Trọng tâm của sự chuyển đổi nền kinh tế là việc xây dựng và phát triển các thể chế quan trọng của giai đoạn sau tư hữu hóa và tư hữu hóa, trong đó thể chế tiền tệ đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Do thể chế ngân hàng, thị trường chứng khoán và ngân hàng trung ương có vị trí quan trọng trong thể chế tiền tệ, đồng thời, sự ổn định của ba yếu tố trên có vai trò quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, vì thế chúng được xem như ba cỗ xe ngựa của cải cách tiền tệ.
I. So sánh tư tưởng và phương thức chỉ đạo cải cách tiền tệ Trung-Nga
Trung Quốc và Nga đều bắt đầu cải cách kinh tế, tiền tệ vào thời kỳ cuối thế kỷ 20. Trong quá trình cải cách, hai nước sử dụng lý luận và tư tưởng chỉ đạo khác nhau, phương thức chuyển đổi nền kinh tế và tiền tệ cũng ngược nhau hoàn toàn. Trong quá trình xây dựng lại thể chế kinh tế và thể chế tiền tệ, Trung Quốc áp dụng phương thức chuyển đổi tiến dần, còn Nga sử dụng phương thức cấp tiến. Phương thức tiến dần là phương thức được triển khai trong điều kiện tạm thời không xóa bỏ thể chế cũ, bắt đầu điều chỉnh thể chế kinh tế kế hoạch truyền thống bằng việc thông qua tạo nên các nhân tố thể chế mới để dần dần thực hiện sự chuyển biến về thể chế, từ đó làm cho thị trường phát huy được tác dụng thúc đẩy lớn hơn cho quá trình phát triển kinh tế, cuối cùng thực hiện chức năng cơ bản của thị trường là phân phối tài nguyên, phương thức này cho rằng quá trình chuyển dịch của nền kinh tế cần phải ổn định, tiến dần và phân theo giai đoạn, ưu điểm lớn nhất của phương thức này là làm giảm bớt các hậu quả xã hội do cải cách mang lại, đồng thời cho rằng sự chuyển đổi nền kinh tế là một quá trình lâu dài. Phương thức cấp tiến là áp dụng “liệu pháp sốc” trong chuyển đổi nền kinh tế, phương thức này coi trọng mục tiêu cuối cùng của chuyển đổi kinh tế, chủ trương nhanh chóng, triệt để hủy bỏ các chế độ của thể chế kinh tế kế hoạch, xây dựng khung của chế độ kinh tế thị trường trong thời gian ngắn, từ đó thực hiện bước nhảy vọt từ kinh tế kế hoạch đến kinh tế thị trường. Hai phương thức chuyển dịch này khác nhau chủ yếu ở mức độ ổn định, tự do hóa và tư hữu hóa.
Lý luận Đặng Tiểu Bình là tư tưởng chỉ đạo cải cách tiền tệ của Trung Quốc. Tư tưởng cải cách kinh tế, tư tưởng thị trường xã hội chủ nghĩa, luận điểm về quan hệ của kinh tế thị trường và tiền tệ, tư tưởng “phải xây dựng ngân hàng thành ngân hàng thật sự” của Đặng Tiểu Bình cung cấp cơ sở lý luận, chỉ rõ phương hướng và chỉ đạo quá trình cải cách tiền tệ của Trung Quốc. Năm 1992, trong chuyến đi thị sát miền Nam, Đặng Tiểu Bình chỉ ra: chứng khoán, cổ phiếu tốt hay xấu, có rủi ro hay không, có phải là những thứ chỉ của xã hội tư bản chủ nghĩa mà xã hội xã hội chủ nghĩa không dùng được? cho phép tiến hành thử, nếu làm một hai năm thấy đúng thì phát triển mở rộng, nếu sai thì sửa chữa hoặc đóng lại là xong. Khi đóng lại có thể nhanh hoặc chậm, hoặc cũng có thể giữ lại một chút.[①] Căn cứ vào trình độ phát triển của nền kinh tế quốc gia và những điều kiện đầu của cải cách, Trung Quốc tiến dần mở cửa thị trường tiền tệ trong nước, chuyển đổi thể chế tiền tệ kế hoạch sang thể chế tiền tệ thị trường, từ đó thúc đẩy cải cách thể chế kinh tế một cách cẩn trọng và chắc chắn. Kết quả là sau quá trình cải cách, nền kinh tế Trung Quốc phát triển với tốc độ nhanh chóng, thực lực kinh tế và sức mạnh quốc gia của Trung Quốc ngày càng hùng mạnh.
