Góc nhìn văn hóa

Văn hóa phải là mục tiêu và động lực của quá trình phát triển

Hội nghị Văn hóa toàn quốc tháng 11/2021

Văn hóa và kinh tế là mối quan hệ phức tạp, đã được nhiều nhà nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau đưa ra những quan điểm khác nhau. Và cho đến nay, mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế vẫn còn là vấn đề gây nhiều tranh luận với các quan điểm trái chiều. Ban đầu, người ta cho rằng văn hóa là một thứ gì đó phù phiếm, tồn tại trong tinh thần của con người. Nhưng sau đó, người ta lại cho rằng văn hóa là các kết quả thụ động từ hoạt động kinh tế. Hệ quả của quan điểm này là nhiều người cho rằng khi kinh tế thay đổi thì văn hóa của thể chế kinh tế trước đó cũng phải thay đổi vì đã lạc hậu, không phù hợp. Họ không nhận thấy sự độc lập của văn hóa, mà thực chất là sự rộng lớn trong khái niệm văn hóa. Sau này, nhiều người lại xếp văn hóa ngang hàng với kinh tế và trở thành một trong bốn lĩnh vực cơ bản là chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa (Phan Hữu Dật 2016, tr 20). Và ngày nay, văn hóa được hiểu với nghĩa rộng lớn hơn, bao hàm hấu hết các hoạt động liên quan đến cuộc sống con người. Tức là văn hóa lại bao hàm cả kinh tế, chính trị, xã hội.

Tuy nhiên, với tư cách là một loại vốn, văn hóa lại thể hiện nhiều vai trò khác nhau trong quá trình phát triển. Phát triển được hiểu theo nghĩa rộng của nó, không chỉ là tăng trưởng kinh tế, mà còn trên nhiều phương diện khác (Nguyễn Văn Sửu 2016; Nguyễn Văn Chính 2020). Trong mối quan hệ này, văn hóa và kinh tế có sự tác động qua lại với nhau. Ở đó, tùy theo bối cảnh cụ thể mà người ta nhìn nhận yếu tố nào là chủ chốt của quá trình phát triển. Văn hóa và kinh tế luôn có tác động qua lại, có khi kéo theo nhau phát triển, có khi lại kìm hãm nhau, có khi lại tương hỗ nhưng cũng có khi là phụ thuộc nhau. Xét theo nhiều chiều cạnh thì văn hóa luôn ẩn hiện trong các hoạt động kinh tế. Và dù muốn hay không thì cũng khó mà tách rời các yếu tố này ra. Bởi chúng luôn quyện vào nhau trong quá trình phát triển theo các mức độ khác nhau. Nói cách khác thì văn hóa với tư cách là vốn luôn hiện hữu trong các hoạt động kinh tế. Và ngược lại, hoạt động kinh tế dù ở phương diện nào cũng luôn thể hiện những giá trị văn hóa của nó. Đó là mối quan hệ rất phức tạp và khó bóc tách (Wilk và Cliggett 2007). Vậy nên xem xét vai trò của văn hóa trong quá trình phát triển kinh tế mới chỉ là một góc độ nhỏ trong việc tìm hiểu mối quan hệ phức tạp này. Ở đây, vấn đề được thu hẹp hơn khi mối quan tâm chủ yếu tập trung vào vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế. Nhưng nhận thức vấn đề trong bối cảnh và các mối quan hệ rộng lớn hơn để thấy được sự bao quát cũng như sự phức tạp của nó giúp chúng ta có cái nhìn xa hơn.

