đi con đường của mình. Hiển nhiên tôn giáo và CNXH có sự khác biệt, cơ sở triết học khác nhau, nhưng điểm cơ bản trong chính sách hiện nay của chúng ta là tìm kiếm những điểm tương hợp, tập trung công sức chính vào việc khai thác một số nội dung tích cực và trí tuệ trong các hệ thống tôn giáo, nhằm cải thiện đời sống chúng ta, cải thiện xã hội chúng ta. Quan điểm tôn giáo của chủ nghĩa Mác luôn thay đổi [nguyên văn: ở trạng thái động], không ngừng phát triển. « Thuyết Thích ứng » và « Thuyết Dẫn dắt » hiện nay đã vứt bỏ « Thuyết Thuốc phiện » và « Thuyết đấu tranh », chẳngnhững trở về mà còn vượt qua « Thuyết Phản ánh duy vật » và « Thuyết Cải cách xã hội ».
Có thể có một trở ngại tư tưởng như sau : cho rằng Đảng Cộng sản là chính đảng theo thuyết vô thần, không thể thực sự phối hợp điều hòa với tôn giáo, về bản chất Đảng tất nhiên là chống tôn giáo, cho nên chính sách tự do tín ngưỡng tôn giáo của Đảng chỉ có thể là tạm thời ứng phó [nguyên văn: quyền nghi], là sách lược thôi. Chính là có một số người phương Tây nhìn nhận chúng ta như vậy, và trong hàng ngũ chúng ta cũng có người nhìn nhận mình như thế., họ đều không tin CNXH có thể chung sống hòa hợp với tôn giáo. Dĩ nhiên điều đó là sai lầm. Nếu thuyết vô thần của chúng ta là thuyết vô thần cũ trong lịch sử thì chúng ta khó tránh khỏi không áp dụng lập trường chống tôn giáo. Nhưng thuyết vô thần của người cộng sản chúng ta là thuyết duy vật biện chứng và thuyết duy vật lịch sử, chúng ta hiểu quy luật sản sinh và phát triển của tôn giáo, coi tôn giáo là một hiện tượng văn hóa lịch sử tất nhiên, có tính hợp lý và tính lâu dài ; khi nào còn tồn tại hiện tượng dị hóa xã hội thì cũng sẽ còn tồn tại tôn giáo. Đồng thời người cộng sản muốn đại diện cho lợi ích căn bản của quần chúng rộng rãi nhất thì phải tôn trọng quyền lợi thiêng liêng lựa chọn tín ngưỡng của quần chúng. Xuất phát từ hai điểm này, CHXH của chúng ta phải là chủ nghĩa khoan dung nhất với tôn giáo, người cộng sản chúng ta nên trở thành người ủng hộ kiên định nhất chính sách tự do tín ngưỡng tôn giáo; chỉ có như vậy mới phù hợp với thế giới quan và tính nhân dân của chúng ta. Vì không có tín ngưỡng tôn giáo nên người cộng sản có thể đối xử như nhau với tất cả các tôn giáo. Nếu tầng lớp quản lý xã hội có tín ngưỡngtôn giáo riêng [đặc định] thì về chính sách, tầng lớp đó sẽ tự giác hoặc không tự giác hướng về tôn giáo họ tín ngưỡng, từ đó phân biệt đối xử với các tín ngưỡngkhác, vì thế rất khó thực hiện được tự do tín ngưỡngtoàn diện. Như trong xã hội Mỹ hiện nay, Ki-tô giáo có vô vàn mối liên hệ với quyền lực chính trị, thường bị thế lực chính trị lợi dụng.