Lý luận tự do hóa là tư tưởng chỉ đạo công cuộc cải cách kinh tế tiền tệ của Nga. Chính quyền Nga xây dựng kế hoạch chuyển đổi nền kinh tế với tư tưởng của học thuyết trọng tiền – học thuyết đại diện điển hình cho kinh tế học chủ nghĩa kinh tế mới, tư tưởng này xuyên suốt quá trình chuyển đổi nền kinh tế của Nga và không ngừng được cụ thể hóa. Trong lĩnh vực cải cách tiền tệ, tự do hóa tiền tệ trở thành tư tưởng chỉ đạo quan trọng. Trong giai đoạn đầu của cải cách, Nga đã thực hiện việc tự do hóa hối suất, lãi suất và cho phép ngân hàng nước ngoài vào hoạt động, tiến hành kinh doanh hỗn hợp theo mô hình của nước Đức, tự do hóa nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ, mở cửa thị trường tiền tệ với nguồn vốn nước ngoài, đặc biệt là thị trường nợ công, thực hiện tự do hóa tài khoản thông thường, đồng thời mức độ tự do hóa của tài khoản vốn cũng tương đối cao. Có thể thấy Nga áp dụng phương pháp cấp tiến, còn gọi là liệu pháp “sốc” trong cải cách tiền tệ, kết quả là sau khi tiến hành cải cách, nền kinh tế bị suy thoái, tổng sản phẩm quốc dân giảm mạnh, nạn thất nghiệp và lạm phát tăng cao. Vì thế, khi Putin lên nắm quyền, dù vẫn chủ trương tiến hành cải cách kinh tế tiền tệ theo hướng tự do hóa, nhưng Putin cho rằng phương thức chuyển đổi phải tiến dần từng bước một, tránh tiếp tục sai lầm do dập khuôn kinh nghiệm của phương Tây trong những năm 90 thế kỷ 20, Putin nhấn mạnh Nga phải tìm ra con đường cải cách phù hợp với thực tiễn đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Putin, cải cách tiền tệ Nga cũng giành được nhiều thành tựu quan trọng, điều đó khẳng định tư tưởng chỉ đạo của Putin là chính xác. Có thể thấy rằng sự chuyển đổi nền kinh tế tiền tệ của Nga trải qua một quá trình từ phương thức cấp tiến sang phương thức tiến dần.