1. Văn hóa là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế trong bối cảnh hiện nay

Đưa văn hóa vào quá trình phát triển là vấn đề không chỉ được các nhà khoa học xã hội quan tâm mà còn là mong muốn của nhiều cộng đồng, quốc gia khác nhau. Và dần hình thành một lĩnh vực gọi là văn hóa học ứng dụng. Có thể nói ứng dụng tri thức văn hóa vào quá trình phát triển được các nhà khoa học ở Mỹ bắt đầu vào cuối những năm 1940. Tiêu biểu là Benjamin A. Botkin và các cộng sự của ông đã sưu tầm các câu chuyện của những người nô lệ có trong tài liệu ở Thư viện Quốc hội Mỹ nhằm cung cấp các tri thức để cải thiện mối quan hệ chủng tộc ở Mỹ vốn đang căng thẳng lúc đó. Về sau, việc sử dụng tri thức văn hóa vào giải quyết các vấn đề xã hội càng được mở rộng ra nhiều nơi và được nhiều lĩnh vực quan tâm (Trần Hữu Sơn 2017, tr 14-15). Và càng về sau, văn hóa dần được xem như là một nguồn lực quan trọng không chỉ để quản trị xã hội mà còn để phát triển kinh tế.

Từ sau Chiến tranh Thế giới thứ II, khái niệm phát triển ngày càng được quan tâm gắn với nhu cầu tái thiết các nền kinh tế xã hội sau khi bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Lúc đó, khái niệm phát triển được gắn với tăng trưởng kinh tế, nên phát triển cũng được hiểu là phát triển kinh tế. Nhưng rồi càng lúc, kinh tế mà cụ thể là GDP của các quốc gia dù tăng nhanh thì nhiều vấn đề kinh tế xã hội vẫn đối diện với những thách thức không giải quyết được. Người ta phải đặt lại vấn đề văn hóa có vai trò gì trong phát triển kinh tế? Đó là động lực của phát triển, và nó cũng là mục tiêu của sự phát triển (Cuche 2020, tr 282; Nguyễn Văn Chính 2020, tr 5). Phát triển kinh tế thì cần nhiều nguồn lực khác nhau, nhưng văn hóa là nguồn lực quan trọng, là nguồn vốn to lớn được kế thừa và có khả năng mở rộng trong quá trình phát triển.

Quan niệm văn hóa là động lực phát triển kinh tế ngày càng được nhiều người ủng hộ. Tuy nhiên, mỗi góc nhìn khác nhau lại đưa ra những lập luận khác nhau. Trong các nghiên cứu của mình, Bourdieu nhấn mạnh đến vốn văn hóa cá nhân, đặc biệt là những chứng nhận, danh hiệu mà người ta có được do trao truyền hay tự mình nỗ lực vươn lên mà có được sẽ giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống của họ. Quan điểm của ông sau đó đã nhận được nhiều ý kiến thảo luận của các học giả khác.  Về mặt lý thuyết, nhiều nhà nghiên cứu đã quan tâm đến khái niệm vốn văn hóa mà Bourdieu bằng cách phân tích mở rộng và phê bình lại khái niệm này. Trong một công trình nghiên cứu, David Throsby đã phân tích thêm về khái niệm vốn văn hóa của Bourdieu trên phương diện phát triển kinh tế. Theo Throsby thì bên cạnh 3 loại vốn quan trọng phục vụ sự phát triển là vốn tự nhiên (các nguồn tài liệu, thiên nhiên), vốn vất chất (cơ sở vật chất do con người tạo ra) và vốn nhân lực thì vốn văn hóa là nguồn vốn thứ tư giữ vai trò cốt lõi cho sự phát triển (Throsby, 1999). Nghiên cứu này cũng phân tích sâu thêm mối quan hệ giữa văn hóa với các loại vốn còn lại trong quá trình phát triển. Trong khi đó, Goldthorpe lại lập luận rằng: vốn văn hóa là khái niệm cốt lõi nhất của Bourdieu, và nó đóng một vai trò quan trọng trong các dự án lớn mà Bourdieu theo đuổi, tích hợp và giải thích về sự bất bình đẳng giai cấp xã hội ở trình độ học vấn vào một lý thuyết rộng hơn về sinh sản xã hội (Goldthorpe, 2007). Nhưng cũng chính Goldthorpe đã đặt ra những hoài nghi về vai trò của khái niệm vốn văn hóa trong nghiên cứu giáo dục. Theo ông thì Bourdieu đã quá nhấn mạnh đến sự khác biệt về vốn văn hóa giữa các lớp xã hội mà không quan tâm đến sự di động văn hóa và sự năng động của học trò. Không chỉ vậy, những nghiên cứu thực nghiệm trong giáo dục cũng không ủng hộ khái niệm vốn văn hóa của Bourdieu. Quan điểm của Goldthorpe đã được Tzanakis củng cố bằng cách chứng minh trong một nghiên cứu thực nghiệm lớn hơn và đi đến lập luận rằng khái niệm vốn văn hóa và lý thuyết sản sinh xã hội của Bourdieu không hợp lý trong nghiên cứu giáo dục ở quy mô lớn trong xã hội đa văn hóa (Tzanakis, 2011). Dù còn nhiều tranh luận nhưng không thể phủ nhận rằng từ khi xuất hiện, khái niệm vốn văn hóa đã tạo ra những ảnh lớn trong nghiên cứu xã hội học, đặc biệt trong ngành xã hội học giáo dục. Tiêu biểu có thể điểm qua những nghiên cứu của Dimaggio (1982); Dimaggio và Mohr (1985); Katsillis và Rubinson (1990); Kalmijn và Kraaykamp (1996); Driessen (2001); Sullivan (2001 và 2007); Lareau và Weininger (2003); Bennett (2006); Fyfe (2004)…Dù có những ý kiến trái chiều những không thể phủ nhận lý thuyết vốn văn hóa của Bourdieu đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nhà nghiên cứu khoa học xã hội. Và gần như các học giả, dù ở các cách tiếp cận khác nhau và cách diễn giải khác nhau thì cũng đều công nhận văn hóa có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển, là động lực của phát triển kinh tế.

