Những góc nhìn Văn hoá

Tiểu thuyết mới và hiện thực

Sau hai bài trình bày của các nhà văn, bây giờ tôi muốn nói với các bạn về một lĩnh vực khác, đó là lĩnh vực của một nhà xã hội học. Trong thực tế, giữa quan điểm của nhà xã hội học và nhà văn có một sự khác biệt tương tự như sự khác biệt giữa người đua xe đạp và vận động viên điền kinh, giữa nhà tâm lý và nhà nghiên cứu sinh lý, người thì nghiên cứu cấu trúc tâm lý học, người kia nghiên cứu cấu trúc sinh lý học.

Sự thực là hai cách tiếp cận này có thể hoàn toàn là đối lập nhau cũng như có thể bổ sung cho nhau. Không nói về khả năng luôn có thể xảy ra là một nhà xã hội học hoặc một nhà phê bình, một nhà tâm lý học hoặc một nhà sinh lý học có thể nhầm lẫn, thực hành những lý thuyết sai lầm, trong thực tế, cũng có thể là vận động viên đua xe đạp hay vận động viên điền kinh không biết đến những cấu trúc thuộc tâm lý và sinh lý cho phép họ đạt được những thành công của họ hoặc nhà văn không hoàn toàn có ý thức về cơ cấu sáng tạo của anh ta, và điều này độc lập với chất lượng riêng của những thành công của anh ta hay của quá trình sáng tạo. Cũng may mắn là thường thì hai lĩnh vực này bổ sung và soi sáng lẫn nhau. Trong một chiều kích rộng lớn, đó sẽ là trường hợp của ngày hôm nay, bởi vì rằng, không phải nhà xã hội học, cũng không phải nhà phê bình, Nathalie Sarraute và Alain Robbe-Griellet lại nói với chúng ta như những nhà lý luận, điều có ý nghĩa là họ đã tạo ra tác phẩm phê bình văn học, một cách xuất sắc và vô cùng thông minh.

Đề cập đến vấn đề thứ ba và với tư cách nhà xã hội học, điều mà tôi sẽ đề cập tới, trong một chiều kích rất rộng, sẽ chỉ là một sự bổ sung vào hai bài trình bày mà các bạn vừa nghe. Từ đây, sẽ là thú vị bắt đầu bằng việc nhấn mạnh những gì trong những bài trình bày trước, tôi cảm thấy, không chỉ là có giá trị, mà đặc biệt quan trọng, và cũng là điều khiến tôi có sự bất đồng với phân tích của Nathalie Sarraute, mặc dù đó chỉ là những sự khác biệt không lớn.

Chúng ta hãy bắt đầu bằng một điểm chung của hai bài trình bày: sự bày tỏ lòng tin vào chủ nghĩa hiện thực của họ. Thực tế, trong khi nhiều nhà phê bình và phần lớn công chúng nhận thấy ở tiểu thuyết Mới một tổng thể những thực nghiệm thuần là hình thức, và trong trường hợp tốt nhất, là những toan tính giải phóng ra ngoài hiện thực xã hội, trái lại, hai đại diện tiêu biểu nhất của trường phái này vừa nói với chúng ta rằng tác phẩm của họ được nảy sinh từ những cố gắng nghiêm túc và triệt để nhất có thể để chiếm lấy hiện thực của thời đại chúng ta trong những gì thiết yếu nhất. Sự bình luận của tôi về những bài trình bày và về tác phẩm của hai nhà văn trước hết nhằm mục đích giải thích và cụ thể hóa những khẳng định mà tôi cảm thấy cần thiết và quan trọng.

Một điểm chung của hai bài trình bày mà tôi thấy cần thiết phải nhấn mạnh là sự khẳng định rằng, nếu hai nhà văn này đã áp dụng một hình thức khác với các nhà tiểu thuyết thế kỉ XIX, đó trước hết bởi vì họ đã mô tả và thể hiện thực tế thuộc về con người (nhà xã hội học sẽ nói là một hiện thực xã hội, đối với anh ta, bất kì thực tế nào thuộc về con người đều thuộc về xã hội) khác với cách mà các nhà văn thế kỉ trước đã miêu tả và thể hiện.

Rốt cuộc, bài trình bày của Nathalie Sarraute tôi cảm thấy đáng chú ý bởi sự thông tuệ và chân thực khi bà chỉ ra các thói quen tâm lý, các cấu trúc và các phạm trù tinh thần cũ tiếp tục tồn tại trong ý thức của đại bộ phận mọi người đã ngăn cản họ như thế nào đến việc hiểu biết hiện thực mới, hiện thực là chủ yếu trong chừng mực mà nó cấu tạo một cách có hiệu quả cuộc sống hàng ngày của mọi người, thậm chí cả khi nhiều người trong số họ không có ý thức về điều đó. Một điều duy nhất làm tôi lo ngại là nghề nhà văn của bà (?) ngăn cản bà nắm được tầm quan trọng của hiện thực xã hội và lịch sử là cách mà Nathalie Sarraute nhận thức quá trình thay đổi của hiện thực điều khiến việc chuyển tiểu thuyết cổ điển sang tiểu thuyết Mới là cần thiết, và những lực lượng đã góp phần thực hiện điều đó. Tôi sợ rằng, trong quá trình đó, Nathalie Sarraute đã đáng giá quá cao tầm quan trọng của các nhà văn và đánh giá thấp một cách ngầm ẩn tầm quan trọng của tất cả những người khác. Nathalie Sarraute đã tưởng tượng về sự tiến bộ của những nghiên cứu trong văn học như phương thức lịch sử các khoa học thuộc về lý và hóa học, theo tôi, là hơi quá. Tôi có cảm giác là đối với bà tồn tại một thực tế thuộc về con người được đem lại một lần cho tất cả (tương tự như hiện thực vũ trụ) cho các nhà văn cũng như cho những người làm khoa học, nghiên cứu những người này giống như những người kia, đồng thời cũng tạo ra một sự chuyển đổi đơn giản về mối quan tâm hướng về những địa hạt mới, thông qua các thế hệ, những vấn đề cũ khi đã được soi sáng, từ nay quan trọng là phải khảo sát nghiên cứu. Đó là bởi vì Balzac và Stendhal đã phân tích tâm lý nhân vật, và qua việc đó, đã khái quát hóa và khiến cho việc đã quen đó trở nên buồn tẻ, và theo Nathalie Sarraute việc nhận thức này không còn hấp dẫn và những nhà văn thế hệ sau như Joyce, Proust, Kafka đã hướng đến những hiện thực tinh tế hơn, tinh xảo hơn, như vậy sẽ mở ra một con đường mà các nhà văn hiện nay cần phải tiếp tục.

Trong thực tế, tôi cảm giác là về điểm này, Robbe-Grillet đã nhìn thấy rõ hơn. Trong lĩnh vực nhân văn, không có hiện thực bất di bất dịch, đưa lại một lần cho tất cả, vấn đề chỉ là quan sát nghiên cứu một cách ngày càng tinh tế hơn qua sự kế tục của các thế hệ nghệ sĩ và nhà văn. Điều cốt yếu của hiện thực nhân văn là chính bản thân nó năng động và thay đổi trong tiến trình phát triển của lịch sử; hơn thế, sự thay đổi này, ở một mức độ rõ ràng là không đồng nhất, là tác phẩm của tất cả mọi người và nếu các nhà văn có phần mình trong đó, thì nó không phải là độc quyền, thậm chí cũng không phải là trội nhất.

Nếu như câu chuyện và tâm lý nhân vật ngày càng trở nên khó khăn khi miêu tả mà chẳng rơi vào chuyện tiếu lâm hay chuyện linh tinh, đó không phải chỉ vì rằng Balzac, Stendhal hay Flaubert đã viết rồi, mà bởi vì chúng ta sống trong một xã hội khác với xã hội mà họ đã từng sống, một xã hội ở đó cá nhân là như thế, ngầm ẩn, tiểu sử và tâm lý của họ chẳng hề có gì quan trọng và chuyển thành các câu chuyện tiếu lâm hay chuyện linh tinh. Như Robbe-Grillet đã trình bày trong bài của ông, nếu như tiểu thuyết Mới miêu tả những mối quan hệ của một anh chàng ghen tuông với vợ của mình, người tình của người phụ nữ này và những đồ vật xung quanh họ theo cách khác, đó không phải là tác giả  bằng bất kì giá nào tìm kiếm một hình thức độc đáo, mà bởi vì chính cấu trúc mà tất cả các yếu tố tham gia vào đã thay đổi về bản chất. Trong thực tế, người phụ nữ và đáng lẽ cần phải thêm vào người tình, và bản thân anh chàng ghen tuông đều trở thành đồ vật, và trong tổng thể của cấu trúc này và của tất cả các cấu trúc cơ bản của xã hội đương thời, những tình cảm nhân văn (luôn luôn là và đã là sự thể hiện của những mối quan hệ giữa con người với nhau và những quan hệ giữa con người với thế giới vật chất, tự nhiên và sản xuất) thể hiện những mối quan hệ trong đó đồ vật mang tính thường trực và quyền tự trị, còn con người dần dần bị mất đi những thứ đó.