II. So sánh cải cách thể chế ngân hàng Trung-Nga
Trung Quốc bắt đầu cải cách thể chế ngân hàng bằng việc cải cách vị trí độc tôn và thể chế ngân hàng đơn nhất của ngân hàng nhân dân Trung Quốc, năm 1978, bốn ngân hàng chuyên ngành: ngân hàng nông nghiệp Trung Quốc, ngân hàng Trung Quốc, ngân hàng xây dựng nhân dân Trung Quốc, ngân hàng công thương Trung Quốc lần lượt tách ra khỏi ngân hàng nhân dân Trung Quốc. Tháng 9 năm 1983, chính phủ Trung Quốc quyết định ngân hàng nhân dân Trung Quốc sẽ chuyên thực hiện chức năng của ngân hàng trung ương từ ngày 1 tháng 1 năm 1984, bước cải cách này chứng tỏ thể chế ngân hàng của Trung Quốc đã chính thức chuyển từ thể chế đơn nhất sang thể chế ngân hàng hai cấp hiện đại. Trong các nước xã hội chủ nghĩa, Trung Quốc là nước sớm nhất thực hiện thể chế này. Năm 1985, căn cứ vào yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân và nguyên tắc vận hành theo cơ chế thị trường, chính phủ Trung Quốc cho xây dựng một loạt các ngân hàng thương mại, như ngân hàng giao thông, ngân hàng công nghiệp Trung Tín, ngân hàng Quang Đại, ngân hàng Hoa Hạ…Năm 1994, Trung Quốc thực hiện tách rời tiền tệ mang tính thương mại và tiền tệ mang tính chính sách, việc thương mại hóa ngân hàng chuyên ngành có bước nhảy vọt, Trung Quốc thành lập ba ngân hàng chính sách: ngân hàng phát triển quốc gia, ngân hàng xuất nhập khẩu Trung Quốc và ngân hàng phát triển nông nghiệp Trung Quốc, các ngân hàng này đảm nhiệm các nghiệp vụ tín dụng mang tính chính sách vốn do các ngân hàng chuyên ngành quốc gia đảm trách trước đó.
Năm 1995, bốn ngân hàng chuyên ngành quốc doanh được cải tổ thành ngân hàng thương mại 100% vốn nhà nước, cùng năm đó,《Luật ngân hàng nhân dân Trung Quốc》chính thức được thực thi, chức năng của ngân hàng có bước chuyển biến rõ rệt. Năm 1996, ngân hàng nhân dân Trung Quốc chính thức mở nghiệp vụ thị trường công khai. Về mở cửa đối ngoại, ngành ngân hàng Trung Quốc bắt đầu mở cửa với nước ngoài từ thập niên 80 của thế kỷ 20, năm 1985, Trung Quốc chính thức cho phép ngân hàng nước ngoài thành lập chi nhánh kinh doanh tại bốn đặc khu kinh tế, từ năm 1990 đến năm 1992, cho phép ngân hàng nước ngoài thành lập chi nhánh kinh doanh tại tám thành phố lớn là Thượng Hải, Đại Liên, Thiên Tân, Thanh Đảo, Nam Kinh, Ninh Ba, Phúc Châu, Quảng Châu. Năm 2001, Trung Quốc gia nhập tổ chức thương mại thế giới, ngành ngân hàng Trung Quốc bước vào thời kỳ mở cửa toàn diện. Năm 2003, bốn ngân hàng thương mại quốc doanh lớn (ngân hàng công thương, ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng Trung Quốc, ngân hàng xây dựng) tiến hành cổ phần hóa, chuyển thành ngân hàng thương mại nhà nước nắm cổ phần chi phối. Năm 2005, ngân hàng xây dựng Trung Quốc lên sàn chứng khoán, tiếp đó là ngân hàng Trung Quốc và ngân hàng công thương Trung Quốc vào năm 2006, ngân hàng nông nghiệp Trung Quốc vào năm 2010. Từ đó, Trung Quốc đã xây dựng được một thể chế tiền tệ hoàn chỉnh mà ngân hàng trung ương là hạt nhân, ngân hàng thương mại là chủ thể, nhiều cơ cấu tiền tệ cùng tồn tại và phân công hợp tác.