Phát triển lý thuyết của Bourdieu, hai nhà kinh tế học Mỹ là Robert Putnam (1993 & 2000) và Francis Fukuyama (2001) càng khẳng định hơn về vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế. Các học giả này không dừng lại ở các giá trị văn hóa cá nhân mà nhìn thấy được vai trò, tiềm năng của các giá trị văn hóa cộng đồng, của niềm tin tập, giá trị nhóm và đặc biệt là mạng lưới xã hội và các quan hệ xã hội. Họ gọi chung lại với tên gọi là “vốn xã hội”. Nhận định về sự thay đổi trong quan điểm về vốn văn hóa của Putnam và Fukuyama, Nguyễn Văn Chính (2020, tr 6) cho rằng: “Các học giả này cho rằng vốn xã hội, cũng giống như vốn vật chất hay vốn con người, đều là những loại “vốn” có khả năng làm tăng năng suất và lợi nhuận do những tác động tương hỗ của các mối tương tác thông qua các mạng lưới xã hội, các quy tắc xã hội cũng như niềm tin của con người trong xã hội, trong đó chữ tín hay niềm tin lẫn nhau (trust) được nhấn mạnh như một giá trị cốt lõi của vốn xã hội”. Tuy nhiên, từ Bouedieu đến Putnam và Fukuyama là một sự phát triển về lý thuyết vốn văn hóa. “Điểm khác biệt giữa Bourdieu và Putnam là ở chỗ Bourdieu coi vốn xã hội là tài sản của cá nhân chứ không phải của tập thể trong khi Putnam lại xem vốn xã hội được nâng từ đặc điểm của các cá nhân thành đặc điểm của một tập hợp dân số lớn và trở thành một đặc điểm tập thể. Dù còn có những khác biệt trong việc xem vốn văn hóa là tài sản cá nhân (Bourdieu 1986) hay tập thể (Putnam 2001) nhưng các nhà nghiên cứu đều có sự đồng thuận trong việc xem văn hóa như một nguồn lực, được đặc trưng bởi mạng lưới xã hội, kinh nghiệm, kỹ năng, hệ giá trị, các quy tắc ứng xử, niềm tin, quan hệ có đi có lại và là một bộ phận cấu thành nên bối cảnh văn hóa của một chương trình phát triển, có thể tạo điều kiện cho sáng tạo và thay đổi (Nguyễn Văn Chính 2020, tr 6-7).

