Là một biểu tượng của văn hóa xứ Nghệ, ví giặm luôn thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu quan tâm đến mảnh đất này.
Là một thế giới nghệ thuật đặc sắc, ví, giặm bắc những nhịp cầu để nối các vùng văn hóa Việt Nam, nối văn hóa Việt Nam với các nền văn hóa trên thế giới.
Vì thế, các công trình nghiên cứu về ví, giặm đã có nhiều nhưng nói bao nhiêu vẫn là chưa đủ cho một hiện tượng văn hóa gắn với mọi mặt đời sống xã hội, đời sống tình cảm, đời sống vật chất của con người xứ Nghệ. Chúng tôi, với một mong muốn ấp ủ được viết về làn điệu dân ca của quê hương, sẽ thử nhìn nhận nó từ một vài góc độ thể thấy sức sống vượt thời gian của thể loại dân ca này.
Trong bài viết này, quan điểm nghiên cứu của chúng tôi là tôn trọng tính đa dạng của văn hóa, khẳng định thuyết tương đối văn hóa; các lý thuyết được vận dụng là lý thuyết văn hóa vùng, biến đổi văn hóa và phương ngữ học; các phương pháp được sử dụng là phân tích văn bản, sử dụng tài liệu điền dã thứ cấp và so sánh loại hình. Do hạn chế của thời gian và khuôn khổ bài viết, phạm vi khảo sát của bài viết chỉ giới hạn trong những bài hát ví, giặm về tình yêu đôi lứa.
1) Xứ Nghệ - một tiểu vùng văn hóa
1.1. Không gian địa lý và những điều kiện lịch sử hình thành vùng đất Nghệ Tĩnh
Trong các nghiên cứu về vùng văn hóa ở Việt Nam, xứ Nghệ (Nghệ An-Hà Tĩnh) thường được coi là một tiểu vùng nằm trong vùng văn hóa Trung Bộ (Ngô Đức Thịnh, 1993; Đinh Gia Khánh và Cù Huy Cận, 1995 và các tác giả khác). Xét về mặt địa lý, sự phân bố địa hình thành 3 phần (rừng núi phía Tây, đồng bằng ở giữa và duyên hải phía đông) chưa thể hiện đặc trưng gì thật khác biệt so với các vùng khác ở dải đất miền Trung Việt Nam. Sự khắc nghiệt về khí hậu mà Đặng Thai Mai và các nhà nghiên cứu thường nói tới[1] đúng là một bất lợi thế rất lớn của xứ này, và có nhiều người đã lấy đó để chỉ ra ảnh hưởng của nó tới tính cách, khí chất con người Nghệ Tĩnh nhưng thực ra, sự khắc nghiệt về khí hậu này có thể đúng với Quảng Trị, Quảng Bình và phần nào với Thanh Hóa. Vậy thì đặc điểm nào về mặt tự nhiên làm nên nét đặc sắc của tiểu vùng văn hóa này?
Trong công trình của mình, Ngô Đức Thịnh đã chỉ ra những yếu tố cấu thành văn hóa vùng gồm: hoàn cảnh tự nhiên, nguồn gốc dân cư, điều kiện lịch sử, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, giao lưu văn hóa[2]. Như vậy, không gian đặc định của tiểu vùng văn hóa xứ Nghệ có lẽ phải tính đến những cơ duyên lịch sử đã tác động đến vùng đất này để tạo nên một cái nôi văn hóa mà từ đó, con người và văn hóa xứ Nghệ được hình thành và phát triển trong thời gian.