Sau một số nhận xét bước đầu về hai bản trình bày mà tôi có cảm giác là những tài liệu đặc biệt quan trọng để tìm hiểu văn học đương đại, cho phép tôi - bởi vì tôi sẽ nói với các bạn với tư cách nhà xã hội học -  nêu lên vấn đề thực chất của những biến đổi xã hội đã tạo ra nhu cầu đòi hỏi có một hình thức tiểu thuyết mới, và cũng giải thích dưới ánh sáng của vài ví dụ cung cách mà một số đặc điểm cơ bản của hiện thực nhân văn kiểu mới được thể hiện trong tác phẩm của Nathalie Sarraute và Robbe-Griellet.

Đương nhiên là trong khuôn khổ của một bài viết ngắn không thể đề cập đến lịch sử nói chung của xã hội phương Tây từ đầu thế kỉ XIX. Cho nên tôi đành tạm hài lòng với việc nêu lên một vài điểm đặc biệt quan trọng cho vấn đề tôi quan tâm tới hôm nay, đó là vấn đề về tiểu thuyết Mới.

Thoạt tiên, tôi sẽ nói về mối tương quan mà theo tôi hết sức có tính khơi gợi.

Về mặt văn học, sự thay đổi chủ yếu trước hết trên sự thống nhất về mặt cấu trúc nhân vật - đồ vật, điều mà cả Nathalie Sarraute và Robbe-Griellet vừa nói với chúng ta, cấu trúc này được thay đổi theo nghĩa của sự biến mất của nhân vật ít hay nhiều và sự tăng cường khá rõ của quyền tự trị của các đồ vật.

Vậy là những nghiên cứu của chúng tôi về hình thức tiểu thuyết trong nhóm xã hội học văn học của Viện thuộc Trường Đại học Tổng hợp Bruxelles đã đưa chúng tôi tới giả thiết rằng hình thức tiểu thuyết, trong số tất cả các hình thức thuộc về văn học, gắn bó đầu tiên và trực tiếp nhất với những cấu trúc kinh tế trong nghĩa hẹp của từ, với những cấu trúc trao đổi và sản xuất đối với thị trường. Trong lĩnh vực này, tôi cảm thấy có ý nghĩa việc nhận thấy rằng ngay vào năm 1867 và thậm chí ngay từ năm 1859, không ai nghĩ về những vấn đề văn học mà Nathalie Sarraute và Robbe-Griellet vừa nêu lên. Karl Marx, khi nghiên cứu những thay đổi cơ bản trong cấu trúc của cuộc sống xã hội bởi sự xuất hiện và phát triển của kinh tế, đã đặt chúng một cách chính xác trên phương diện cặp đôi cá nhân - sự vật có tính chất trơ ì và nhấn mạnh sự biến đổi dần dần của hệ số hiện thực, hệ số quyền tự trị và khả năng hoạt động của cá nhân đối với đồ vật. Đó là lý luận nổi tiếng của Marx về sự tôn sùng hàng hóa  hoặc, một thuật ngữ đã được áp dụng khá thống nhất trong văn học mác xít từ những tác phẩm của Lukacs, về đồ vật hóa.

Thế nhưng, theo giả thiết của chúng tôi, nếu như những sự tương hợp giữa những phân tích về mặt lý luận của Marx ở thế kỉ XIX và những khám phá của một số nhà văn đương đại là có tính khích lệ và có ý nghĩa, thì từ nay chúng khiến chúng ta có cảm giác là quá chung chung để có thể thỏa mãn đối với những nghiên cứu xã hội học. Trong thực tế, cần phải xem phải giải thích ra sao về độ chênh đến gần một thế kỉ đã phân cách việc làm rõ hiện tượng đồ vật hóa với sự xuất hiện loại tiểu thuyết không có nhân vật.

Thực chất, vấn đề được đặt ra như sau: phải chăng đã tồn tại, hoặc là mối liên quan có thể hiểu được, hoặc là sự đồng đẳng giữa lịch sử các cấu trúc của đồ vật hóa và cấu trúc của tiểu thuyết? Để trả lời vấn đề này, theo tôi, cần phải tính đến bốn yếu tố quyết định mà phải xác định bản chất của chúng:

a. Đồ vật hóa với tư cách là quá trình tâm lý thường xuyên phát huy tác dụng từ nhiều thế kỉ, liên tục, trong các xã hội sản xuất phương Tây cho thị trường và ba yếu tố đặc biệt xác định diện mạo cụ thể của các cấu trúc đồ vật hóa trong lịch sử của các xã hội này, qua đó xác định sự phân giai đoạn cho chúng:

b. Nền kinh tế tự do, cho đến đầu thế kỉ XX, vẫn còn giữ chức năng chính của cá nhân trong cuộc sống kinh tế và xuất phát từ đó, trong toàn thể cuộc sống xã hội.

c. Sự phát triển, ở cuối thế kỉ XIX và nhất là đầu thế kỉ XX, của các tập đoàn, của tư bản độc quyền và tư bản tài chính, đã kéo theo sự thay đổi về chất lượng trong bản chất của chủ nghĩa tư bản phương Tây, sự thay đổi mà các nhà lý luận mác xít đã coi như giai đoạn chuyển tiếp từ chủ nghĩa tư bản tự do sang đế quốc chủ nghĩa. Hậu quả của sự chuyển tiếp này - mà bước ngoặt quan trọng của nó vào khoảng thập niên đầu tiên của thế kỉ XX - trước hết, theo quan điểm của chúng tôi là sự xóa bỏ bất kì sự quan trọng thiết yếu nào của cá nhân và của cuộc sống cá nhân ở bên trong những cấu trúc kinh tế và, xuất phát từ đó, bên trong toàn bộ cuộc sống xã hội.

d. Trong những năm trước chiến tranh thế giới lần thứ hai và nhất là từ sau khi kết thúc cuộc chiến này, sự tăng cường can thiệp của Nhà nước trong kinh tế, và sự sáng tạo, nhờ vào sự can thiệp này, của những bộ máy tự điều chỉnh đã tạo nên từ xã hội đương đại một giai đoạn chất lượng thứ ba trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản phương Tây.

Giả thiết rằng những lý thuyết về kinh tế tự do, về tư bản độc quyền, các tập đoàn, tư bản tài chính và sự can thiệp của Nhà nước dù ít hay nhiều đã rõ ràng, chúng ta sẽ dừng ở đây về vấn đề đồ vật hóa.

Chúng ta hiểu thế nào về thuật ngữ này? Marx trong chương đầu tiên của bộ Tư bản đã nhắc đến dưới thuật ngữ sự tôn sùng hàng hóa, một hiện tượng vô cùng đơn giản và dễ hiểu.

Xã hội tư bản, trong đó tất cả đều sản xuất dùng cho thị trường, khác một cách cơ bản tất cả những hình thức trước đó (và có lẽ cả những hình thức sau đó) bởi sự tổ chức xã hội của sản xuất. Những sự khác biệt này có dáng dấp một cách tự nhiên của những sắc thái phong phú. Thế nhưng, những sắc thái này thường xuất phát từ sự khác biệt cơ bản đầu tiên: sự vắng mặt, trong xã hội tư bản tự do, của bất kì tổ chức nào có khả năng chi phối một cách có ý thức việc sản xuất đồng thời với việc phân phối ở bên trong lòng một đơn vị xã hội nào đấy.

Những tổ chức tồn tại trong tất cả các hình thức của xã hội tiền tư bản chủ nghĩa như xã hội nguyên thủy sống bằng săn bắt hay hái lượm, hoặc ở thời trung đại, gia đình nông dân hay một tổ chức được thiết lập bởi lâu đài của lãnh chúa và một số gia đình nông dân trong làng, bắt buộc phải cung cấp hoặc là công việc lao dịch, hoặc là thuế định kì; đó có thể là nền kinh tế hàng hóa của những thành phố châu Âu ở thời kì đầu của nó.