Như vậy, trên phương diện lý thuyết, quan điểm văn hóa là nguồn lực quan trọng, là động lực của phát triển kinh tế đang được phát triển và được nhiều nhà khoa học, nhiều lĩnh vực công nhận. Đối với các nhà nhân học, “văn hóa là nguồn lực nội sinh không bao giờ cạn kiệt. Khi nói đưa văn hóa vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội cũng có nghĩa là chúng ta chấp nhận hoặc sử dụng các thành tố văn hóa của một nền văn hóa nào đó hoặc sử dụng các ý tưởng, các biểu tượng, các khía cạnh văn hóa vật thể và phi vật thể khác của nền văn hóa ấy” (Nguyễn Văn Chính 2020, tr 9). Nhưng không chỉ trên bình diện lý thuyết, mà trên thực tế, văn hóa đang ngày càng tham gia mạnh mẽ hơn, trực tiếp hơn vào phát triển kinh tế. Trên phương diện quốc gia, Nhật Bản thể hiện rõ nét điều đó. Người Nhật đã đưa được những nét đặc trưng nhất của tinh thần người Nhật vào quá trình phát triển kinh tế để xây dựng đất nước từ một đống đổ nát sau chiến tranh trở thành một cường quốc thật sự sau gần nửa thế kỷ. Và ở Việt Nam, trong nhiều thập niên qua cũng không ngừng đặt mục tiêu đưa văn hóa thành nguồn lực phát triển đất nước, hay “phát huy nguồn lực văn hóa vào phát triển kinh tế, nâng cao đời sống xã hội”.

Trong thực tế phát triển hiện nay, chúng ta có thể thấy rõ vai trò của văn hóa vào phát triển kinh tế. Các địa phương, các cộng đồng hoặc tự giác, hoặc tự phát đã tìm các con đường khai thác, vận dụng vốn văn hóa vào phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế thị trường. Nó tạo thành những mô hình phát triển kinh tế mới mẻ, gắn với sự đa dạng về mặt văn hóa của các địa phương, các cộng đồng. Các giá trị văn hóa được tạo thành hàng hóa và sản xuất hàng loạt để phục vụ thị trường. Các nguồn tri thức dân gian của các cộng đồng cũng được khai thác để phát triển kinh tế, thể hiện rõ nhất là kinh tế dược liệu, nông nghiệp hay thủ công nghiệp. Các giá trị văn hóa truyền thống như nghệ thuật trình diễn, cảnh quan văn hóa, phong tục tập quán, lễ hội truyền thống cũng được khai thác vào phát triển du lịch, công nghiệp văn hóa hay kinh tế lễ hội. Nói như vậy để thấy, cả trên bình diện lý thuyết lẫn thực tế, văn hóa đang trở thành động lực quan trọng để phát triển kinh tế.

2. Văn hóa là mục tiêu của quá trình phát triển kinh tế

Nếu nói văn hóa là động lực của quá trình phát triển kinh tế thôi thì chưa đủ, mà văn hóa còn là mục tiêu của phát triển kinh tế. Và điều này thể hiện rõ nhất là phát triển kinh tế lấy con người làm trọng tâm, làm mục tiêu quan trọng. Khác với thuở ban đầu xuất hiện, phát triển đồng nghĩa với tăng trưởng kinh tế, thì nay, phát triển được gắn với nhiều chỉ số khác nhau mà con người là trọng tâm. Và như vậy thì văn hóa cũng trở thành mục tiêu để phát triển. Bởi văn hóa luôn hiện hữu trong chính con người và các mối liên quan của con người. Như vậy có thể thấy, văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình phát triển (Nguyễn Văn Chính 2020, tr 5).

Thảo luận về mục tiêu của phát triển kinh tế là vấn đề phức tạp bởi phát triển kinh tế là một quá trình đa mục tiêu. Trong đó, bên cạnh tăng trưởng kinh tế còn có nhiều mục tiêu quan trọng khác là chính trị, xã hội, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia. Và đương nhiên, không thể không nói tới mục tiêu văn hóa. Nhiều người còn cho rằng mục tiêu văn hóa là thể hiện cao nhất, là mục tiêu cuối cùng. Bởi sự phát triển phải hướng đến con người, và không có cái gì liên quan đến con người mà nằm ngoài văn hóa, kể cả phần tự nhiên trong con người. Như vậy, văn hóa/văn hóa là mục tiêu rất quan trọng của quá trình phát triển kinh tế. Nhưng mục tiêu đó thể hiện như thế nào trong cuộc sống hiện này của chúng ta?