Trên vùng đất xứ Nghệ, sự xuất hiện sớm của con người và các nền văn hóa đã được biết tới từ thời kỳ đá cũ với di chỉ Thẩm Òm (Quỳ Châu), các di chỉ thời văn hóa Hòa Bình (Quế Phong, Con Cuông, Tương Dương, Tân Kỳ, Quỳ Châu), và đặc biệt là các cồn sò, cồn điệp làm nên nền văn hóa Quỳnh Văn thời đá mới, di chỉ Làng Vạc với các di vật đồ đồng của thời đại Đông Sơn. Sự đứt đoạn về thư tịch không cho phép hình dung được một dòng mạch liên tục của lịch sử trên vùng đất này tuy nhiên, thư tịch và truyền thuyết dân gian thời Bắc thuộc đã tái hiện phần nào sự phát triển liên tục của lịch sử qua sự xuất hiện của các nữ tướng Hai Bà Trưng, người anh hùng Mai Thúc Loan với cuộc khởi nghĩa 10 năm (713-722) mà các dấu tích về thành quách vẫn lưu giữ trên vùng đất Nam Đàn và quy mô của cuộc khởi nghĩa có tầm lan tỏa tới cả Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân (có thể là Singapore?) đã được lưu trong sử sách nhà Đường. Trong thời kỳ Đại Việt, xứ Nghệ một thời gian dài là vùng đất phên dậu mà ranh giới cuối cùng của nó hiện còn lưu ở tên gọi của núi Nam Giới (Thạch Hà, Hà Tĩnh) được coi là nơi phân định lãnh thổ của người Việt và người Chăm[3]. Điều này đã được chép trong một số thư tịch. Sách Đại Nam nhất thống chí chép: “Hoành Sơn phía nam huyện Kỳ Anh là chỗ phân địa giới giữa hai tỉnh Hà Tỉnh và Quảng Bình , một dải núi liên tiếp chắn ngang đến biển; phía đông có núi Đao, dường quan đi qua trên núi, xưa là chỗ phân địa giới giữa Giao Chỉ và Chiêm Thành”. Đại Nam nhất thống chí dẫn sách Việt sử ngoại kỷ chép rằng: “Hồi Giao Châu thuộc nhà Hán chúa Lâm Ấp là Phạm Văn xin với thái thú quận Nhật Nam là Chu Phồn lấy Hoành Sơn làm giới hạn". Trong thời gian tồn tại của nước Lâm Ấp, người Chăm đã nhiều lần Bắc tiến vượt qua dãy Hoành Sơn, và như vậy là, ảnh hưởng qua lại của người Việt và người Chăm trên mảnh đất xứ Nghệ (dù lúc đó chưa có tên gọi này) là điều hoàn toàn đã xảy ra. Danh xưng Nghệ An được nhà Lý đặt lần đầu tiên vào năm 1030 với tên gọi là “Nghệ An châu trại”. Là vùng biên viễn, xứ Nghệ cũng đã từng là nơi lưu đầy các tù nhân trong lịch sử.
Đến đây, có thể nói, tính chất phên dậu, biên viễn, trại và những mối quan hệ qua lại khá phức tạp giữa ngoại vi với trung tâm, giữa người Việt và các dân tộc thiểu số thời đó với người Chăm chính là những nhân tố tác động mạnh để hình thành nên những đặc điểm về tính cách của con người và đặc trưng văn hóa của vùng đất này.
1.2. Con người Nghệ và thế ứng xử với bối cảnh địa-chính trị-xã hội của vùng biên viễn
Để hiểu tính cách và văn hóa người Nghệ, một điều quan trọng là tìm hiểu về nguồn gốc dân cư của mảnh đất này. Không rõ căn cứ vào đâu mà nhà giáo, nhà nghiên cứu người Pháp là Hippolyte Le Breton đã viết từ năm 1936 là: “Ở trên đỉnh của những cù lao hay bán đảo đó, những người thổ dân văn minh đầu tiên của xứ An Tĩnh cổ đã định cư, chủ yếu là người Chăm”[4]. Nguyễn Đổng Chi lại có một cách nhìn hơi khác, có lẽ đúng với nguồn gốc dân cư của xứ Nghệ hơn. Ông viết: “Nhân chủng Nghệ Tịnh thời cổ rất phức tạp: Ở đây có hòn núi Bể, nhất danh là núi Nam Giới thuộc phủ Thạch Hà, thuở xưa là cái mốc ngăn đôi Việt Nam và Chàm. Miền Quỳ Châu, Cửa Rào hiện nay là quê hương của dân Mường mà ngày trước đã từng ở nhiều miền đồng bằng Nghệ Tịnh như chung quanh Hồng Lĩnh là một... Ngăn cách giữa Lào và Việt Nam còn có người Mọi ở rừng núi phía tây nam Hương Khê; Thái Đen và Mẹo hay Mèo ở rừng núi tây bắc Tương Dương cũng do đồng bằng lên mạn ngược. Đời Bắc thuộc, người Chăm nhiều phen ra cướp phá chiếm đóng. Đời Lê, Lý Hà Tịnh là chỗ đày các tù tội miền Bắc vào. Đến đời Trần thì thổ dân ở đồng bằng Nghệ Tịnh đã Việt Nam hóa hầu hết”[5]. Sự pha trộn giữa người Việt, người Chăm và các tộc người Mường, Thái, Hmông…trong những bối cảnh đầy biến động của chính trị, xã hội đã hình thành nên những nét tính cách đặc biệt, nhiều phần trong đó là những đối cực, của con người trên mảnh đất xứ Nghệ. Và theo Nguyễn Đổng Chi, “đến đời Trần, thổ dân ở đồng bằng Nghệ Tịnh đã Việt Nam hóa hầu hết” nhưng thời gian đã chứng minh rằng, cái bản tính (nét tính cách gốc) được hình thành trong thời gian đã khá định hình và dường như khó đổi thay, ngay cả hàng mấy trăm năm sau.