Việc điều chỉnh sản xuất này có thể trở thành truyền thống, tôn giáo, áp bức v.v…từ nay nó có đặc điểm có ý thức. Thậm chí nó có ý thức trong xã hội xã hội chủ nghĩa hoặc về đặc điểm chủ nghĩa xã hội trong đó sản xuất được tổ chức bởi sự kết hợp trung tâm của kế hoạch.

Vậy là, trong xã hội tự do thời cổ đại, hoàn toàn không có sự điều chỉnh có ý thức về sản xuất và tiêu thụ ở bất kì mức độ nào. Dĩ nhiên, sản xuất ở thời đó dù sao cũng được điều tiết, và người ta bao giờ cũng chỉ sản xuất lúa mạch, giầy, súng ống theo yêu cầu của người đã trả tiền, và kết quả là theo sức tiêu thụ thực tế của xã hội. Nhưng sự điều chỉnh này được thực hiện theo kiểu ẩn ngầm, xa lạ trong ý thức của các cá nhân, bắt buộc các cá nhân như một hành động cơ học của một sức mạnh từ bên ngoài. Nó được thực hiện thông qua thị trường, quy luật cung và cầu và nhất là thông qua các cuộc khủng hoảng sẽ điều chỉnh những sự mất cân bằng một cách thường kỳ.

Trên bình diện trực tiếp của những ý thức cá nhân, cuộc sống kinh tế mang diện mạo của lòng ích kỉ mang tính chất lí trí của homo economis, của sự kiếm tìm lợi nhuận tối đa không hề có mối quan tâm nào đến quan hệ con người với người khác và nhất là không hề quan tâm chút nào đến toàn thể. Trong lĩnh vực này, đối với người bán hoặc người mua đồ thì những người khác cũng chỉ như là những đồ vật, những phương tiện đơn giản giúp anh ta thực hiện được những mối quan tâm của mình mà chất lượng nhân văn quan trọng duy nhất sẽ là khả năng kí kết các hợp đồng và tạo nên những nghĩa vụ bắt buộc.

Tuy nhiên, như là sự điều chỉnh mà những đòi hỏi của toàn thể không mấy tác động, sự tồn tại của chúng cần thể hiện ra bằng cách này hay cách khác và hóa ra là, bị loại ra khỏi ý thức của mọi người, sự điều chỉnh này tái xuất hiện trong xã hội với tư cách là những quyền sở hữu mới của những đồ vật vô cảm, những vật đã bổ sung vào quyền sở hữu tự nhiên: giá trị trao đổi và giá cả.

Đương nhiên là những gốc cây luôn luôn và bao giờ cũng xanh tươi vào mùa hè và khô trụi vào mùa đông, lớn hay nhỏ, rắn chắc hay bị mọt ruỗng…Trong nền kinh tế thị trường, ngoài tất cả những điều đó, chúng còn có quyền sở hữu mà chúng không có trong bất kì cấu trúc tự nhiên nào: nền kinh tế giá trị bằng từng này hay bằng từng kia tiền, sẽ có một giá gắn liền với cung cầu và quyết định cuối cùng số lượng cây vào năm này năm nọ, sẽ bị chặt hay được dùng trong sản xuất - và điều đó, theo lẽ tự nhiên, có giá trị đối với mọi thứ hàng hóa khác.

Cũng như vậy, tất cả tổng thể những yếu tố cơ bản của cuộc sống tâm lí, tất cả những gì có trong những hình thức xã hội tiền tư bản được tạo nên bởi những tình cảm liên cá nhân, những quan hệ với các giá trị vượt qua cá nhân, - và điều đó được coi là đạo đức, mỹ học, lòng nhân từ và lòng tin - biến mất những ý thức cá nhân trong lĩnh vực kinh tế, mà sức nặng và tầm quan trọng tăng lên mỗi ngày trong cuộc sống xã hội, để điều chỉnh những chức năng của chúng theo một quyền sở hữu mới của những đồ vật vô cảm: theo giá của chúng.

Những hậu quả của sự thay đổi này là đáng kể và chúng ta không có khả năng phân tích chúng ở đây. Mặt khác chúng cũng có những sắc thái tích cực và cho phép phát triển một số tư tưởng cơ bản của văn hóa châu Âu phương Tây (những tư tưởng về bình đẳng, về lòng khoan dung và tự do cá nhân v.v…). Nhưng chúng cũng khiến ngày càng phát triển tính thụ động của những ý thức cá nhân và loại bỏ yếu tố chất lượng trong những quan hệ giữa người và người, mặt này, và giữa con người và tự nhiên, mặt khác.

Chính là hiện tượng bãi bỏ, hạn chế này ngầm ẩn một lĩnh vực vô cùng quan trọng của những ý thức cá nhân trong đó một quyền sở hữu mới đã thay thế, xuất xứ hoàn toàn từ xã hội, của những đồ vật vô cảm, trong mức độ mà chúng thâm nhập vào thị trường để biến đổi ở đó, và xuất phát từ đó, chuyển đổi những chức năng tích cực của con người sang đồ vật, chính ảo tưởng đó, mang tính chất huyễn hoặc (Marx đã đồng nhất với quan niệm về nhân vật của Shakespeare khi mà nhân vật biết đọc, biết viết là một phẩm chất tự nhiên và là cái đẹp, kết qủa của tài năng) mà người ta đã chỉ ra bằng một thuật ngữ hoàn toàn có tính khơi gợi, đó là sự tôn sùng hàng hóa, và sau đó là sự đồ vật hóa.

Trong cấu trúc xã hội tự do mà Marx đã từng phân tích, sự đồ vật hóa giới hạn ở sự ngầm ẩn tất cả những giá trị thay đổi thuộc về cá nhân, chuyển đổi chúng thành quyền sở hữu đồ vật, và không coi hiện thực nhân văn là chủ yếu và thể hiện rằng cá nhân bị tước đoạt bất kì mối quan hệ trực tiếp, cụ thể và có ý thức đối với toàn thể.

Một thế giới cân bằng phù hợp với cấu trúc mà ở giới hạn cuối cùng  là kiểu cấu trúc của Robinson, cá nhân sống cô lập đối mặt với một thế giới của đồ vật, cây cỏ và thú rừng (và trong đó những người khác tồn tại chỉ như những người được trả công, điều đó được thể hiện qua nhân vật Thứ Sáu). Thế nhưng, như người ta đã thấy trong một phân tích rất sâu sắc, con người không thể cùng lúc sống một cách nhân văn và chấp nhận sự vắng mặt của những quan hệ cụ thể một cách đúng nghĩa với những người khác, đến mức mà sự sáng tạo thuộc về con người thực sự phù hợp với cấu trúc đồ vật hóa của xã hội tự do sẽ là câu chuyện của cá nhân có tính vấn đề như nó đã được thể hiện trong văn học phương Tây từ don Quichotte đến Stendhal, Flaubert chuyển qua Goethes (và như Girard đã chỉ ra, với một số thay đổi cho đến Proust, và ở nước Nga, cho đến Dostoievsky).

Robbe-Grillet vừa nói: tiểu thuyết cổ điển là tiểu thuyết trong đó đồ vật có vai trò quan trọng trước hết nhưng ở đó chúng chỉ tồn tại qua mối quan hệ của chúng với các cá nhân. Hai giai đoạn sau của xã hội tư bản phương Tây, giai đoạn đế quốc chủ nghĩa - khoảng giữa 1912 và 1945 - và giai đoạn chủ nghĩa tư bản đương đại, được xác định trên phương diện cấu trúc, giai đoạn thứ nhất bởi sự biến mất dần dần của cá nhân với tư cách là hiện thực chủ yếu, và, một cách tương quan, bởi sự gia tăng độc lập của đồ vật, giai đoạn hai bởi sự hình thành thế giới đồ vật này - trong đó con người mất đi hoàn toàn với tư cách cá nhân cũng như với tư cách cộng đồng -, thành một vũ trụ tự trị có cấu trúc riêng của nó, chỉ có nó cho phép con người được tự thể hiện, một cách khó khăn và cũng chỉ là đôi khi mà thôi.