Ngày nay chúng tađã có một tiến bộ quan trọng là hiểu biết về tôn giáo đã nâng cao từ hiểu biết đơn giản hóa lên hiểu biết toàn diện. Trong lịch sử, các giai cấp thống trị thường lợi dụng tôn giáo để mê hoặc nhân dân, đó cũng là sự thực. Tôn giáo đương đại vẫn có tính hai mặt, có tác dụng tiêu cực rất lớn trong các xung đột dân tộc và địa phương trênthế giới. Nhưng nói về chức năng xã hội của tôn giáo thì còn phải tìm hiểu từ mặt tích cực. Thí dụ chức năngchỉnh hợp về chính trị, chức năng điều chỉnh tâm lý, chức năng giáo hóa về đạo đức, chức năng công ích xã hội, chức năng thúc đẩy văn hóa, ít nhất có 5 chức năng lớn.
Hiện đang có một quan điểm phổ biến: coi tôn giáo là văn hóa. Tôn giáo có tính chính trị nhưng không thuộc vào hệ thống chính trị, về cơ bản nó là một hệ thống văn hóa xã hội. Tôn giáo Trung Quốc là một bộ phận cấu thành quan trọng của văn hóa truyền thống Trung Quốc. Xem xét vấn đềnhư vậy thì tầm nhìn của chúng ta được mở ra, điểm chung giữa người XHCN với tôn giáo sẽ ngày một nhiều lên. Văn hóa truyền thống Trung Quốc có lịch sử lâu đời, uyên bác thâm thúy, có nhiều tinh hoa, trong đó có sự cống hiến của các loại văn hóa tôn giáo. Những người XHCN nước ta muốn ươm trồng và phát huy tinh thần dân tộc, kế thừa và phát triển văn hóa truyền thống tốt đẹp của mình thì không thể không kính trọng và chú ý thu nạp, hấp thu các loại tôn giáo và văn hóa của họ.
Sự thích ứng thì có hai chiều. Người XHCN phải xóa bỏ các thành kiến lệch lạc đối với tôn giáo, phải toàn diện hiểu tôn giáo và biết cách dẫn dắt tôn giáo thích ứng với xã hội, phục vụ đại chúng. Đồng thời tôn giáo (chủ thể là giới tôn giáo) cũng phải tự điều chỉnh, không ngừng tiến lên. Tín ngưỡng cơ bản của tôn giáo là thứ không thể thay đổi được nhưng sự giải thích của tôn giáo về kinh sách của họ và phương thức hoạt động của tôn giáo thì lại thay đổi theo sự phát triển của thời đại, nhằm mục đích thích ứng tốt hơn với xã hội; nếu không sẽ bị đào thải. Hơn nữa nếu tôn giáo muốn giữ cho bản thân mãi mãi là lực lượng lành mạnh thúc đẩy văn minh thì tất phải luôn luôn nâng cao tố chất văn hóa và hàm lượng văn hóa của mình, tăng cường sự thông tuệ lý trí của tôn giáo, kiên trì phương hướng chân, thiện, mỹ mà tôn giáo thể hiện, cung cấp cho xã hội những món ăn tinh thần phong phú đa dạng, làm nhiều làm tốt hơn vì sự yên ổn của xã hội và hạnh phúc của nhân dân, như vậy tự nhiên tôn giáo được xã hội hoan nghênh. Nếu không mà cứ theo lề thói cũ thì sẽ có thể xơ hóa suy thoái, dung tục chạy theo công lợi thì sẽ thối nát biến chất, cực đoan bí hiểm thì sẽ có thể vi phạm luật pháp trở thành tà giáo. Bởi vậy việc tự thân xây dựng của tôn giáo là rất quan trọng.
Một số quan điểm và nhận thức
Sau đây tôi xin trình bày một số quan điểm về tính lâu dài, tính quần chúng và tính phức tạp của tôn giáo.