Khi tiến hành cải cách thể chế ngân hàng, Nga phá vỡ thể chế ngân hàng đơn nhất lũng đoạn nhà nước, thực hiện thể chế ngân hàng hai cấp gồm ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại, trong khuôn khổ thế chế mới này, chức năng của các loại ngân hàng được xác định và phân chia lại rõ ràng, từ đó hình thành một thể chế ngân hàng đa nguyên hóa gồm ngân hàng nhà nước, ngân hàng tư nhân, ngân hàng cổ phần và ngân hàng có vốn nước ngoài. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và cải cách cơ chế vận hành của ngân hàng, giữa các loại ngân hàng hình thành một xu thế cạnh tranh lẫn nhau. Trong cải cách thể chế ngân hàng, xu thế kinh doanh tổng hợp hóa của các ngân hàng thương mại ngày càng rõ rệt, xuất hiện các tập đoàn công nghiệp tiền tệ gồm kinh doanh ngân hàng kết hợp với các ngành kinh tế khác. Đồng thời, để giải quyết những di chứng của phương thức cải cách cấp tiến trước đó, chính phủ Nga và ngân hàng trung ương tiến hành cải tổ lại đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng. Thông qua cải tổ, số lượng ngân hàng của Nga giảm mạnh, năm 2001, hai năm sau khi thực thi cải tổ, số lượng ngân hàng thương mại đã giảm từ hơn 2500 xuống còn hơn 1300, trong đó đại đa số là ngân hàng vừa và nhỏ, đến năm 2011, Nga còn tổng cộng 1129 ngân hàng.[②] Trong quá trình cải cách thể chế ngân hàng, về cơ bản Nga đã mở cửa ngành ngân hàng một cách toàn diện, việc kiểm soát đối với các ngân hàng nước ngoài hoạt động trên đất Nga tương đối lỏng lẻo, điều này làm cho số lượng ngân hàng nước ngoài tại Nga tăng nhanh, các ngân hàng này cũng được phép tiến hành các nghiệp vụ ngân hàng giống như các ngân hàng Nga. Những điều trên chứng tỏ từ khi bắt đầu cải cách, Nga đã đưa ngành ngân hàng vào con đường kinh doanh thị trường hóa và doanh nghiệp hóa.
III. So sánh cải cách thị trường chứng khoán Trung – Nga
Thị trường chứng khoán Trung Quốc trải qua một quá trình phát triển đi lên từ con số không, nhưng được phát triển nhanh chóng, không ngừng hoàn thiện và mở cửa. Năm 1990 và năm 1991, sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải và Thâm Quyến lần lượt ra đời. Sự thành lập hai sở chứng khoán này đánh dấu sự phát triển hoàn thiện của giao dịch chứng khoán Trung Quốc từ giao dịch phân tán sang giao dịch tập trung. Cũng trong năm 1990, Trung Quốc thành lập hệ thống giao dịch báo giá chứng khoán (STAQ). Năm 1992, Trung Quốc thành lập ủy ban chứng khoán Quốc vụ viện và Ủy ban quản lý giám sát chứng khoán Trung Quốc, thực hiện chức năng quản lý giám sát thị trường chứng khoán. Năm 1999, Trung Quốc ban hành bộ luật đầu tiên quy phạm về ngành chứng khoán và thị trường chứng khoán-Luật chứng khoán. Năm 2002, Trung Quốc ban hành《Biện pháp tạm thời quản lý đầu tư chứng khoán trong nước đối với người đầu tư nước ngoài hợp lệ》,《Hướng dẫn chi tiết thực hiện nghiệp vụ đăng ký kết toán đầu tư chứng khoán trong nước đối với người đầu tư nước ngoài hợp lệ》,《Hướng dẫn chi tiết thực hiện giao dịch chứng khoán đối với người đầu tư nước ngoài hợp lệ》, năm 2004 ban hành《Luật quỹ đầu tư chứng khoán》. Các văn bản này đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của tiến trình mở cửa thị trường chứng khoán Trung Quốc, hoàn thiện về cơ chế chính sách để ngành chứng khoán phát triển, các chủng loại giao dịch chứng khoán cũng hết sức phong phú và đa dạng như cổ phiếu A, B, trái phiếu chính phủ… Có thể nói, qua hơn 20 năm phát triển, thị trường chứng khoán Trung Quốc đã nhanh chóng trở thành thị trường sôi động nhất của châu Á, đến tháng 7 năm 2012, Trung Quốc có 2462 doanh nghiệp lên sàn chứng khoán với tổng giá trị lên tới 21.32 nghìn tỉ nhân dân tệ.