Cho phép tôi có một giả thiết, sẽ là cần thiết, đương nhiên rồi, kiểm tra qua một số những nghiên cứu về sau này. Tôi có cảm tưởng rằng hai giai đoạn cuối cùng của lịch sử kinh tế và đồ vật hóa trong các xã hội  phương Tây phù hợp thực sự với hai thời kì lớn trong lịch sử của các hình thức tiểu thuyết: thời kì mà tôi xác định bởi sự biến mất của nhân vật và trong đó tồn tại những tác phẩm quan trọng nhất như tác phẩm của Joyce, Kafka, Musil, Buồn nôn của Sartre, Người xa lạ của Camus, và rất có thể, như một trong những ý quan trọng nhất của tôi, tác phẩm của Nathalie Sarraute; thời kì thứ hai chỉ bắt đầu tìm thấy sự thể hiện văn học của nó mà Robbe-Grillet là một trong những đại diện đích thực và sáng giá nhất, chính xác đó là thời kì đánh dấu sự xuất hiện của một thế giới tự trị của các đồ vật, chúng có cấu trúc và những quy luật riêng, và qua thế giới ấy mà hiện thực nhân văn có thể còn được thể hiện trong chừng mực nào đấy.

Bây giờ, khi đề cập các tác phẩm cụ thể của hai nhà văn, mặc tất cả những gì đã khiến họ khác nhau, tôi muốn bắt đầu bằng việc nhận thấy rằng khi viết cho chính thời đại này, thời đại của chúng ta, những gì họ nói với chúng ta về hiện thực lại có thể không khác nhau đến thế.

Sự khác biệt giữa Nathalie Sarraute và Robbe-Grillet chính là nằm ở chỗ khiến họ quan tâm, trong những gì họ tìm kiếm, cũng như trong những gì họ nhận thấy. Nathalie Sarraute - trong hình thức cực đoan hơn, đẩy xa hơn – còn là một nữ nhà văn của thời kì mà chúng ta xác định như thời kì biến mất của nhân vật. Những cấu trúc toàn thể của thế giới xã hội không khiến bà quan tâm nhiều lắm, bà tìm kiếm khắp nơi một thế giới nhân văn đích thực, cái được trải nghiệm ngay lập tức, trong khi đó thì, Robbe-Grillet cũng kiếm tìm, một thế giới nhân văn, nhưng như nó được biểu lộ ra bên ngoài, với tư cách là hiện thực được gài lồng trong cấu trúc toàn thể.

Nhưng sự khác biệt này một khi đã được hình thành, những gì thể hiện ra của chúng lại có vẻ rất gần gũi với chúng ta. Trong khi tìm kiếm điều trải nghiệm trực tiếp, Nathalie Sarraute nhận thấy rằng cái được trải nghiệm này không tồn tại nữa trong những sự thể hiện ra ngoài mà chúng là tất cả, gần như không ngoại lệ, không xác thực, bị biến dạng và bị méo mó. Cũng như vậy, trước việc nhân vật bị biến mất một cách cực đoan, phải chăng bà đã giới hạn thế giới tác phẩm của mình ở một lĩnh vực duy nhất ở đó bà còn có thể tìm thấy hiện thực mà bà cảm thấy là chủ yếu (mặc dù, đương nhiên là bà tìm thấy ở đây tất cả cũng bị biến dạng và trầm trọng thêm bởi cái không thể của sự thể hiện ra ngoài), đối với tình cảm và cái trải nghiệm nhân văn có trước bất kì sự thể hiện nào, đối với cái mà bà gọi là những động hướng. Với nghĩa này, bà khiến tôi có cảm giác là một nhà văn thể hiện diện mạo chủ yếu của hiện thực đương đại trong một hình thức bà sáng tạo ra một phương thức mới, nhưng nó vẫn là phương thức của các nhà văn không có nhân vật, Kafka, Musil, Joyce mà thực ra bà vẫn thường xuyên dựa vào.

Quan tâm nhất là đối với tâm lý học và những quan hệ giữa người với người, Nathalie Sarraute không phải là nạn nhân của ảo tưởng đồ vật hóa và có ý thức về việc là tất cả các sắc thái, thậm chí giả nhất, không xác thực nhất của những quan hệ giữa người và người, những quan hệ ngăn cản tối đa sự giao tiếp, cuối cùng thì cũng là kết quả của sự xuống cấp về con người, về tâm lý. Chúng ta những muốn bổ sung rằng bà đã tính đến việc là quyền tự trị ngày càng tăng của đồ vật chỉ là sự thể hiện bên ngoài của sự xuống cấp này; nhưng điều đó không chính xác, vì trong khi chỉ thuận theo rất ít mối quan tâm đến những gì là ở bên ngoài, Nathalie Sarraute không nêu vị thế mới của đồ vật trong cuộc sống xã hội. Cũng đủ để nêu lên ở đây một trong số nhiều ví dụ: bốn mươi trang dành cho cái nắm đấm cửa ở phần đầu tác phẩm Planetarium; không có lúc nào, tác giả mang lại một chút quyền tự trị cho cái nắm đấm này; tất cả đều được thể hiện ngay tức khắc trong phản ứng tâm lý của bà già, của các công nhân, của đứa cháu, của người bố, người mẹ và bạn bè của họ. Cấu trúc chủ yếu  của quan hệ đồ vật-con người vẫn còn như của cấu trúc trong tiểu thuyết cổ điển. Nathalie Sarraute chỉ miêu tả những biến chuyển tâm lý tạo nên nội dung của mối quan hệ; trong phương diện này, không có sự khác nhau cơ bản giữa “chức năng bên trong tác phẩm” của cái nắm đấm cửa và chức năng của tất cả những sự thể hiện bên ngoài của con người, những chức năng, ví dụ của nhà văn nổi tiếng người đã viết “một khảo luận về Hussel” hay là chức năng của Germaine Lemaire trong đoạn  ở thư viện (hiệu sách).

Ngược lại, Robbe-Grillet, tập trung vào việc thể hiện từ bên ngoài cuộc sống xã hội, không miêu tả đặc điểm chủ yếu của con người và tâm lý của những mối quan hệ có xuất xứ từ đồ vật hóa và quyền tự trị ngày càng tăng của các đồ vật. Cũng có thể người ta đã có thể nêu đặc điểm các tác phẩm của hai nhà văn này, trong khi chuyển vào tiểu thuyết Mới sự khác biệt của Lukacs giữa tiểu thuyết của chủ nghĩa lý tưởng trừu tượng nhằm vào hoạt động bên ngoài của nhân vật và sự không thích hợp của nó với thế giới, và tiểu thuyết tâm lý của sự tỉnh ngộ nhằm vào sự không thể hành động, được nảy sinh bởi sự không thích hợp có tính chất bổ sung. Người ta cũng cần nhấn mạnh rằng trong trường hợp đầu cũng như trường hợp thứ hai, cả hai kiểu này của cùng một cấu trúc sẽ chịu một sự thay đổi do sự biến mất của nhân vật.

Robbe-Grillet thể hiện hiện thực này của xã hội đương đại trong một hình thức mới hoàn toàn.

Đối với ông, sự biến mất của nhân vật là một hiện tượng đã có, nhưng ông nhận thấy rằng nhân vật này đã được thay thế bởi một hiện thực tự trị khác (điều mà Nathalie Sarraute không quan tâm): thế giới đồ vật hóa của các đồ vật. Và bởi ông cũng vậy, ông kiếm tìm một hiện thực nhân văn - đó là một điểm chung giữa hai nhà văn -, ông nhận thấy rằng hiện thực này, không thể tồn tại nữa trong các cấu trúc có tính toàn thể với tư cách là hiện thực tự phát, trải nghiệm tức thì, cũng không chỉ có thể  tồn tại trong chừng mực mà nó còn thể hiện trong cấu trúc và những quyền sở hữu của các vật.

Các bạn sẽ hiểu tại sao, với tư cách là nhà xã hội học, tôi cho rằng ở thời đại chúng ta, với những giới hạn mà sự co hẹp lại của thế giới nhân văn áp đặt tất cả sự sáng tạo văn hóa, tác phẩm của Nathalie Sarraute và Robbe-Grillet là những hiện tượng đặc biệt quan trọng. Đôi khi tôi nghĩ rằng tác phẩm của Robbe-Grillet (tôi cũng hy vọng rằng ông không giận tôi) ít quan trọng hơn bởi cả vì điều mà ông đã muốn đặt ra cũng như bởi điều ông đã làm trên thực tế.