Tính cách người Nghệ, rõ ràng là, được hình thành bởi thế ứng xử của con người trong môi trường chính trị- lịch sử-xã hội của vùng đất này. Để vượt thoát được sự kỳ thị trung tâm và ngoại vi (mà là một ngoại vi khá đặc biệt, một ngoại vi muốn và bị khép kín bởi tính bản sắc), người Nghệ không có cách nào khác là vươn lên bằng chính sức lực và trí lực của mình. Sự cần cù trong lao động, sự tảo tần trong cuộc sống, sự mạnh mẽ trong ý chí sống, sự quyết tâm cao trong học hành và thi cử là những điều mà người Nghệ buộc phải lựa chọn trong bối cảnh xã hội khá khắc nghiệt của mình. Chính vì vậy, nhận xét về tính cách người Nghệ không hề dễ, và ta đã chứng kiến nhiều nhận xét trái chiều nhau. Đầu thế kỷ XIX, Bùi Dương Lịch viết: “Người Nghệ An khí chất chất phác, đôn hậu, tính tình từ tốn chậm chạp không sắc sảo, cho nên làm việc gì cũng cẩn thận, bền vững, ít khi bị xao động bởi những lợi hại trước mắt”.[6] Phó Toàn quyền Đông Dương những năm 30 của thế kỷ XX là Yves Charles Châtel thì viết rằng: người Nghệ là “những con người có khí phách, yêu văn học, hăng hái trong lao động và dũng cảm, nhẫn nại trên một vùng đất đầy cam go, thử thách. Sở dĩ những người dân ở đây có bản lĩnh đặc biệt như vậy, chắc chắn vì họ đã được tôi luyện qua một quá khứ lâu dài, và chỉ điều đó mới giải thích được cho người ta hiểu những đặc thù rất rõ rệt trong tính cách và tình cảm của họ”.[7]Tác giả Nghệ An phong thổ ký nhận xét con người Nghệ Tĩnh: "Can đảm đến sơ suất, cần cù đến liều lĩnh, cương quyết đến khô khan và tằn tiện đến… cá gỗ"[8]. Đặng Thai Mai cho rằng: người Nghệ “tuy không bộc lộ một cách ồn ào hời hợt, nhưng lại có phần suy nghĩ, điềm tĩnh, sâu sắc và bền bỉ, cảm động đến thiết tha"[9]. Người Nghệ nói chung bị cho là “gàn”, và Ngô Đức Thịnh cho rằng, cái gàn là “trạng thái tâm lý mà ở đó có sự khác biệt, xung đột giữa lý trí và hiện thực, bắt hiện thực phải chiều theo tư duy của lí trí, từ đó dẫn đến sự nhận thức và hành động có phần lệch chuẩn”.[10] Bởi có nhiều nhân tố hợp thành và tương tác với nhau trong nguồn gốc dân cư, tính cách người Nghệ mang nhiều nét phong phú và cả nhiều đối cực, do đó, khó có thể nhận xét một chiều. Vũ Ngọc Khánh (trong bài viết Tính cách người Nghệ) đã nhìn thấy trong mỗi người Nghệ có ba con người (một kẻ bình dân khố chạc, một con người chữ nghĩa văn chương, một chiến sĩ tiền phong cách mạng). Sự khái quát này có thể vẫn là chưa đầy đủ nhưng đã cho thấy sự không dễ dàng trong khái quát tính cách người Nghệ, và như vậy, lẩy một nét tính cách nào đó của người Nghệ để khái quát thành nét tính cách chính của dân Nghệ đều là khiên cưỡng.