Trước hết, có thể thấy rõ phát triển kinh tế có nhiều mục tiêu, trong đó có mục tiêu tăng nguồn lực để bảo tồn di sản văn hóa. Và sau đó nữa là phát huy giá trị di sản văn hóa vào công cuộc phát triển kinh tế. Như vậy, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa đều gắn với phát triển kinh tế, lấy phát triển kinh tế làm nền tảng. Phát triển kinh tế tạo ra nguồn lực để đáp ứng các nhu cầu bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Trước hết đó là vốn tài chính. Muốn bảo tồn di sản văn hóa cần có một nguồn tài chính không nhỏ. Và nguồn tài chính này chủ yếu đến từ nhà nước, sau đó là doanh nghiệp và cộng đồng. Tức là cần có một sự phát triển kinh tế tương đối ổn định thì mới có đủ nguồn tài chính để phục vụ việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.

Thứ hai, phát triển kinh tế là làn gió thổi vào các giá trị di sản văn hóa, làm cho văn hóa thật sự trở thành một nguồn vốn tham gia vào nền kinh tế. Kinh tế phát triển mới có các nguồn lực để đầu tư vào các lĩnh vực văn hóa nhằm phát huy giá trị của văn hóa. Muốn làm cho một di sản văn hóa sống lại và tham gia vào quá trình phát triển thì cần có nguồn lực kinh tế để đầu tư. Nên văn hóa là nguồn lực để phát triển kinh tế, cũng là mục tiêu của sự phát triển kinh tế nhằm tái đầu tư lại để phát huy nguồn văn hóa. Ví dụ, cố đô Huế với hệ thống giá trị văn hóa đặc sắc của nó là một nguồn văn hóa. Nhưng để phát huy các giá trị đó thì cần một nguồn đầu tư lớn. Và kinh tế phát triển mới tạo ra được các nguồn lực để thực hiện đầu tư đó.

Thứ ba, phát triển kinh tế làm cơ sở quan trọng để phát triển con người. Phát triển kinh tế để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người. Và cơ sở vật chất hay tinh thần mà con người tạo ra cũng là nguồn văn hóa. Nên kinh tế là yếu tố quan trọng tạo nên bệ đỡ cho sự phát triển toàn diện con người một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Con người xem phát triển kinh tế là cơ sở để tạo ra những cơ hội, những nền tảng nhằm phát triển các chỉ số khác cả về vật chất lẫn tinh thần. Xét trên phương diện này thì phát triển kinh tế là động lực để phát triển con người. Bên cạnh đó, kinh tế cũng tạo cho con người xây dựng và phát triển các nguồn văn hóa khác, từ văn hóa cộng đồng, văn hóa cá nhân, mạng lưới xã hội. Khi có tiềm lực kinh tế thì người ta có nhiều thuận lợi hơn trong việc xây dựng mạng lưới xã hội cho riêng mình.