Bởi vì có thể trong khuôn khổ mà chúng ta vừa chỉ ra, khuôn khổ của thế giới tự trị về cơ bản là hiện thực và về mặt nhân văn xa lạ với đồ vật, Robbe-Grille vẫn còn kiếm tìm những hiện thực tâm lý: mặc cảm Oedipe trong Những chiếc tẩy, sự ám thị trong Kẻ nhìn trộm, tình cảm ghen tuông trong tiểu thuyết cùng tên, và có thể một đợt trị liệu tâm lý trong Năm ngoái ở Marienbad. Nhưng điều quan trọng  tôi cảm thấy là những ý định này - giả thiết rằng chúng sẽ được thực hiện - chỉ đưa được vào tác phẩm trong chừng mực mà chúng có thể được gắn với sự phân tích cơ bản một cách khác với những cấu trúc toàn thể của hiện thực xã hội.

Mặc cảm Oedipe chỉ là sự trang trí trong tác phẩm Những chiếc tẩy; sự ám thị của Mathias, lòng ghen tuông của người chồng chỉ là những điểm xuất phát, những vật liệu cho phép thể hiện những cấu trúc cơ bản một cách khác, mà có lẽ là có thể tất cả được thể hiện xuất phát từ những tình cảm khác; những mối quan hệ giữa người đàn ông và người vợ trong Năm ngoái ở Marienbad trở thành sự thể hiện những mối quan hệ nhân văn trong tổng thể. Hơn thế, trước nguy cơ làm thất vọng phần lớn các nhà phê bình những người quan tâm đến những vấn đề hình thức trong tác phẩm của Robbe-Grillet, tôi có cảm giác rằng những vấn đề hình thức, vô cùng quan trọng, nhưng chúng không bao giờ có đặc tính tự trị; Robbe-Grillet có cái gì đó để nói, như tất cả các nhà văn đích thực lẽ tự nhiên là ông kiếm tìm những hình thức thích hợp nhất để làm điều đó. Nội dung các tác phẩm của ông không thể tách rời sự sáng tạo văn học cũng như sự sáng tạo văn học khỏi tổng thể các tác phẩm. Người ta đã nói nhiều về  vấn đề hình thức trong các tiểu thuyết của Robbe-Grillet. Có thể đã đến lúc nói về nội dung của chúng.

Đương nhiên vấn đề không phải là tìm trong những tiểu thuyết này một nội dung khó hiểu. Cuộc kiếm tìm về hình thức của Robbe-Gillet là một toan tính đem lại cho nội dung sự thể hiện, sự có thể tiếp cận trong chừng mực có thể, và nếu các nhà phê bình và các độc giả đã gặp khó khăn khi tìm hiểu, đó không phải là lỗi của nhà văn, mà là lỗi của những thói quen tinh thần, những tình cảm đã quen từ trước và những phán xét đã có sẵn mà phần lớn trong số họ đã tiếp cận việc đọc sách với những thói quen đó.

Robbe-Grillet bắt đầu công bố tác phẩm từ năm 1953 với một tiểu thuyết mang tính chất hình sự với tên là Những chiếc tẩy. Trong cuốn sách này, trong mức độ khá rõ, ông vẫn giữ sơ đồ truyền thống của thể loại (một vụ giết người, nhưng bị hụt, cuộc điều tra của cảnh sát v.v…) thế nhưng ông sáp nhập từ bên trong một nội dung mới đương nhiên kéo theo một số thay đổi về hình thức khá là quan trọng. Từ đây tôi có cảm tưởng rằng sự khác nhau này giữa nội dung mới mẻ và hình thức đổi mới có tính chất bộ phận sẽ khiến Robbe-Grillet nhớ lại trong cả loạt chi tiết ngoại vi điều mà ông đã muốn nói đến. Đó là toàn bộ vấn đề của các ám chỉ trong huyền thoại Oedipe mà tác giả đã gia tăng ít hay nhiều từ bên ngoài của tác phẩm (các motif chiếc màn che cửa sổ, phần trang trí của lò sưởi, câu đố bí ẩn của nhân sư, việc di chuyển liên quan đến sự tồn tại tạm thời của người con trai nạn nhân v.v…), để thu hút sự chú ý của độc giả về việc ở đây vấn đề không phải là tiểu thuyết hình sự đơn giản theo kiểu đang thịnh hành, mà là một cuốn sách có nội dung chủ yếu giống như nội dung của bi kịch thời cổ đại. Đương nhiên là những ám chỉ này có lẽ là không có ích (và chúng ta đã không tìm thấy gì tương tự trong các tác phẩm về sau này của Robbe-Grillet) nếu như hình thức tác phẩm đã khá là thích hợp để làm rõ nội dung. Mặt khác, sự gần gụi mà Robbe-Grillet muốn thiết lập giữa Những chiếc tẩy và huyền thoại Oedipe có nghĩa thế nào? Cuối cùng thì sự gần gụi này khá là ít và thậm chí là gây tranh cãi; cuốn sách chắc chắn là không tiếp tục huyền thoại. Gần như là chắc chắn là Daniel Dupont đã không bị giết bởi con trai của ông ta; trong tất cả các trường hợp, chẳng có gì trong cuốn sách khiến giả thiết này có thể được chấp nhận. Sự gần gụi nằm ở chỗ, trong hai trường hợp, vấn đề là cả dãy sự kiện xảy ra theo sự cần thiết không tránh được và ở đó những ý định và các hành động của con người không thể thay đổi gì được. Thế nhưng về mặt cấu trúc, sự cần thiết của bi kịch cổ đại là kết quả của xung đột giữa ý chí của các thần và sự cố gắng của con người và sự chuyển cuộc sống con người thành định mệnh, có rất ít điểm chung (và Robbe-Grillet sau đó từ bỏ tất cả các ám thị từ bi kịch này có thể là chính ông cũng nhận ra điều đó) với quá trình máy móc và không tránh khỏi xảy ra bên trong một vũ trụ trong đó các cá nhân và cuộc kiếm tìm tự do của họ đã mất tất cả hiện thực và tất cả tầm quan trọng.

Nội dung của tác phẩm, một cách chính xác đó là sự cần thiết cơ học và không tránh khỏi, nó điều khiển những mối quan hệ giữa người và người cũng như những quan hệ giữa con người và đồ vật, trong một thế giới giống như một cỗ máy hiện đại được trang bị những cơ chế tự điều chỉnh. Một tổ chức phản quốc bí mật đã quyết định hàng ngày giết một người tự nhận tên là Daniel Dupont. Thật bất hạnh, và điều đó có thể xảy ra trong sự hoàn thiện nhất của các cơ chế, đã xảy ra sự không ăn khớp: Daniel Dupont thắp đèn quá sớm trong phòng mình; kẻ giết người sợ hãi đã nhằm không trúng và chỉ gây một vết thương nhẹ ở tay. Dupont, định thần lại, và là một nhân vật có những mối quan hệ quốc gia rộng rãi, để tự bảo vệ mình, ông sẽ làm cho người ta tin là kẻ giết người đã đạt mục đích, và sẽ giấu mình một thời gian, hy vọng như vậy sẽ tránh được sự cảnh giác của bọn sát nhân. Một thám tử được cử đến để điều tra một tội ác mà trên thực tế đã không xảy ra. Dường như là tính chất tiền định và máy móc của quá trình đã bị rối tung nên sự lạc hướng so với đường hướng chuẩn đã có thể xảy ra. Bởi vì qua trò chơi đơn giản của các sự kiện, không phải không ai có ý thức hay mong muốn điều đó, thám tử sẽ giết nạn nhân mạo xưng, người này trở thành nạn nhân thực sự, điều đó cho phép tiếp tục điều tra về kẻ giết người thực sự. Còn về nhóm sát nhân, nó sẽ tiếp tục công việc của mình thậm chí không biết tội lỗi đã phạm phải, và sẽ giết một người khác vào hôm sau, đó là Albert Dupont.

Một vấn đề cuối cùng có thể được đặt ra: tại sao nhan đề lại là Những chiếc tẩy, nhan đề này gắn với một việc là nhiều lần viên thám tử Wallace đi vào hiệu sách để tìm mua tẩy. Tôi có cảm giác: cũng như đối với những ám chỉ về huyền thoại Oedipe, vấn đề chính là việc nhắc lại nội dung của tiểu thuyết từ bên ngoài: ở mức độ trực tiếp, những sự tự điều chỉnh xóa đi việc trục trặc, ở mức độ khái quát hơn, cơ chế của một xã hội xóa đi tất cả những dấu vết của sự lộn xộn hiện hành và của hiện thực về cá nhân.

