Văn hóa và đời sống

Chuyển động văn hóa từ sau Hội nghị Văn hóa toàn quốc tháng 11/2021 đến nay

Toàn cảnh Hội nghị Văn hóa toàn quốc tháng 11/2021. Nguồn ảnh: Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam 

 

Về độ trễ của lĩnh vực thực thi chính sách văn hóa

Phải thừa nhận rằng, so với rất nhiều lĩnh vực khác, văn hóa có độ trễ của nó khi thẩm thấu vào cuộc sống hiện thực. Lĩnh vực kinh tế, chẳng hạn, nhanh hơn khi thể hiện sự tác động trong đời sống của xã hội, thậm chí kết quả tác động của nó có thể còn cân đong đong đếm được. Các chỉ số đổi thay (tăng - giảm) trên lĩnh vực kinh tế biểu hiện ra một cách rõ ràng. Còn văn hóa là giá trị tinh thần, nó được chắt lọc từ nhiều nguồn khác nhau, từ cả nguồn vật chất, được thẩm thấu dần dần, từ từ, kiểu “mưa dầm thấm lâu”, chính sách đề ra nếu có vào được cuộc sống, biến nó thành chỉ số hiện thực này nọ thì cũng phải cần thời gian nhất định, thời gian này thường là lâu, có khi tính bằng thập niên trở lên, chứ không phải là ít.

Lý lẽ trên đây cho chúng ta thấy: Đừng có kỳ vọng quá mà nghĩ rằng, cứ sau Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (trong bài này, xin được gọi tắt là “Hội nghị” hoặc “Hội nghị Văn hóa toàn quốc”) từ tháng 11/2021 (đến nay là 3 năm rồi), nền văn hóa nước nhà vùn vụt tiến, đạt được ngay những điều ghi trong Hội nghị. Giá trị của các quyết định nói chung, trên tất cả lĩnh vực, không riêng gì văn hóa, đâu phải là “chiếc đũa thần” hễ cứ vung lên một cái là mọi việc đâu vào đấy.

Thường thì quy trình phát triển văn hóa một cách đúng đắn, một cách bền vững ở nước ta thể hiện ra ở 5 bước, nó biểu đạt ở bộ ba: Tầm, Trí, Chí của tổ chức và cá nhân người lãnh đạo quản lý cũng như của những đảng viên, công chức, viên chức, và nói chung, theo cách nói lâu nay, là của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.

Năm bước như sau:

1. Lựa chọn thật trúng và nhận thức thật đúng những vấn đề đặt ra;

2. Ra những quyết định vừa đúng vừa kịp thời, tức là bấm nút enter cho thật nhanh và cho thật chun chỉ;

3. Tổ chức lực lượng, bộ máy thực thi những vấn đề đã quyết. Nói một câu ngắn gọn như thế này thôi, nhưng đây là một công việc dài kỳ, đầy gian khó, đòi hỏi bản lĩnh chính trị, kỹ năng và tính thấu hiểu cả công việc lẫn con người, đòi hỏi người đứng ra tổ chức thực thi phải “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý” bởi vì nó là cả một nghệ thuật xử lý các loại công việc nhỏ to, lớn bé, việc đơn hay việc chuỗi.

4. Thực hiện những điều đã quyết một cách khẩn trương, tích cực (chúng ta hay thường dùng hai chữ “quyết liệt”), trong đó có việc điều chỉnh những vấn đề đã quyết khi trong điều kiện thực tế buộc phải thay đổi, nghĩa là buộc chúng ta phải có một thái độ: Không làm bừa làm ấu và đồng thời cũng không được phép ù lì, bảo thủ, trì trệ. Thế nên, Đảng nhiều lần nói rằng, những vấn đề nào đã “chín” thì phải làm ngay, làm một cách tích cực, rốt ráo, quyết liệt; còn vấn đề nào chưa “chín” thì tiếp tục thảo luận, cân nhắc, thậm chí cho làm thí điểm nếu thấy tốt thì tiến hành làm đại trà.