[③] Hiện nay, các phương diện của thị trường chứng khoán như cơ sở vật chất, chế độ pháp quy, cơ chế giám sát, quy mô thị trường và cơ cấu đầu tư đều đạt được những thành tựu rõ rệt, tốc độ phát triển nhanh, góp phần to lớn vào việc thỏa mãn nhu cầu tập trung vốn trực tiếp cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Thị trường chứng khoán Nga được phát triển gần như cùng với thời gian của thị trường chứng khoán Trung Quốc. Năm 1991, Nga ban hành các quy định về phát hành và lưu thông chứng khoán có giá, năm 1992 ban bố các quy định về sở giao dịch cổ phiếu, những văn bản pháp quy này đặt cơ sở pháp luật cho việc thành lập và phát triển thị trường chứng khoán. Cũng trong năm đó Nga thành lập các sở giao dịch chứng khoán chuyên nghiệp như sở giao dịch chứng khoán trung ương Matxcơva, sở giao dịch ngoại hối…từ năm 1993 đến năm 1994, Nga xây dựng thị trường chứng khoán có giá quốc gia. Tháng 5 năm 1993, sở giao dịch ngoại hối Matxcơva phát hành trái phiếu ngắn hạn lần đầu tiên, trong năm đó tổng cộng phát hành 650 tỉ rúp, năm 1994 tổng lượng trái phiếu ngắn hạn đạt đến 20.5 nghìn tỉ rúp. Tháng 4 năm 1996, Nga thông qua《Luật thị trường chứng khoán có giá liên bang Nga》, góp phần tăng cường quy phạm sự phát triển và cơ chế vận hành thị trường chứng khoán có giá. Từ 2001 đến 2003, Nga lần lượt sửa đổi bổ sung công bố các luật như《Luật công ti cổ phần》,《Luật quỹ đầu tư》,《Luật thị trường chứng khoán có giá liên bang》. Việt thực thi các bộ luật mới đã tăng cường tính minh bạch của thị trường chứng khoán, có lợi đối với việc bảo vệ lợi ích nhà đầu tư. Có thể nói, Nga đã xây dựng được một hệ thống khung pháp luật tương đối hoàn chỉnh đảm bảo cho sự thành lập và phát triển của thị trường chứng khoán. Qua hơn 20 năm xây dựng và trưởng thành, thị trường chứng khoán Nga đã giành được nhiều thành tựu đáng kể. Các chủ thể phát hành trên thị trường chứng khoán là các thực thể kinh tế như chính phủ trung ương, chính quyền địa phương, ngân hàng và công ti, chủng loại chứng khoán cũng rất đa dạng, bao gồm chứng khoán có giá chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, cổ phiếu, trái phiếu công ti và ngân hàng…. Lấy năm 2005 làm ví dụ, cuối năm chỉ số sở giao dịch ngoại hối liên ngân hàng Matxcơva tăng lên 83%, giao dịch tổng hợp đạt mức kỷ lục 925 tỉ usd, tăng 69% so với mức 548 tỉ usd năm trước, trong đó mức giao dịch cổ phiếu đạt 226 tỉ usd, tăng 126% so với cùng kỳ năm trước. Cũng trong năm đó có 126 doanh nghiệp phát hành thành công trái phiếu thu về 9 tỉ usd, mức giao dịch thị trường cấp hai đạt 53 tỉ usd, mức giao dịch thị trường trái phiếu chính phủ đạt 101 tỉ usd, tăng gấp đôi so với năm 2004.
IV. So sánh tính độc lập của ngân hàng trung ương Trung – Nga
Sau khi chuyển đổi nền kinh tế, hai nước Trung - Nga đều xây dựng thể chế ngân hàng hai cấp do ngân hàng trung ương chủ đạo, tính độc lập của ngân hàng trung ương được nâng cao rõ rệt. Thế nhưng, khi so sánh với Trung Quốc, tính độc lập của ngân hàng trung ương Nga lại có sự khác biệt về bản chất.