Đó chính là những chủ đề, ở cấp độ văn học, đã được nâng cao hơn rất nhiều, những chủ đề sẽ được tìm thấy trong tiểu thuyết thứ hai của tác giả, tiểu thuyết đã gây nên những cuộc tranh luận sôi nổi ở các nhà phê bình: Kẻ nhìn trộm. Một số người còn nhớ bài viết đầu tiên, nhiệt tình và xứng đáng của E. Henriot trên tờ Monde, và sự hăng hái sau đó của ông khi ông đề nghị xếp cuốn sách vào trong số 10 cuốn hay nhất nên mang theo trong kì nghỉ hè.

Kẻ nhìn trộmcũng đặt ra những vấn đề như của cuốn Những cục tẩy, nhưng ở cấp độ triệt để hơn và dẫn đến những thay đổi sâu sắc về mặt hình thức. Đương nhiên, đó là những vấn đề cuối cùng thu hút sự chú ý của các nhà phê bình, những người mà về mặt nội dung, chỉ nhìn thấy tính chất giai thoại, mối quan hệ của những việc linh tinh đơn giản khiến họ không quan tâm, hoặc đến mức làm cho họ phẫn nộ; và đương nhiên, nếu như người ta không xuất phát từ nội dung để xem xét các thay đổi “về mặt hình thức” và làm cho chúng trở nên cần thiết, thì các thay đổi này  có thể giống như là tùy tiện và giả tạo. Theo sự hiểu biết của chúng tôi, ít nhà phê bình đã nêu lên phải chăng vấn đề đơn giản chỉ là tên của tác phẩm Kẻ nhìn trộm, thế nhưng cái tên này đã chỉ ra khá rõ ràng nội dung của cuốn sách để xem xét vấn đề ở cấp độ mà nó đáng để suy xét. Bởi vì ai là kẻ nhìn trộm? Hiển nhiên là thuật ngữ chỉ đúng theo cách hoàn toàn một phần đối với người chào hàng Mathias, chính là kẻ đã phạm tội giết người mà cuốn sách đã đề cập đến. Một nhà phê bình đã nhận xét là thuật ngữ này được dành để chỉ chàng thanh niên Marek. Nhưng có một điều bác bỏ đầy sức nặng đối lập với cách giải thích này: trong thực tế khó có thể cho rằng anh chàng thanh niên này là nhân vật trung tâm của tác phẩm.

Thế nhưng chúng ta tự hỏi nội dung cuốn sách là gì và chúng ta tin tưởng rằng câu trả lời đã bị áp đặt bởi chính nó. Đương nhiên, đó không phải là quan hệ đơn giản của một sự việc linh tinh, khi nói đến kẻ giết một bé gái. Chẳng có gì mới ở đó so với tiểu thuyết truyền thống.

Ở cấp độ trực tiếp nhất, tác giả chuyển câu chuyện là người chào hàng Mathias có ý định tổ chức lại thời gian lưu lại 24 giờ  trên đảo nơi mà anh ta sẽ bán đồng hồ. Mathias, trong thời gian ấy, đã giết một bé gái, anh ta bị ám ảnh bởi vụ giết người này và lo lắng bị bắt giữ. Như vậy, câu chuyện của anh ta ngay lập tức được xác định bởi hai yếu tố: một mặt, mong muốn mang lại một cách giải thích có thể chấp nhận được và không có chỗ hở về thời gian lưu lại trên đảo, loại bỏ tất cả những ám ảnh về vụ giết người, và, mặt khác, nỗi sợ hãi bị phát hiện và bị bắt giữ, thể hiện qua những ám ảnh về khóa xích tay và tất cả những gì nhắc tới còng số 8 mà những cái đó, đối với anh ta, là hình thức.

Nỗi sợ hãi này đã làm biến đổi cấu trúc đã định hướng của câu chuyện, ngăn cản nó đi theo một hành trình hợp theo dự kiến ban đầu, và liên tục đưa nó đến, hoặc kẻ giết chính cô bé khiến thay hình đổi dạng, hoặc  một số sự kiện đã xảy ra trong thời thơ ấu của Mathias, trong trải nghiệm của bản thân của anh ta đã có liên quan đến việc giết người, (ở đây Robbe-Grillet ở chừng mực nào đấy đã dùng đến thuyết phân tâm học) đồng thời đem lại cho nó một ý nghĩa tâm lý.

Nội dung như vậy sẽ giải thích phong cách của tác phẩm và nhất là sự biến động thường xuyên ở bên trong của cùng một câu giữa những nhân vật khác nhau và của các sự kiện tạo nên những giai đoạn khác nhau.

Vậy là, ở cấp độ trực tiếp, kẻ nhìn trộm chính là Mathias, bởi vì câu chuyện không xảy ra ở thời điểm anh ta phạm tội ác, mà muộn hơn, vào lúc anh ta định tạo ra sự giải thích về thời gian lưu lại trên đảo loại bỏ tất cả bất kì sự nhắc nhở nào về anh ta, mặc dù ảo giác của anh ta thường xuyên lặp lại, hoặc liên quan đến bản thân tội ác, hoặc những sự kiện và những đồ vật khác nhau quan hệ  chặt chẽ với anh ta.

Thế nhưng, sự phát hiện lớn của Mathias, sự phát hiện sẽ được thực hiện dần dần trong quá trình của câu chuyện, đó là việc không chỉ anh ta không thể giấu kín vụ giết người đã khiến anh ta sợ hãi thường xuyên, mà đặc biệt là những cố gắng của anh ta quá mức cần thiết bởi anh ta đã dựa vào sự thể hiện hoàn toàn không thật của hiện thực xã hội. Trong thực tế, Mathias bắt đầu bằng việc khám phá ra rằng trên đảo có hai người đã chứng kiến vụ giết người (sự kiện ít nhất là không chắc chắn đối với một người và rất là có thể đối với người kia), và cả hai người đều liên tục chỉ ra sự không chính xác trong những lời khẳng định của mình mỗi khi những lời khẳng định này có xu hướng che dấu hành động của anh ta. Việc nhận ra này làm nảy sinh trong anh ta nỗi lo sợ có tính chất chuyển đổi, bởi vì rất nhanh anh ta thấy rằng nếu như người này hoặc người kia trong số hai người làm chứng cố gắng sửa chữa các lời làm chứng của họ, họ chỉ vì lo lắng mà khiến thành sự thật và không có ý của bất kì người nào định tố cáo và đề nghị theo dõi anh ta: đó đơn giản chỉ là những người  đứng nhìn. Sau đó, Mathias còn phát hiện ra rằng những người dân trên đảo, trong tiểu thuyết này, cũng như trong tất cả các tác phẩm nghệ thuật, đều tạo nên; không phải một địa phận riêng của một thế giới toàn thể, mà chính thế giới này, có thể rất dễ dàng phát hiện ra vụ giết người, với tối thiểu sự cố gắng, nhưng họ không quan tâm hơn là chàng thanh niên Marek hay cô bé Maria. Thực chất, vụ giết người này, như là vụ trong tác phẩm Những chiếc tẩy, được sắp xếp trong trật tự của các việc, và trong chừng mực mà cô bé bị giết không giống với những người dân khác trên đảo và thể hiện một yếu tố tự phát và lộn xộn, sự biến mất của cô bé sẽ đỡ gánh nặng cho người dân trên đảo.

Như vậy thế giới được tạo nên chỉ bởi những người nhìn thấy một cách thụ động, họ không có ý định cũng như không có khả năng can thiệp vào cuộc sống của xã hội để khiến nó trở nên tốt đẹp và có tính nhân văn nhiều hơn. Chỉ có một người trong khoảnh khắc đã nghĩ là vụ giết đứa bé là một hành động phải được trừng trị và có thể loại bỏ ra khỏi cuộc sống xã hội, đó là chính bản thân Mathias, người mà vào lúc kết thúc của câu chuyện, hiểu được tội lỗi của mình, không thèm nghĩ đến khả năng chạy trốn và bình tĩnh chờ đến buổi sáng hôm sau để lên con tàu thường xuyên nối liền đảo với đất liền.