5. Sơ kết, tổng kết (thường là chặng 5 năm, 10 năm...) để tìm ra những vấn đề đúng để nhân lên, lan tỏa những mặt tốt, đồng thời tìm cách khắc phục, sửa chữa những điều còn kém cỏi, thiếu sót. Sơ kết, tổng kết là công việc đúc kết lý luận từ thể nghiệm cuộc sống, rút ra những bài học kinh nghiệm soi sáng cho hiện tại và tương lai, dạy người ta nên làm cái này và chớ làm cái kia. Cuộc sống, và chỉ có cuộc sống, mới là môi trường thực thi đích thực, qua đó rút ra những kết luận đúng - sai, tốt - kém của mỗi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, của Chính phủ trung ương, của chính quyền địa phương, của mỗi phong trào cách mạng và là nơi thử thách, “nghiệm thu” chất lượng các tổ chức Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người lao động nói chung, cả trên lĩnh vực chuyên trách công tác văn hóa và cả trên cả môi trường làm việc của những người không chuyên trách. Trong thực tế, trong sơ kết, tổng kết thì sẽ biết ngay chủ trương, chính sách nào là đúng; trước đây đúng, giờ vẫn đúng; chủ trương, chính sách nào trước đúng nay không còn phù hợp, “đã bị lịch sử vượt qua”; chủ trương, chính sách nào sai ngay từ đầu. Đối với tổ chức và cá nhân người thực thi chủ trương, chính sách văn hóa cũng vậy, có thể thấy rằng, sau mỗi đợt sơ kết, tổng kết thì tổ chức và con người tốt lên, nó như là một bộ lọc (filter) cực kỳ hiệu nghiệm làm trong sạch bộ máy và con người, ai không đáp ứng được, cần thiết sẽ phải “đứng ra một bên cho người khác làm” như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và đương kim Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thường hay nói trong quá trình chỉ đạo thực hiện các công việc thực tế.

Một số chuyển động chấn hưng văn hóa

Ba năm (11/2021 - 11/2024), thời gian có lẽ còn sớm để làm sơ kết, tổng kết việc thực hiện những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta nêu trong Hội nghị văn hóa toàn quốc. Nhưng, cũng cần có một số nhận xét. Nhận xét để hiểu thêm chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhận xét để tiếp tục làm cho tốt hơn trên lĩnh vực văn hóa. Hiện cũng đã có một số nét của chấn hưng văn hóa. Những biểu hiện của điều này là ở những điểm sau đây:

(1) Nhận thức đúng về sự phát triển văn hóa

Cần phải nói ngay điều này: Hội nghị Văn hóa toàn quốc do Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức ngày 24/11/2021 tại Hội trường Diên Hồng, nhà Quốc hội, Hà Nội (ngoài trực tuyến còn kết nối online đến 63 tỉnh, thành phố trên cả nước) tự bản thân nó đã là một hiện thân của sự chấn hưng văn hóa. Vì sao? Vì Hội nghị thể hiện tầm nhìn, trí tuệ, ý chí của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, từ bộ phận lãnh đạo, quản lý ở Trung ương cho đến các ban, bộ, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp, đại diện lãnh đạo các hội chuyên ngành văn học, nghệ thuật trung ương, các nhà khoa học, nhà văn hóa, trí thức, văn nghệ sĩ tiêu biểu. Hội nghị đã đánh giá việc triển khai chủ trương, đường lối của Đảng về công tác văn hóa, kết quả xây dựng văn hóa con người Việt Nam sau hơn 35 năm đổi mới đất nước, đề ra phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm công tác văn hóa giai đoạn 2021 - 2026, tầm nhìn đến năm 2045. Hội nghị đồng thời là diễn đàn của các nhà văn hóa, trí thức, văn nghệ sĩ trong cả nước tiếp tục thực hiện những nội dung mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra: Xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam giai đoạn mới; Tăng cường giáo dục cho các tầng lớp nhân dân về lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm xã hội; Thực hiện các giải pháp đột phá ngăn chặn sự xuống cấp đạo đức, lối sống, những tiêu cực và tệ nạn xã hội; Bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; Xây dựng con người Việt Nam; Nâng cao đời sống văn hóa cho toàn dân; Chú trọng hơn nữa phát triển văn học, nghệ thuật, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức văn hóa; Khẩn trương phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa; Tiếp tục xây dựng nền báo chí, truyền thông, xuất bản, phát hành; Tiếp tục đổi mới toàn diện nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước về văn hóa; Đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tham mưu trong lĩnh vực văn hóa; Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hóa[1].