Một đặc điểm nổi trội của người Nghệ là tính cộng đồng cao, thể hiện ra ngoài bằng sự gắn kết cộng đồng khá chặt chẽ. Xuất phát từ bối cảnh đặc thù của mảnh đất xứ Nghệ, con người nơi đây cần phải dựa vào cộng đồng mới sống được và phát triển được. Hơn nữa, để chống lại sự kỳ thị của trung tâm, để tạo thành sức mạnh chung, cộng đồng người Nghệ luôn có xu hướng liên kết, gắn bó, thân thiết thậm chí có trường hợp trở thành cục bộ. Sự co cụm của người Nghệ còn có một lí do khác mà chúng tôi sẽ nói ở phần sau, đó là do họ sử dụng một phương ngữ hết sức đặc biệt, một thứ phương ngữ đã biến người Nghệ thành một cộng đồng có bản sắc khác lạ, nó thể hiện nhiều điều về con người và văn hóa của họ; và nó đã đi vào dân ca ví, giặm để làm nên một thế giới nghệ thuật đầy bản sắc.
1.3. Phương ngữ Nghệ
Trong lịch sử nghiên cứu phương ngữ học ở Việt Nam, cho đến nay, đã có nhiều công trình được công bố, trong số đó, công trình Tiếng Việt trên các miền đất nước (phương ngữ học)[11] của giáo sư Hoàng Thị Châu là một công trình mang tính khái quát cao. Các trích dẫn về mặt lí thuyết của chúng tôi trong bài viết là dựa vào công trình này. Bên cạnh đó, các trích dẫn về mặt thống kê và phân tích định lượng yếu tố phương ngữ học trong dân ca Nghệ Tĩnh được chúng tôi tham khảo từ bài nghiên cứu Vai trò của phương ngôn trong dân ca hò, ví, giặm Xứ Nghệ của Phan Mậu Cảnh.[12]
Theo Hoàng Thị Châu, “phương ngữ là một thuật ngữ ngôn ngữ học để chỉ sự biểu hiện của một ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương cụ thể với những nét khác biệt của nó so với ngôn ngữ toàn dân hay với một phương ngữ khác” (sdd, tr.24). Theo đó, phương ngữ được đối chiếu với ngôn ngữ toàn dân (ngôn ngữ chung của toàn dân tộc), phân biệt với phương ngôn (là tục ngữ địa phương), đối sánh với thổ ngữ (là các biến thể của phương ngữ ở cấp độ xã, thôn) và với các phương ngữ khác. Là một hiện tượng lịch sử, phương ngữ ra đời và tồn tại cùng với các bộ lạc hoặc các công xã nông thôn, trong quá trình hình thành nhà nước, nó sẽ dần hợp nhất với ngôn ngữ toàn dân.[13]
Căn cứ vào các phương diện ngữ âm, từ vựng và thanh điệu, Hoàng Thị Châu đã chia tiếng Việt thành 3 phương ngữ: Bắc, Trung, Nam. Trong đó, phương ngữ Trung được cho là có 5 thanh điệu nghiêng về sử dụng thanh điệu trầm được cho là xuất hiện sớm trong lịch sử (trong 6 thanh: huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã, không, tùy từng vùng mà có những sắc thái riêng. Ví dụ, phương ngữ Thanh Hóa không phân biệt thanh hỏi và thanh ngã, phương ngữ vùng Nghệ Tĩnh dấu ngã biến thành dấu nặng). Tuy nhiên, trên thực tế, số thanh trong tiếng Nghệ ít hơn 5. Cụ thể: thanh bằng trong nhiều trường hợp nhập vào thanh không; thanh sắc nhập vào thanh hỏi, thanh ngã nhập vào thanh nặng, và trong những trường hợp này, chỉ còn lại 3 thanh: không, hỏi, nặng. Sự giảm thiểu thanh điệu này diễn ra phổ biến trong đời sống, và nó đã được ảnh xạ vào một câu hát ví nổi tiếng (chẳng hạn: Anh đển gian hoa thì hoa đạ nở). Biến thể của phương ngữ Nghệ Tĩnh và các biểu hiện sinh động của các thổ âm thuộc phương ngữ này được thể hiện trong dân ca ví giặm sẽ cho ta thấy một cách sống động hơn chất Nghệ được thể hiện một cách đậm đặc như thế nào trong bộ phận dân ca này.