Cũng như vậy, kẻ giết người đã được sắp xếp vào trật tự của thế giới, được xác định trong Những chiếc tẩy bởi sự tự điều chỉnh loại trừ tất cả các khả năng thay đổi, nó được nảy sinh bởi một yếu tố bất ngờ từ tính tình con người, bởi tội lỗi không ngờ tới của con người, và, trong Kđứng nhìn, bởi sự vô cảm của các thành viên của xã hội.

Xin nói vài lời ở đây (có thể chúng chẳng có ích gì) để tránh bất kì sự nhầm lẫn nào. Theo tôi, trong thực tế chủ đề của hai tiểu thuyết này hai tác phẩm hiện thực nhất của tiểu thuyết đương đại là sự biến mất tất cả tầm quan trọng và của tất cả ý nghĩa của hành động con người. Thế nhưng cũng có thể tìm thấy những độc giả hoặc các nhà phê bình phản kháng lại tôi bằng một lý lẽ dường như được hiện ra bởi lương tri: chỉ thực đúng khi mà kẻ giết người không thực hiện được tội ác của mình bởi một cơ chế xã hội sửa chữa tội lỗi của anh ta, đồng thời cũng không đúng khi mà một người chào hàng giết đứa bé mà những người hàng xóm lại dửng dưng và các nhà đương chức không lo việc bắt giam anh ta và đưa anh ta ra pháp luật.

Một cách trực tiếp những lời bác bỏ này được dựng lên một cách tự nhiên; thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở mức độ triệt để hơn. Có rất nhiều tội ác diễn ra hàng ngày chống lại con người và nó là một phần của trật tự xã hội, nó được chấp nhận hay được khoan thứ bởi luật lệ xã hội và bởi cấu trúc tâm lý của các thành viên trong xã hội. Ngày xưa trong các xã hội trước đây, sự hiện diện của những yếu tố phi nhân tính có thể và cần phải, ở một thời điểm nào đó có tính cách mạng, nhắc đến sự coi thường của các thành viên của những nhóm xã hội nào đấy và của các nhà văn, các nhà tư tưởng là người phát ngôn cho các nhóm đó (ví dụ như Voltaire hoặc Lessing), rằng nó có thể dẫn đến một sự thay đổi xã hội hướng về việc tạo ra sự kiên trì không có thể của chúng, rời bỏ việc gây nên những bất công khác và những thông lệ phi nhân tính khác, đến lượt mình, chúng sẽ kết thúc bằng việc gây nên sự vô cảm và việc tiếp theo đó.

Điều mà Ribbe-Grillet nhận thấy đó là chủ đề của hai tiểu thuyết đầu tiên, đó là sự thay đổi lớn trong xã hội và của con người, nảy sinh từ sự xuất hiện hai hiện tượng mới và từ sự quan trọng đặc biệt, một mặt, đó là sự tự điều chỉnh  của xã hội, mặt khác, đó là tình trạng thụ động ngày càng tăng, đặc điểm của “Kẻ đứng nhìn” mà con người trong xã hội hiện đại ngày càng thể hiện rõ, sự vắng mặt của việc tham gia tích cực vào cuộc sống xã hội, điều mà, trong sự thể hiện rõ nhất của nó, các nhà xã hội học hiện đại gọi là sự phi chính trị hóa thực chất là một hiện tượng vô cùng cơ bản mà theo mức độ tăng dần, người ta có thể gọi bằng những thuật ngữ như: sự phi chính trị hóa, sự làm mất thiêng, sự mất nhân tính, sự đồ vật hóa.

Sự đồ vật hóa, ở mức độ còn triệt để hơn, là đối tựợng trong tiểu thuyết thứ ba của Robbe-Grillet: Ghen. Thuật ngữ được dùng bởi Lukacs chỉ ra sự biến mất của tất cả tầm quan trọng và ý nghĩa của hành động con người, sự chuyển chúng thành “kẻ đứng nhìn”, thành những thực thể hoàn toàn bị động, chỉ là những thể hiện ngoại vi của một hiện tựợng cơ bản, nói một cách chính xác, là hiện tượng đồ vật hóa, hiện tượng biến con người thành đồ vật đến mức ngày càng khó khăn phân biệt người và vật. Vậy là chính ở cấp độ này mà Robbe-Grillet đã phân tích xã hội đương đại trong tác phẩm Ghen. Cuốn sách đã được miêu tả dưới góc nhìn của một người chứng kiến ghen tuông, có thể đó là người chồng nhìn qua bức mành, cũng chính là tên của cuốn sách ngầm ý rằng trong thế giới này, không thể phân biệt tình cảm của đối tượng. Toàn bộ tác phẩm chỉ ra hiện tượng quyền tự trị của các đồ vật ngày càng tăng, chính chúng là hiện thực cụ thể và ngoài đồ vật, những hiện thực về con người và tình cảm không thể có chút quyền thực tế nào. Sự xuất hiện của người ghen tuông chỉ được thể hiện bởi sự có mặt của chiếc ghế thứ ba, chiếc cốc thứ ba v.v…

Nhiều trang trong tiểu thuyết chỉ ra sự không thể phân biệt tâm lý, kiến thức, tình cảm của đối tượng: “Cần phải nhìn vào chiếc đĩa trống không, nhưng đã bẩn, để tự thuyết phục rằng cô ta đã không quên dùng bữa. Giờ đây, người làm đã dọn đĩa bát. Một lần nữa, càng trở nên không thể kiểm tra những dấu vết đang dây bẩn chiếc đĩa của A…- hoặc sự vắng mặt của bát đĩa, nếu cô ta đã không dùng bữa”.

Thế nhưng, điều quan trọng hơn là những chi tiết như vậy chính là cấu trúc của một thế giới trong đó đồ vật sở hữu một hiện thực riêng, tự trị, trong đó con người không thể nói đến chuyện làm chủ nó, mà còn bị đồng hóa vào chúng; và trong đó, các loại tình cảm không tồn tại nữa trong chừng mực ở đó chúng chỉ có thể thể hiện qua hiện tượng đồ vật hóa.

Trong khi mà cuộc thảo luận chỉ liên quan đến các tiểu thuyết đầu tiên, Robbe-Gillet kiên trì nhấn mạnh sự quan trọng khác giữa thế giới tiểu thuyết của ông và bất kì ý định phê bình mác xít nào giải thích chúng như sự nổi dậy chống lại sự phi nhân tính. Ông nói rằng, những người mác xít là những người hay xác định quan điểm. Tôi, tôi là nhà văn hiện thực, khách quan; tôi tạo ra thế giới tưởng tượng mà tôi không suy xét nó, tôi không tán thưởng cũng không lên án, nhưng tôi miêu tả sự tồn tại của nó với tư cách là hiện thực chủ yếu.

Mặt khác đó cũng là điều thực sự đã tạo nên sự độc đáo của Robb-Grillet  trong tương lai của tiểu thuyết hiện đại đã từ lâu làm cho đồ vật hóa trở thành trung tâm của sáng tạo nghệ thuật. Kafka, Sartre trong Buồn nôn, Camus trong Người xa lạ vẫn còn giữ được những sắc thái nhân văn, ngầm ẩn hay rõ ràng, chúng đã khiến những cuốn sách này thể hiện ra là những tác phẩm về cái vắng mặt. Thế giới lạnh lẽo của Robbe-Grillet đẩy lùi cái vắng mặt về phía sau, ở cấp độ ngầm ẩn, đến mức khó nhận thấy đối với nhà phê bình muốn tìm thấy ý nghĩa tổng thể của thế giới của ông.