Những người mác xít trước kia khi nói về tính lâu dài của tôn giáo thường chú ý tới 3 căn nguyên lớn: chế độ bóc lột, sự nghèo đói và ngu dốt của quần chúng do chế độ bóc lột gây ra. Việc thanh toán 3 căn nguyên đó là không dễ, nhưng rốt cuộc vẫn có thể dự kiến được các giai đoạn của quá trình này. Còn có 3 căn nguyên nữa cũng khó dự kiến được, đó là số phận [nguyên văn: mệnh vận], sự sống chết, tai nạn bất ngờ. Ang-ghen nói: « Khi nào mưu sự tại nhân, thành sự cũng tại nhân » thì tôn giáo sẽ diệt vong. Con người bao giờ cũng khó hoàn toàn nắm được mệnh vận của mình. « Mưu sự tại nhân, thành sự cũng tại nhân » là một mục tiêu xa vời vô hạn. Vấn đề sống chết cũng là một mâu thuẫn có tính vĩnh hằng, sự sống hữu hạn muốn tìm kiếm sự tồn tại vô hạn, vì thế mà sợ chết, muốn vượt qua cửa ải lớn sống chết để được sống mãi mãi. Tôn giáo có thể đáp ứng nhu cầu tâm lý này của mọi người. Ngoài ra còn có những tai họa không thể tưởng tượngđược, như dịch cúm SARS, động đất, tiểu hành tinh đâm vào trái đất v.v… Sự sống của con người là yếu ớt, mong manh ; đứng trước sức mạnh vũ trụ thì quần thể loài người cũng yếu ớt, cho nên cần dựa vào tôn giáo để tăng lòng tin. Nên hiểu tính lâu dài của tôn giáo như vậy; trong xã hội XHCN, tôn giáo chẳngnhững tồn tại lâu dài mà còn không có xu hướng diệt vong.
Tôn giáo có tính quần chúng rất mạnh. Hàng nghìn hàng vạn tín đồ đều là dân thường. Người cộng sản xưa nay đều đi con đường quần chúng, cho nên họ sẽ tôn trọng sự lựa chọn tín ngưỡngcủa quần chúng, bảo vệ sự tự do tín ngưỡngcủa quần chúng. Hơn thế nữa, nếu tuyệt đại đa số dân trong một vùng nào đó không theo tôn giáo mà chỉ có một số ít người tín ngưỡngtôn giáo thì ta có nên bảo vệ sự tự do tín ngưỡngcủa họ hay không ? Vẫn cứ cần phải bảo vệ, bởi lẽ đây là vấn đềbảo vệ quyềncon người cơ bản. Nhân quyền, pháp trị, lý tính, tự do đều là những ý tưởng hiện đại; chúng ta cần nâng cao tôn trọng tự do tín ngưỡng lên tới độ cao tôn trọng quyền con người, như vậy mới có thể giải quyết vấn đề một cách cơ bản.
Lênin từng nêu ra cho những người cộng sản một nhiệm vụ: « Chuyên chính vô sản cần phải kiên trì không ngừng làm cho quần chúnglao động trênthực tế được giải phóng ra khỏi thành kiến lệch lạc của tôn giáo ». Phải chăng đây là nhiệm vụ mà người cộng sản cần phải và có thể hoàn thành ? Nếu họ làm nhiệm vụ đó thì liệu có vi phạm chính sách tự do tín ngưỡngtôn giáo hay không?
Theo tôi, chúng ta không có nhiệm vụ cải tạo thế giới quan của quần chúng tín ngưỡng tôn giáo. Trách nhiệm của người cộng sản là mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, xây dựng tốt xã hội, nâng cao văn minh XHCN tới mức độ lý tưởng rất cao. Còn về vấn đề tín ngưỡng thì để mọi người tự do lựa chọn, chỉ cần họ yêu nước và tuân thủ luật pháp là được. Dĩ nhiên trong nhà trường cần tiến hành giáo dục thuyết vô thần, chủ yếu là kết hợp khoa học, giảng dạy phổ cập cho tốt thuyết duy vật và thuyết biện chứng ; đồng thời dạy cho học sinh nắm được kiến thức tôn giáo học đúng đắn để các học sinh có thể đối xử với tôn giáo bằng thái độ có lý trí.