Đặc biệt, Hội nghị nhấn mạnh quan điểm văn hóa phải được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, khẳng định lại quan điểm chỉ đạo đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi (nêu từ năm 1946), văn hóa còn thì dân tộc còn; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống hiến của Nhân dân, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.

Các tham luận của Hội nghị (khoảng 20 tham luận) được trình bày trực tiếp tại Hội nghị cùng 150 bài viết của các ban, bộ, ngành, các tỉnh, thành phố trên cả nước, các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý, các văn nghệ sĩ, các nhà khoa học, các tổ chức văn hóa, nghệ thuật, người Việt Nam ở nước ngoài... đã tập trung làm rõ các vấn đề trọng tâm của văn hóa đất nước, nhận thức rõ hơn vị trí, vai trò quan trọng của văn hóa trong đời sống xã hội; những thành tựu to lớn của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; những hạn chế cùng nguyên nhân của chúng; những giải pháp xây dựng và phát triển văn hóa đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới.

thể nói rằng, Hội nghị Văn hóa toàn quốc (11/2021) “nhấn thêm ga” và là động lực cho sự phát triển, là “cú hích” cực kỳ quan trọng và mạnh mẽ thức tỉnh nhận thức và dẫn đến hành động chấn hưng văn hóa. Sau Hội nghị, nhìn chung trong cả nước, sự nhận thức về tầm quan trọng của lĩnh vực văn hóa đã được nâng lên, tập trung tham mưu, đề xuất xây dựng các dự án luật, nghị định thuộc lĩnh vực văn hóa; triển khai thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030 với 3 trụ cột là đột phá thể chế, tăng cường đầu tư, đổi mới sáng tạo nhằm phát huy vai trò của lĩnh vực văn hóa gắn liền với kinh tế, chính trị, xã hội theo hướng phát triển bền vững (nằm trong khung nhiệm vụ cơ bản của công cuộc đổi mới đất nước: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị là nhiệm vụ then chốt; văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; quốc phòng, an ninh, đối ngoại là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên); xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, gia tăng sức mạnh mềm, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế; xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam giai đoạn mới; phát triển các ngành công nghiệp văn hóa một cách có trọng tâm, trọng điểm; gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch, đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Đã có sự chuyển mình trong công tác lãnh đạo, quản lý văn hóa, trong cả những người làm công tác chuyên trách ở lĩnh vực này và cả sự nâng cao nhận thức của toàn dân về tầm quan trọng của lĩnh vực phát triển văn hóa trong công cuộc đổi mới với nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xác định chủ đề công tác năm 2022 của toàn ngành: “Xây dựng môi trường văn hóa cơ sở và công tác tổ chức cán bộ” và đã tổ chức Lễ phát động triển khai tại Khu Di tích Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An

(2) Đầu tư cho phát triển văn hóa

Đầu tư ở đây thể hiện ở hai nguồn chủ yếu nhất: đầu tư nhân lực và đầu tư tài chính. Đã có kết quả khả quan, tuy mới chỉ bước đầu. Nhiều cấp ủy và chính quyền đã chú trọng dành nguồn lực tương đối thỏa đáng để đầu tư cho phát triển văn hóa. Điều này thực sự đã ghi nhận sự nhận thức với tư duy đổi mới, khắc phục một điều như trước nay chưa thực sự coi trọng lĩnh vực văn hóa mà một trong những biểu hiện của điều này ở đầu tư (cả nhân lực, tài lực...), trong phân bổ ngân sách hễ còn phần “đầu thừa đuôi thẹo” mới dành cho nó.