Tính độc lập thực tế cao hơn tính độc lập pháp lý là đặc trưng của ngân hàng trung ương Trung Quốc. Năm 1995, Trung Quốc thông qua 《Luật ngân hàng nhân dân Trung Quốc》, lần đầu xác định rõ địa vị độc lập của ngân hàng nhân dân Trung Quốc. Điều 7 Luật này quy định: dưới sự lãnh đạo của Quốc vụ viện, ngân hàng nhân dân Trung Quốc độc lập tiến hành chính sách tiền tệ theo pháp luật, không bị can thiệp bởi các cấp chính quyền địa phương và các ban ngành đoàn thể xã hội khác. Năm 1997, Trung Quốc quyết định căn cứ vào khu vực kinh tế để thiết lập các cơ quan chi nhánh ngân hàng nhân dân Trung Quốc, điều này làm cho các chi nhánh không bị chi phối bởi chính quyền và ban ngành các cấp địa phương ở một chừng mực nhất định, đảm bảo tính độc lập của các chi nhánh khi thực hiện chính sách tiền tệ. Trong thực tiễn, tính độc lập của ngân hàng nhân dân Trung Quốc cao hơn tính độc lập pháp lý, điều này thể hiện trên các mặt sau: trước hết là độc lập về nhân sự,《Luật ngân hàng nhân dân Trung Quốc》quy định, thống đốc ngân hàng nhân dân Trung Quốc do thủ tướng đề cử, đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc quyết định, phó thống đốc ngân hàng do thủ tướng bổ nhiệm và bãi nhiệm, luật pháp Trung Quốc cũng không quy định rõ nhiệm kỳ của thống đốc ngân hàng nhân dân Trung Quốc. Thứ hai là tính độc lập về tài vụ và kinh tế,《Luật ngân hàng nhân dân Trung Quốc》quy định, ngân hàng nhân dân Trung Quốc không được thấu chi cho tài chính của chính phủ, không được trực tiếp thu mua, tiêu thụ nợ công của chính phủ và các trái phiếu chính phủ khác, không được cho các cấp chính quyền ban ngành địa phương vay, không được cho các cơ quan tổ chức phi tiền tệ và cá nhân vay, thực hiện chế độ quản lý dự toán tài vụ độc lập. Những quy định này chặt chẽ hơn rất nhiều các quốc gia khác, đảm bảo tính độc lập cho ngân hàng nhân dân Trung Quốc trong thực hiện chức trách. Cuối cùng là tính độc lập về mặt chính sách, ngân hàng nhân dân Trung Quốc có quyền quyết sách đối với các chính sách tiền tệ thông thường, còn đối với các chính sách tiền tệ quan trọng, ngân hàng nhân dân Trung Quốc có quyền xây dựng và chấp hành, còn quyền quyết sách cuối cùng thuộc về Quốc vụ viện.《Luật ngân hàng nhân dân Trung Quốc》quy định, ngân hàng nhân dân Trung Quốc ra quyết định về lượng cung ứng tiền tệ, lãi suất, hối suất và các công việc quan trọng khác căn cứ theo quy định của Quốc vụ viện, và thực hiện những quyết định đó sau khi được Quốc vụ viện phê chuẩn. Quy định này thông thường bị cho là hạn chế tính độc lập của ngân hàng nhân dân Trung Quốc, nhưng trên thực tế, ngân hàng nhân dân Trung Quốc luôn đảm bảo được tính độc lập tương đối của mình, ví dụ như trong việc áp dụng các chính sách cải cách thị trường lãi suất và hối suất, năm 2005, ngân hàng nhân dân Trung Quốc chủ động đưa ra các chính sách mới điều chỉnh chế độ hối suất cố định với đồng đô la Mỹ sang chế độ hối suất linh hoạt, chế độ hối suất mới phản ánh đúng đắn hơn sự thay đổi của cung cầu thị trường, và hối suất hình thành chủ yếu do cơ thế thị trường. Ví dụ này cho thấy ngân hàng nhân dân Trung Quốc có quyền chủ động trong điều chỉnh dao dộng hối suất căn cứ vào thị trường và tình hình kinh tế tiền tệ, vì thế có thể nói rằng, tính độc lập trong thực tế của ngân hàng nhân dân Trung Quốc cao hơn tính độc lập pháp lý.