Về tính phức tạp đặc thù của tôn giáo, những năm qua chúng ta đã có được nhiều nhận thức hơn. Tôn giáo tự nó là một thể tổng hợp có kết cấu phức tạp. GS Lã Đại Cát đưa ra thuyết 4 yếu tố của tôn giáo. Tôi cũng có thuyết 4 tầng nấc : - Tín ngưỡng siêu thế là hạt nhân của hệ thống tôn giáo. - Tầng ngoài của nó, do tầng lớp tinh hoa tôn giáo xây dựng nên thần học, triết học, luân lý và thanh quy giới luật của tôn giáo, hình thành một tầng lý luận, có thể gọi đó là hệ thống giải thích của tôn giáo. - Nó còn có một tầng thực thể, là các tín đồ, nhân viên chức sắc tôn giáo, nhà thờ, đền chùa miếu đình, đồ thờ [khí vật], tài sản và hoạt động tôn giáo, đó là giới tôn giáo và phương thức sống của họ. - Tầng ngoài cùng là văn hóa tôn giáo, nó đan xen với văn học nghệ thuật, luân lý triết học, khoa học kỹ thuật dân gian.
Tôn giáo có mối quan hệ khăng khít và rộng rãi với chính trị xã hội, kinh tế, văn hóa, dân tộc ; không thể nhìn nhận vấn đềchỉ từ một góc độ. Mâu thuẫn trong lĩnh vực tôn giáo phần lớn là mâu thuẫn nội bộ nhân dân ; đồng thời cũng tồn tại vấn đề« tôn giáo yểm hộ kẻ địch, kẻ địch lợi dụng tôn giáo ». Ngoài ra, giữacác tôn giáo cũng có vô vàn sự khác biệt. Nói về tôn giáo ở Trung Quốc thì Đạo giáo sinh trưởng tại Trung Quốc, tính dân gian khá mạnh; Phật giáo chú trọng tư biện, lý tính triết học khá mạnh; đạo Islam lưu truyền trong các vùng dân tộc ít người, tính dân tộc khá mạnh ; đạo Thiên chúa vàđạo Tin lành [nguyên văn: Ki tô giáo] [3] có sự giao tiếp không thể chia cắt với phương Tây [nguyên văn: Trung Tây ?], tính quốc tế khá mạnh. Lẽ tự nhiên các tôn giáo đó không giống nhau về mặt tác dụng và phương thức trong quá trình thích ứng với hiện đại hóa XHCN ; như vậy thì phương pháp tiến hành công tác tôn giáo cũng phải tùy theo tôn giáo, mỗi tôn giáo có mặt chú trọng riêng. Có thể nói, tính dân tộc và tính quốc tế của tôn giáo là những biểu hiện quan trọng tính phức tạp của tôn giáo. Vì thế việc xử lý vấn đềtôn giáo cần đặc biệt thận trọng, tỷ mỷ, hoàn bị.
Hiện nay Trung Quốc đang dốc sức vào công cuộc hiện đại hóa XHCN và xây dựng toàn diện xã hội khá giả, điều đó yêu cầu chúng ta phải điều động tất cả mọi nhân tố tích cực, đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết được, trong đó có giới tôn giáo và văn hóa tôn giáo.Với sự cố gắng của hai bên, chúng ta có thể làm cho tôn giáo và xã hội XHCN hình thành mối quan hệ tương đối hài hòa, phù hợp lợi ích căn bản của toàn thể nhân dân, cũng có lợi cho sự phát triển bình thường của tôn giáo.
Lênin từng viết bài « Chủ nghĩa xã hội với tôn giáo ». Người cộng sản Trung Quốc nên tham khảo bài học của Liên Xô cũ, kế thừa văn hóa dân tộc ưu tú, tổng kết các kinh nghiệm kể từ ngày thành lập nước CNND Trung Hoa, hấp thu các thành quả văn minh nhân loại hiện đại, viết lại một bài luận văn lớn « chủ nghĩa xã hội với tôn giáo ». Chúng ta có những điều kiện để làm tốt việc đó ; thành công của công cuộc cải cách mở cửa chứng tỏ người Trung Quốc chúng ta có tính sáng tạo độc đáo rất mạnh.