Về vấn đề tài lực, cần thấy tính biện chứng là ở ba điểm: Một là, sự chấn hưng văn hóa không lệ thuộc vào nguồn tài lực, nghĩa là không phải cứ chi cho thật nhiều tiền thì có ngay sự phát triển văn hóa. Hai là, nhưng nếu không có tiền hoặc quá ít thì đừng nói gì đến việc thúc đẩy lĩnh vực văn hóa được. Ba là, không được đầu tư dàn trải, lãng phí, tiêu cực.

Sau Hội nghị Văn hóa toàn quốc, thì cả ba điểm đó được chú ý đặc biệt. Quyết định số 1909/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 (ban hành ngày 12/11/2021); Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 - 2035 được Chính phủ xây dựng giai đoạn 2025 - 2035 đều phù hợp với quy định về chương trình mục tiêu quốc gia theo khoản 9 Điều 4 Luật Đầu tư công. Quá trình thực hiện Quyết định và Chương trình đó sau Hội nghị Văn hóa toàn quốc đã góp phần đáp ứng yêu cầu bức thiết về phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Số vốn đầu tư phát triển văn hóa từ ngân sách nhà nước đã có sự gia tăng đáng kể. Kế hoạch đầu tư công thời kỳ 2021-2025 từ nguồn ngân sách trung ương cho phát triển văn hóa là 9.466 tỷ đồng, gấp hơn 2 lần so kế hoạch đầu tư công thời kỳ 2016-2020. Bên cạnh việc đầu tư phát triển văn hóa, Nhà nước đã dành nguồn lực lớn cho phát triển con người thông qua việc đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục, đào tạo; đầu tư tăng cường thể chất, nâng cao sức khỏe, tầm vóc và thể trạng con người Việt Nam.

Riêng về công nghiệp văn hóa, một nội dung quan trọng được Hội nghị Văn hóa toàn quốc nêu lên, thì giai đoạn 2018-2022, các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đã đóng góp 1.059 triệu tỷ đồng (tương đương khoảng 44 tỷ USD); số lượng các doanh nghiệp văn hóa, bao gồm cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ngày càng xuất hiện nhiều hơn tại Việt Nam[2].

Các cơ quan được sắp xếp lại bộ máy, phân công rõ trách nhiệm theo hướng tinh gọn; tăng cường phân cấp, phân quyền, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý. Đã có sự quan tâm tới xây dựng thiết chế văn hóa, quan tâm xây dựng nhà văn hóa, phát huy hiệu quả các thiết chế văn hóa trên thực tế. Đặc biệt là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã đề ra Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035 với 7 mục tiêu tổng quát, xác định 9 nhóm mục tiêu cụ thể đến năm 2030 và đến năm 2035, 42 nhiệm vụ, 186 hoạt động chi tiết theo đúng nội dung của Hội nghị Văn hóa toàn quốc về pháp để phát triển văn hóa trong thời gian tới.

 

Thiết chế văn hóa ngày càng được đầu tư xây dựng khang trang hơn. (Trong ảnh: Nhà Văn hóa xóm Bắc Liên, xã Nghi Liên, Nghi Lộc, Nghệ An)

Một số hạn chế những vấn đề đặt ra

Mặc được quan tâm hơn trước nhưng việc đầu tư phát triển văn hóa vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước. So với kết quả đạt được trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, thì kết quả đạt được trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ sức tạo ra động lực đủ mạnh để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Trong lĩnh vực phát triển công nghiệp văn hóa thì so với nhiều nước, Việt Nam phát triển chưa đủ sức cạn tranh.