Năm 1995, Nga thông qua《Luật ngân hàng trung ương Nga》mới, xác định lại địa vị pháp lý của ngân hàng trung ương. Bộ luật mới làm rõ chức trách và tính độc lập của ngân hàng trung ương, quy định bất cứ cơ quan nào của quốc gia cũng không có quyền can dự khi ngân hàng trung ương thực thi chức trách của mình. Ngân hàng trung ương Nga là pháp nhân độc lập, trừ phi có các quy định đặc biệt khác, không chịu nợ cho chính phủ, chính phủ cũng không gánh chịu nợ cho ngân hàng trung ương.《Luật ngân hàng trung ương Nga》mới thể hiện ba nguyên tắc cơ bản: tự do hóa hoạt động ngân hàng, tăng cường tính ổn định của hệ thống ngân hàng, làm cho quy định pháp luật phù hợp với quy phạm hoạt động ngân hàng. Tự do hóa tiền tệ là nội dung chính của bộ luật này, năm 1997, ngân hàng trung ương Nga độc lập xây dựng và ban bố《phương châm cơ bản cho chính sách tín dụng tiền tệ quốc gia》, văn bản này đánh dấu địa vị độc lập thật sự của ngân hàng trung ương Nga. Ngân hàng trung ương Nga thực hiện chế độ lãnh đạo theo Hội đồng Quản trị, nhiệm kỳ 4 năm. Hội đồng Quản trị gồm 13 thành viên, gồm thống đốc giữ chức chủ tịch và 12 thành viên Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị thực hiện chức năng quản lý chiến lược, thống đốc ngân hàng trung ương phụ trách quản lý chung, tất cả các thành viên hội đồng quản trị đều có công việc cố định tại ngân hàng, việc bổ nhiệm và bãi miễn Hội đồng quản trị do Duma quốc gia đảm trách. Dưới sự lãnh đạo của thống đốc, hội đồng quản trị đưa ra các quyết sách quan trọng có ý nghĩa chiến lược, như xác định lượng tiền dự trữ của ngân hàng thương mại, thay đổi lãi suất ngân hàng, hạn chế số lượng ngân hàng thương mại, quy định phạm vi nghiệp vụ của ngân hàng thương mại…để hoàn thiện chế độ cho vay tiền tệ, Nga còn thiết lập ủy ban ngân hàng quốc gia thuộc ngân hàng trung ương, ủy ban này có 15 thành viên, gồm đại diện cho tổng thống, chủ tịch lưỡng viện, ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Điều 48《Luật ngân hàng trung ương Nga》quy định rõ các quyền mà ngân hàng trung ương không có, đó là: ngân hàng trung ương không có quyền triển khai nghiệp vụ với pháp nhân không có giấy phép tiến hành các nghiệp vụ ngân hàng; không có quyền giữ cổ phiếu của các cơ cấu tiền tệ; không có quyền tiến hành các hoạt động bất động sản, trừ các hoạt động bất động sản đảm bảo cho trụ sở làm việc cần thiết; không được tiến hành các hoạt động thương mại và sản xuất; không được gia hạn khoản vay nếu không được hội đồng quản trị đồng ý. Dù《Luật ngân hàng trung ương Nga》xác định địa vị của ngân hàng trung ương về mặt pháp lý, nhưng bộ luật này chưa phân biệt rõ giới hạn của ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại trên rất nhiều phương diện, mà ngược lại, để cạnh tranh phạm vi nghiệp vụ, ngân hàng trung ương còn giữ các nghiệp vụ như kết toán, dự trữ, tín dụng và các nghiệp vụ đối với quân đội một cách có điều kiện, đồng thời đưa ra hàng loạt các điều khoản ngoại lệ khi áp dụng các