3. Vốn văn hóa là điều kiện quan trọng cho sự phát triển bền vững

Trong gần nửa thế kỷ qua, phát triển bền vững xuất hiện và dần chiếm lĩnh vị trí quan trọng trong công luận cũng như trong tư duy của các nhà làm chính sách. Phát triển bền vững trở thành thuật ngữ len lỏi vào hầu hết các lĩnh vực, đi vào hầu hết các chính sách phát triển. Và nó cũng trở thành một thuật ngữ thống soái trên công luận (Nguyễn Văn Chính 2020, tr 10-11). Ở Việt Nam, phát triển bền vững không chỉ phổ biến trên công luận, trong chính sách mà còn tạo thành các phong trào xã hội. Phát triển bền vững cũng được gắn vào thành khẩu hiệu cho hàng loạt các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học. Bên cạnh tiếp thu các giá trị tích cực từ quan điểm phát triển bền vững từ Liên Hợp Quốc cũng như các tổ chức quốc tế, thì phát triển bền vững cũng được phổ biến và thực thi trong một số dự án cụ thể. Nhưng phát triển bền vững khó đạt được mục tiêu khi mà vẫn tập trung vào tăng trưởng kinh tế. Cái giá phải trả là suy thoái môi trường, xung đột xã hội hay mai một văn hóa cộng đồng…. Vậy nên, gần đây, nhiều nhà nghiên cứu đã phê phán các quan điểm phát triển lấy kinh tế làm trọng tâm mà chuyển qua quan điểm phát triển lấy văn hóa, con người làm trọng tâm. Phát triển bền vững cần được đặt trên nhiều trụ cột khác nhau: bền vững môi trường, bền vững chính trị, bền vững kinh tế, bền vững xã hội, bền vững văn hóa và bền vững con người.

Phát triển bền vững hiện nay cũng gắn với cuộc chuyển đổi nguồn lực phát triển. Quá trình phát triển dựa trên việc khai thác nguồn lực tự nhiên đã ảnh hưởng nặng nền đến môi trường và bắt buộc người ta phải xem xét lại. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên Trái Đất là hữu hạn. Và quá trình tái tạo của nguồn lực tự nhiên cần có những chu trình lâu dài hàng ngàn đến hàng triệu năm. Nên sự khai thác quá mức tự nhiên sẽ đẩy con người vào sự tận diệt. Trong khi đó, nguồn lực văn hóa, dù không vô hạn nhưng cũng rất đa dạng và phong phú, là nguồn lực ngày càng giữ vai trò quan trọng để phát triển kinh tế. So với nguồn lực tự nhiên thì vốn văn hóa tái tạo nhanh hơn, dễ dàng thay đổi và quá trình chuyển đổi cũng nhanh hơn. Người ta có thể tái tạo, hồi phục nguồn vốn văn hóa trong một thời gian ngắn hơn so với khôi phục nguồn lực tự nhiên (Eisenstein 2021). Vì vậy mà vốn văn hóa trở thành một nhân tố quan trọng, một điều kiện cốt lõi cho sự phát triển bền vững.

Trước hết, vốn văn hóa góp phần quan trọng vào việc bảo vệ môi trường trong quá trình phát triển kinh tế. Phát triển dựa vào vốn văn hóa sẽ hạn chế dần quá trình phát triển dựa vào nguồn vốn tự nhiên, và dần chuyển từ vốn tự nhiên sang văn hóa. Nhờ vậy mà việc bảo vệ môi trường cũng được cải thiện đáng kể. Không những vậy, khai thác nguồn vốn văn hóa vào phát triển và ứng dụng vào bảo vệ môi trường được xem là mô hình phát triển ít gây hại cho môi trường hơn so với các mô hình phát triển khác. Bởi vốn văn hóa là sự kết tinh lâu dài trong mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên. Hầu như mọi cộng đồng đều có những tri thức về bảo vệ môi trường. Trong quá trình phát triển, cần khai thác một cách hợp lý những giá trị văn hóa để thúc đẩy sự phát triển bền vững qua việc bảo vệ môi trường.

Thứ hai là khai thác vốn văn hóa có giá trị trong việc kiến tạo sự phát triển hài hòa giữa các nhóm xã hội. Quá trình khai thác nguồn lực tự nhiên chịu ảnh hưởng nhiều của nguồn lực vật chất và tài chính, nên phần lớn bị chi phối bởi các nhóm xã hội có tiềm lực kinh tế và lợi ích cũng rơi vào các nhóm này nhiều hơn trong khi những ảnh hưởng môi trường và tác động trở lại thì những nhóm yếu thế lại phải hứng chịu nhiều hơn. Còn nguồn lực văn hóa lại phân chia theo các cách thức riêng của nó. Mỗi nhóm xã hội đều có những nguồn lực văn hóa riêng và nếu biết vận dụng hợp lý thì sẽ có giá trị trong phát triển kinh tế. Đương nhiên, dù khai thác loại hình nào cũng cần có những sự đầu tư nhất định. Nhưng phát triển từ vốn văn hóa tạo điều kiện cho nhiều nhóm người khác nhau tham gia vào quá trình phát triển hơn. Giúp họ có được những lợi ích nhất định và làm cho quá trình phát triển có tính hài hòa hơn. Xung đột xã hội trong quá trình phát triển là điều không tránh khỏi nhưng phát triển từ vốn văn hóa hạn chế xung đột hơn vì sự phân chia lợi ích hài hòa hơn.