Vấn đề đặt ra sau 3 năm thực hiện chủ trương của Hội nghị Văn hóa toàn quốc có thể biểu hiện trên những mặt sau đây:

Một là, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chiến lược xây dựng và phát triển con người. Đầu tư cho văn hóa phải bao gồm cả các hoạt động tư tưởng, nâng cao nhận thức, tri thức, giá trị và phát triển các kỹ năng của con người; đầu tư cho hoạt động thể dục thể thao, y tế; bảo bồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa, xây dựng thiết chế văn hóa các cấp, xây dựng hệ thống cơ sở vật chất phục vụ công tác đào tạo, hoạt động các bộ môn văn hóa nghệ thuật, v.v… Con người Việt Nam phải là con phát triển toàn diện, những người có ý thức dân chủ, tôn trọng pháp luật, có hiểu biết sâu sắc về lịch sử, truyền thống, văn hóa dân tộc. Phải kết hợp chặt chẽ các hoạt động văn hóa với các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, với chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc, đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế tri thức, với xã hội số và phù hợp với sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chú trọng đầu tư xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, vì đây không chỉ là nơi hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo dục nếp sống cho con người, mà còn là cơ sở để mỗi cá nhân chủ động, tích cực tham gia xây dựng đời sống văn hóa cộng đồng. Phải tập trung xây dựng hệ thống quy hoạch quốc gia, quy hoạch ngành văn hóa làm cơ sở để đầu tư phát triển văn hóa bền vững.

 Hai là, phải quán triệt quan điểm coi đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho con người, đầu tư cho phát triển bền vững đất nước. Tăng dần mức chi ngân sách nhà nước cho văn hóa. Đầu tư toàn diện xây dựng và nâng cấp các cơ sở nghiên cứu, đào tạo về văn hóa; xây dựng các thiết chế văn hóa, thể thao; bảo tồn di sản văn hóa dân tộc, ưu tiên các vùng căn cứ cách mạng, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đầu tư cho văn hóa cần phải bảo đảm sự hài hòa, cân đối và đồng bộ giữa các ngành văn hóa.

Một vấn đề rất quan trọng đặt ra trong những năm tới, qua bài học kinh nghiệm của việc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí là ở chỗ: Phải sử dụng có hiệu quả, công khai, minh bạch, các nguồn vốn đầu tư cho văn hóa, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm. Hàng trăm tỷ đồng đầu tư cho phát triển văn hóa trong 5 đến 10 năm tới tuy chưa phải là lớn so với nhiều lĩnh vực khác, nhưng nó cũng là con số biết nói. Nó nói lên sự chuyển biến về tư duy của Đảng và hệ thống chính trị đã coi trọng hơn về lĩnh vực phát triển văn hóa. Nhưng đáng lo ngại nhất là ở chỗ sử dụng kinh phí đầu tư không tránh khỏi lãng phí, đầu tư cho những công trình vô bổ, hoặc là thực sự chưa cần thiết. Thậm chí cần cảnh giác với tham nhũng, tiêu cực, những biểu hiện của “giặc nội xâm” tham ô, lãng phí, quan liêu như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra. Cần ưu tiên đầu tư xây dựng một số công trình văn hóa hiện đại, mang dấu ấn quốc gia ở những nơi có tiềm năng du lịch, có điều kiện kinh tế phát triển để tạo điểm nhấn, thu hút quảng bá du lịch và phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân. Cùng với đó là đẩy mạnh chiến lược văn hóa đối ngoại, ngoại giao nhân dân thông qua các hoạt động văn hóa; xây dựng các trung tâm văn hóa Việt Nam tại một số địa bàn trọng điểm, nơi có nhiều kiều bào sinh sống, tăng cường trao đổi, giao lưu giữa các thế hệ người Việt Nam, giao lưu và tiếp thu có chọn lọc văn hóa nước ngoài.

 

(Bài đã đăng VHTT Nghệ An Số 15 - Tháng 11/2024)



[1] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tập I, tr.143-147.

[2] Các số liệu lấy từ nguồn https://special.nhandan.vn/Bo-KHDT-chinh-sach-dau-tu-phat-trien-van-hoa/index.html

 

 

 

 

 

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114535208

Hôm nay

2244

Hôm qua

2398

Tuần này

21070

Tháng này

2114318411

Tháng qua

120069

Tất cả

114535208