hạn chế với ngân hàng trung ương, ví dụ khoản 7 điều 45 luật này quy định: ngân hàng trung ương vẫn có quyền triển khai các hoạt động kết toán và nhận tiền gửi (dù trong thực tế ngân hàng trung ương Nga không thực hiện các nghiệp vụ này); ngân hàng trung ương có quyền nắm giữ, mua bán chứng khoán có giá và các tài sản khác. Ngoài ra, ngân hàng trung ương trong thực tế cũng triển khai rất nhiều nghiệp vụ của ngân hàng thương mại, như đầu tư các công ti con và mua các tài sản tại nước ngoài, dù trong thực tế điều này vi phạm quy định của《Luật ngân hàng trung ương Nga》. Bộ luật này cũng quy định rõ, ngân hàng trung ương không được giữ cổ phẩn trong các ngân hàng thương mại, nhưng sau đó lại quy định ngân hàng trung ương có thể giữ đa số cổ phiếu trong các ngân hàng thương mại như ngân hàng ngoại thương. Mối quan hệ chồng chéo như thế giữa ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại làm cho ngân hàng trung ương Nga rất khó đảm bảo tính khách quan, tính công bằng và tính trung lập khi xây dựng và thực hiện các chính sách, từ đó giảm mạnh tính độc lập của ngân hàng khi thực hiện các chính sách tiền tệ.
V. Kết luận
Qua phân tích so sánh cải cách tiền tệ Trung – Nga chúng ta có thể thấy rằng, dù tư tưởng chỉ đạo cải cách tiền tệ của hai nước khác nhau, nhưng mục tiêu cuối cùng của cải cách đều là xây dựng thể chế tiền tệ thị trường hóa và thể chế kinh tế thị trường. Về lựa chọn phương thức cải cách, dù bắt đầu với phương thức khác nhau, nhưng hiện nay hai nước đều lựa chọn phương thức tiến dần phù hợp với tình hình mỗi nước.
Thông qua cải cách tiền tệ, hai nước Trung - Nga đã xây dựng được một thể chế tiền tệ hoàn chỉnh mà ngân hàng trung ương là hạt nhân, ngân hàng thương mại là chủ thể, nhiều cơ cấu tiền tệ cùng tồn tại và phân công hợp tác. Việc thành lập thể chế ngân hàng hai cấp ở hai nước là tiêu chí cơ bản đánh dấu thể chế tiền tệ đã chuyển dần sang thể chế kinh tế thị trường. Hai nước đều cho rằng chỉ có xây dựng thể chế ngân hàng hai cấp mới có thể thỏa mãn nhu cầu của nền kinh tế thị trường, mới có thể không ngừng hoàn thiện thể chế ngân hàng trong tiến trình tự do hóa tiền tệ. đồng thời, tính độc lập của ngân hàng trung ương cũng có nhiều điểm khác biệt theo tình hình kinh tế mỗi nước.
Cùng với sự phát triển của cải cách tiền tệ, địa vị và tác dụng của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế quốc dân của hai nước cũng ngày càng quan trọng, hai nước đã tiến hành nhiều bước cải cách quan trọng cho thị trường chứng khoán, tạo động lực to lớn cho phát triển nền kinh tế quốc dân.
Chú thích:
[①] (Trung Quốc) Mã Khánh Tuyền.Lịch sử chứng khoán Trung Quốc: 1978-1998[M]. Bắc Kinh: Nhà xuất bản Trung Tín, 2003, p298.
[②] (Trung Quốc) Phòng nghiệp vụ đầu tư.Giới thiệu môi trường đầu tư Nga[M].Đài Bắc: Nhà xuất bản kinh tế, 2012, p44.
[③] Công bố của Phó chủ tịch Ủy ban quản lý giám sát chứng khoán Trung Quốc Lưu Tân Hoa trong hội nghị chứng khoán toàn quốc, ngày 24 tháng 8 năm 2012.