Với tác phẩm Mê cung, tiểu thuyết cuối cùng công bố tính tới nay, sự suy xét có tính nhân văn về thế giới của Robbe-Grillet đã miêu tả lần đầu tiên  trong tác phẩm của ông, từ trang đầu đến trang cuối, tình cảm lo âu xuyên suốt tác phẩm. Đó là một yếu tố mới bổ sung vào những chủ đề và những phương tiện hình thức mà Robbe-Grillet đã khám phá và sử dụng trong những tác phẩm trước đó của ông. Có nghĩa là cuốn sách này làm chúng ta quan tâm như một giai đoạn, một mắt xích trong cả chuỗi hướng về tương lai qua mĩ học của riêng ông. Robbe-Grillet đã thể hiện trong các tác phẩm của mình là một nhà văn hết sức hài lòng với sự tồn tại của con người chỉ còn lại nỗi âu lo, chủ đề trở thành gần như là buồn tẻ và ông đem lại cho nó ý nghĩa mới một cách khó khăn, đồng thời gài lồng nó vào thế giới trống rỗng của những tiểu thuyết trước đó của mình. Cũng vậy, trong tác phẩm mới đây của mình, không phải là một cuốn sách, mà là một bộ phim, Năm ngoái ở Marienbad, ông đã bổ sung vào nỗi âu lo một sắc thái khác, chỉ sắc thái này cho phép đem lại chiều kích toàn thể cho hiện thực nhân văn trong thế giới đương đại: niềm hy vọng. Không phải là Robbe-Grillet trở nên lạc quan so với những giá trị đã làm cho tác phẩm này trở nên sống động, chắc chắn là trong xã hội hiện nay, sự lạc quan chỉ có thể là một điều dối trá dễ dàng và rẻ tiền, nhưng trong xã hội này cũng như các xã hội khác, khi đặt ra vấn đề về sự tồn tại đích thực của con người, trước hết dường như nó là vấn đề của thời đại, thuộc về con người và lịch sử. Ba tiểu thuyết đầu tiên của Robbe-Grillet đã thể hiện đặc điểm đồ vật hóa trong thế giới của ông bởi sự loại bỏ bất kì yếu tố thời gian nào. Tác phẩm Ghen, là tác phẩm triệt để nhất trong số đó, đã được đặt trong thời hiện tại liên tục. Bốn trên tổng số bẩy chương được bắt đầu bằng từ “Bây giờ”. Một trong các cách đưa thời gian vào thế giới phi thời gian đương nhiên là nỗi âu lo. Nhưng, chúng ta đã nói, việc miêu tả nỗi âu lo sẽ không trọn vẹn trong chừng mực mà người ta không bổ sung cho nó một sắc thái khác của sự trải nghiệm thời gian, mà nó chỉ là sự đối nghịch tiêu cực: lòng hy vọng (thực tế và được biện bạch, giải thích, hoặc là ảo tưởng và thất vọng). Đó là chủ đề đi qua không nhận ra của phần lớn các nhà phê bình, mặc dù, tất cả cũng như trong các tiểu thuyết, không phải tìm kiếm đến những độ sâu sắc đặc biệt và khó khăn để đạt tới, nhưng mà đến mức độ đơn giản của câu chuyện như là nó đã được kể trực tiếp trong Năm ngoái ở Marienbad. Tòa lâu đài ba rốc Marienbad, đã biến thành rạp chiếu phim, cũng là thế giới trống rỗng và của cái chết trong đó chẳng có gì có thể xảy ra, trong đó người ta mải mê chơi bài với giả định trước là người chơi có thể bị thua, trong đó một vài người chơi đã thắng, một số kẻ khác luôn luôn bị thua và trong đó cuối cùng hai kẻ còn đặt vấn đề về niềm hy vọng. Niềm hy vọng và nỗi âu lo chỉ là hai sắc thái chủ quan của một hiện thực mà sắc thái bản thể là thời gian, và điều đó, không chỉ ở  trong chiều kích thuộc về tương lai của nó, mà trong tất cả các chiều kích, và, cũng là một cách ngầm ẩn, trong chiều kích quá khứ. Ở cấp độ lương tri, vấn đề là nhận biết liệu đã có chuyện gì đó đã xảy ra hoặc chưa xảy ra từ năm trước là một vấn đề  tương hợp với những dấu hiệu, những điều được chứng kiến, những điều nhớ lại; trong thế giới của Robbe-Grillet, vấn đề là nhận biết liệu hai nhân vật có thực sự gặp nhau hoặc là trái lại không phải đã xảy ra ở Marienbad năm ngoái không gì khác là những ngụy - sự kiện làm mất đi ý nghĩa và tính thời gian, giống như tất cả những gì đã xảy ra ở lâu đài, không thể quyết định bởi bất kì kí ức nào cũng như bởi chứng cớ nào. Không có lấy một tấm hình, không một mẩu phiếu bị xé, cũng chẳng có hồi ức chung về cái lạnh bất thường không thể có một tầm quan trọng quyết định. Sự kiện người đàn ông và người phụ nữ đã hoặc chưa gặp nhau năm ngoái ở Marienbad chỉ phụ thuộc vào đặc điểm đã xây dựng hoặc chỉ là ảo tưởng về niềm hy vọng còn tồn tại trong ý thức của họ mà hiện thực của nó tạo nên nội dung của bộ phim. Nếu như họ thực hiện được việc không chỉ là rời khỏi lâu đài, mà còn tìm thấy ở nơi khác (trong phim là ở trong vườn) một cuộc sống đích thực, trong đó con người và những tình cảm nhân văn có thể tồn tại thực sự, trong đó các sự kiện có thể xảy ra, khi đó có thể là họ đã gặp nhau ở Marienbad. Trong trường hợp ngược lại, các tấm hình, các chứng cớ thuyết phục nhất cũng không thể thay đổi được sự kiện là đã không xảy ra cuộc gặp gỡ. Và Robbe-Grillet là một nhà văn quá là triệt để để không biết là câu trả lời cho vấn đề của phim không phụ thuộc chỉ vào sự mong muốn của hai nhân vật, mà trước hết vào bản chất của tòa lâu đài và của cái vườn. Chính là các nhà xã hội học đã phát hiện từ lâu đồng thời khẳng định đặc điểm lịch sử và xã hội của ý nghĩa chủ quan của đời sống tình cảm và trí tuệ của con người (các cá nhân). Và ở đây Robbe-Grillet không chỉ là một nhà văn tầm cỡ, mà còn là (có thể là duy nhất) nhà văn lương thiện một cách hoàn hảo. Câu trả lời ông đưa lại cho chúng ta hai lần vào lúc kết thúc phim cũng như ở lúc khởi đầu (mặc dù người xem phim lần đầu tiên không chú ý đến điều ấy) không phải là không rõ ràng. Hai nhân vật đã làm cái việc ở bên trong của xã hội nơi mà chúng ta những con người có thể làm một cách tốt nhất: họ đi về phía một thế giới khác, trong đó họ sẽ kiếm tìm cuộc sống, đồng thời cũng không thể tưởng tuợng một cách rõ ràng (chính họ nói điều đó trong phim) cuộc sống đó sẽ như thế nào. Họ đi về phia vườn, mà họ hy vọng rằng đối với họ đó sẽ là một thế giới mới, ở đó con người có thể là chính mình; nhưng họ không tìm thấy gì, bởi vì vườn cũng như lâu đài cũng chỉ là một nghĩa trang: “Khu vườn của khách sạn này là vườn theo kiểu Pháp, không cây cối, không hoa lá, không có bất kì một loại thực vật nào…Bãi sỏi, đá, đá hoa cương, con đường thẳng đánh dấu những không gian cứng nhắc, những bề mặt trơ trụi. Thoạt nhìn, dường như là không thể biến mất trong đó, thoạt nhìn…chiều dài của các con đường thẳng, giữa những bức tượng trong tư thế bất động và những tấm lát bằng đá granit nơi đó giờ đây bạn đã đang bị mất hút, mãi mãi trong đêm tối tĩnh lặng, chỉ duy nhất với tôi”.

Tác phẩm của Robbe-Grillet đã đặt ra nhiều vấn đề hoàn toàn thuộc về mỹ học và trước hết liên quan đến những thay đổi mà nội dung đã tác động đến hình thức của tiểu thuyết. Thế nhưng chúng ta có cảm giác rằng sự phân tích đơn giản nội dung trực tiếp nhất những tiểu thuyết của Nathalie Sarraute và Robbe-Grillet và phim của Robbe-Grillet như chúng ta vừa phác thảo cũng đủ để chỉ ra rằng nếu người ta  đem lại cho thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực ý nghĩa sự sáng tạo một thế giới mà cấu trúc của nó tương tự với cấu trúc chủ yếu của hiện thực xã hội mà từ trong lòng xã hội ấy tác phẩm đã được viết ra, Nathalie Sarraute và Robbe-Grillet được liệt vào trong số những nhà văn hiện thực triệt để nhất của văn học Pháp đương đại.

 

Lộc Phương Thủy dịch

từ cuốn: L.Goldmann, Vì một xã hội học tiểu thuyết (Pour une sociologie du roman), Paris, Gallimard, 1992, trang 279-334.

 

  

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114577256

Hôm nay

2120

Hôm qua

2335

Tuần này

2455

Tháng này

224313

Tháng qua

130677

Tất cả

114577256