Thứ ba, phát triển từ vốn văn hóa là nhân tố thay đổi tương tác giới, tạo điều kiện để đảm bảo sự bình đẳng giới hơn trong quá trình phát triển. Đàn ông hay phụ nữ đều có những nguồn vốn văn hóa riêng và khi nguồn vốn văn hóa này được vận dụng vào quá trình phát triển sẽ giúp họ cải thiện vị thế của mình trong cuộc sống. Những nghiên cứu từ phát triển kinh tế thị trường vùng dân tộc thiểu số ở miền núi Tây Bắc đã phần nào chứng minh điều đó. Trong khi đàn ông được kế thừa từ bố mẹ những tài sản vật chất như nhà cửa, ruộng, nương, trâu bò, thì phụ nữ lại được kế thừa những nguồn vốn văn hóa như các kỹ năng về dệt may, thêu thổ cẩm, các tri thức về y học cổ truyền hay các kỹ năng quản trị trong gia đình. Và khi kinh tế thị trường phát triển lên đây thì những người phụ nữ dân tộc thiểu số như Mông, Dao, Giáy, Thái,… đã vận dụng các nguồn vốn văn hóa này vào phát triển một cách hiệu quả. Do vậy vị thế của họ thay đổi mạnh mẽ trong cuộc sống, người phụ nữ có nhiều quyền lợi cũng như tiếng nói của họ được tôn trọng hơn (Bùi Minh Hào 2021).

Và thứ tư, phát triển kinh tế từ vốn văn hóa tạo điều kiện để phát triển toàn diện con người hơn và qua đó thúc đẩy phát triển bền vững. Quá trình phát triển kinh tế từ vốn văn hóa phải đặt con người vào trung tâm của phát triển, là mục tiêu quan trọng của quá trình phát triển. Vậy nên con người, mà cụ thể là những người chủ thể của quá trình phát triển được trao quyền nhiều hơn trong quá trình phát triển. Họ được tham gia vào quá trình hoạch định con đường phát triển, được quyết định hình thức phát triển, họ chịu trách nhiệm chính cũng như là đối tượng hưởng thụ chính của quá trình phát triển. Có như vậy thì mới khai thác được nguồn vốn văn hóa, hướng đến phát triển bền vững được. Trong quá trình làm chủ sự phát triển kinh tế, con người được rèn dũa, được xã hội hóa một cách toàn diện hơn và dần hoàn thiện các mặt xã hội của mình để trở nên đầy đủ hơn. Nói tóm lại, như UNESCO (2010) đã tổng kết: “Văn hóa, xét trên mọi khía cạnh, là thành phần cơ bản của phát triển bền vững. Là một lĩnh vực hoạt động, thông qua di sản vật thể và phi vật thể, các ngành công nghiệp sáng tạo và các hình thức biểu đạt nghệ thuật khác nhau, văn hóa là một yếu tố đóng góp mạnh mẽ vào kinh tế phát triển, ổn định xã hội và bảo vệ môi trường. Là một kho kiến thức, ý nghĩa và giá trị thấm nhuần tất cả các khía cạnh của cuộc sống, văn hóa cũng xác định cách con người sống và tương tác cả ở địa phương và quy mô toàn cầu”.

___________________________

Tài liệu tham khảo

Bourdieu, P. (1986): “The Forms of Capital”. In J. G. Richardson (ed.) Handbook of Theory and Research for the Sociology of Education. New York: Greenwood Press, pp. 241-258.

Bennett, T. (2006): Distinction on the Box: Cultural Capital and the Social Space of Broadcasting. Cultural Trends 15, 2, 193-212.