Quan điểm tôn giáo của chủ nghĩa Mác ở trạng thái động và luôn mở, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu các vấn đề mới, tiếp tục tiến hành các thăm dò lý luận. Có rất nhiều vấn đề mới. Thí dụ chủ nghĩa cực đoan tôn giáo và biện pháp hạn chế sự phát triển của nó là những vấn đề rất đáng nghiên cứu; nó gắn liền với cuộc đấu tranh chống khủng bố ở trong, ngoài nước; nó vừa là vấn đề chính trị, vừa là vấn đề tôn giáo.
Một thí dụ nữa: vấn đề tín ngưỡng dân gian, trong thời gian dài trước đây ở ngoài tầm mắt công tác tôn giáo của chúng ta, khi chưa xảy ra vấn đề thì bỏ mặc, khi xảy ra vấn đề thì do ngành công an quản lý. Làm như vậy là không được. Tại Trung Quốc, tầng lớp dân chúng bình thường thì khác với tầng lớp trí thức, cột trụ tinh thần của họ không phải là triết học mà là tôn giáo. Hơn nữa tín ngưỡng dân gian có đặc điểm là sùng bái đa thần, ngoài 5 tôn giáo lớn ra, còn có nhiều thần trần tục [tục thần] và hoạt động thờ cúng, bản thân nó cũng là một loại sinh hoạt văn hóa. Muốn thay đổi phong tục cũng không thể đơn giản hủy bỏ. Tín ngưỡngdân gian có truyền thống sâu bền, hiện nay còn chưa tìm được cái để thay thế nó. Có cần phải dẫn dắt tín ngưỡngdân gian hay không ? Dẫn dắt như thế nào ? Việc này cần nghiên cứu và thử nghiệm. Quan điểm tôn giáo của chủ nghĩa Mác được phát triển trong quá trình không ngừng nghiên cứu và giải quyết các vấn đềmới nảy sinh. Cùng với sự tiến bộ và mở mang, mở cửa không ngừng của xã hội, lý luận và chính sách tôn giáo của chúng ta cũng sẽ không ngừng được bổ sung và phong phú thêm. Chúng ta cần chung sức thúc đẩy các công tác về mặt này.★
Lược dịch : Nguyễn Hải Hoành
Nguồn : « Mạng tôn giáo dân tộc Trung Quốc »
Ghi chú của người dịch :
[1] 伊斯兰教(Islamism) : ngày xưa TQ gọi là Hồi giáo, vì thấy người dân tộc Hồi ở miền Tây bắc TQ theo tôn giáo này. Năm 1950, chính phủ TQ đã có thông tri cấm dùng từ Hồi giáo, vì thực chất đạo Islam không phải là tôn giáo của dân tộc Hồi. Việt Nam đã quen dùng từ Hồi giáo. Lẽ ra nên dùng đạo Islam.
[2] và [3] 基督教Ki tô giáo (Christianity) : có 3 nhánh chính là đạo Thiên chúa (Catholicism; Công giáo), đạo Tin Lành (Protestantism ; TQ gọi là Tân giáo) và đạo Chính thống (Eastern Orthodox Church). Vì phần lớn tín đồ Ki tô giáo ở TQ theo đạo Tin Lành (Tân giáo), cho nên người TQ thường gọi Ki tô giáo với nghĩa là Tân giáo, như trong trường hợp [3]. TQ hiện có 0,6 triệu tín đồ Thiên chúa giáo. “Sách trắng Tôn giáo” 2010 của Viện Khoa họcxã hội TQ nói TQ có 23,05 triệu tín đồ đạo Tin Lành (Tân giáo).