Cuche, Denys (2020): Khái niệm văn hóa trong khoa học xã hội. Lê Minh Tiến dịch. Nxb Tri thức, Hà Nội.

Nguyễn Văn Chính (2020): “Nguồn lực văn hóa và phát triển cộng đồng: một tiếp cận nhân học”. Tham luận tại Hội thảo khoa học Quốc tế Nhân học và Phát triển ở Việt Nam đương đại. Khoa Nhân học, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, ĐHQGHN, ngày 16/12/2020.

Phan Hữu Dật (2016); Mấy tiếp cận về văn hóa Việt Nam. Nxb Thế Giới, Hà Nội.

DiMaggio, P. (1982): Cultural Capital and School Success: The Impact of Status Culture Participation on the Grades of US High School Students. American Sociological Review 47, 2, 189-201.

DiMaggio, P. and Mohr, J. (1985): Cultural Capital, Educational Attainment and Marital Selection. American Journal of Sociology 90, 6, 1231-1261.

Driessen,  G. W.  J.  M.  (2001):  Ethnicity,  Forms of  Capital  and  Educational Achievement. International Review of Education 47, 6, 513-538.

Eisenstein, Charles (2021): Kinh tế học linh thiêng: Tiền bạc, quà tặng và xã hội trong thời đại chuyển giao. Book Hunter & Unschool dịch. Nxb Đà Nẵng.

Fukuyama, Francis (2001) “Social capital, civil ociety and development”. Third World Quarterly, Vol. 22, No.1, pp 7-20.

Goldthorpe, J. H. (2007): “Cultural Capital”: Some Critical Observations. Acta Sociologica 50, 3, 211-229.

Bùi Minh Hào (2021): “Bình đẳng như là sự khác biệt được tôn trọng: Kinh tế thị trường, vốn văn hóa và bình đẳng giới trong cộng đồng người Dao ở Sa Pa”. Báo cáo trình bày tại Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ VI “Việt Nam chủ động hội nhập và phát triển bền vững”. Hà Nội, ngày 28 và 29/10/2021.

Putnam, Robert D. (1993): The Prosperous Community. The American Prospect 4(13): 35–42.

Putnam, Robert D. (2000):  Bowling Alone: The Collapse and Revival of American Community.  New York: Simon and Schuster

Kalmijn, M. and Kraaykamp, G. (1996): Race, Cultural Capital and Schooling: An Analysis of Trends in the United States. Sociology and Education 69, 1, 22-34.

Katsillis, J. and Rubinson, R. (1990): Cultural Capital, Student Achievement, and Educational Reproduction: The Case of Greece. American Sociological Review 55, 2, 270-279.

Lareau, A. and Weininger, E. B. (2003): Cultural Capital in Educational Research: A Critical Assessment. Theory and Society 32, 5-6, 567-606.

Sullivan, A. (2001): Cultural Capital and Educational Attainment. Sociology 35, 4, 893-912.

Sullivan, A. (2007): Cultural Capital, Cultural Knowledge and Ability. Sociological Research Online 12, 6, 1.

Nguyễn Văn Sửu (2015): Lời giới thiệu: Nhân học phát triển là gì?. In trong “Nhân học phát triển: lich sử, lý thuyết và công cụ thực hành”. Nxb Tri thức, Hà Nội, trang 9-14.

Trần Hữu Sơn (2017): Văn hóa dân gian ứng dụng. Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

Throsby, David (1999): Cultural Capital. Journal of Cultural Economics  23:  3–12, 1999.

Tzanakis, Michael (2011): Bourdieu’s Social Reproduction Thesis and The Role of Cultural Capital in Educational Attainment: A Critical Review of Key Empirical Studies. Educate, Vol. 11, No. 1, 2011, pp. 76-90.

UNESCO (2010): The Power of culture for development. Paris, France.

Wilk, Richard R and Cliggett, Lisa C. (2007): Economies and Cultures: Foundations of Econimic Anthropology. (Second edition). A member of the Perseus Books Group.

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114603282

Hôm nay

2300

Hôm qua

2162

Tuần này

2752

Tháng này

229899

Tháng qua

131357

Tất cả

114603282