Trong lý thuyết phương ngữ học, sử dụng phương pháp địa lý - ngôn ngữ học, các nhà nghiên cứu chỉ ra đồng ngữ tuyến (ranh giới chỉ phạm vi hoạt động về mặt địa lý của một phương ngữ) và vùng đồng ngữ (chỉ một phương ngữ được sử dụng trong một đồng ngữ tuyến) (Hoàng Thị Châu, sdd, tr.65). Như vậy, Nghệ ngữ là một “vùng đồng ngữ” mà “đồng ngữ tuyến” của nó về cơ bản là trùng với ranh giới 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Nguyễn Đổng Chi & Ninh Viết Giao cho biết một điều thú vị là ở những vùng tính phương ngữ xứ Nghệ nhạt đi (như Quỳnh Lưu, “giọng nói đã pha Bắc ít nhiều”) thì không có hát dặm[14]. Điều này cho thấy “vùng đồng ngữ” có sự liên quan chặt chẽ với “vùng dân ca ví dặm” mà ở đó, phương ngữ Nghệ đóng vai trò rất quan trọng như là nhân tố chủ đạo hay nhân tố tạo hệ thống của bộ phận dân ca này.[15]
Một vấn đề được các nhà nghiên cứu phương ngữ học chỉ ra là: trong thế giằng co giữa việc giữ lại tiếng nói của địa phương và mong muốn người các địa phương khác nói tiếng của mình, Hoàng Thị Châu chỉ ra một xu hướng là “nhu cầu pha tiếng cho hay” (Hoàng Thị Châu, tr. 52) để chỉ hiện tượng dùng từ và cách phát âm của ngôn ngữ toàn dân trong chừng mực có thể của các vùng có phương ngữ đặc biệt. Với người Nghệ, xu hướng này diễn ra theo một cách thức hoàn toàn khác. Cần nói ngay là, người Nghệ không ưa sự pha tiếng (“Chưởi cha không bằng pha tiếng”), dù điều đó được thực hiện bởi người ngoài hay bởi chính những người trong cộng đồng. Cách pha tiếng thường thấy của người Nghệ là nói hai loại phương ngữ: phương ngữ Bắc (hoặc Nam) khi giao tiếp ở các môi trường đó, và phương ngữ Nghệ khi giao tiếp trong cộng đồng mình. Nhiều người Bắc hoặc Nam đã vô cùng kinh ngạc trước sự tồn tại 2 giọng trong cùng một người Nghệ mà họ chưa hiểu thấu rằng, đó là cách người Nghệ vừa có thể hòa nhập vừa có thể giữ lại bản sắc ngôn ngữ của cộng đồng mình. Các nghiên cứu chỉ ra hiện tượng “bán phương ngữ” ở thành phố Vinh, cho rằng, do giao lưu nên thanh niên ở Vinh đã dùng phương ngữ Bắc đủ 6 thanh điệu; tuy nhiên, nghiên cưa này không nhận thấy một thực tế là, việc dùng phương ngữ Bắc không thay thế cho tiếng Nghệ, giọng Nghệ trong khi tiếng Nghệ được sử dụng tại thành phố Vinh (trong các diễn đàn chính thức và trong đời sống) vẫn giữ nguyên tính ít thanh điệu của mình. Đó cũng là một nét bảo thủ của người Nghệ mà ta sẽ thấy trong/và bằng dân ca ví, giặm.
Một vấn đề nữa mà lí thuyết phương ngữ học đặt ra có liên quan đến Nghệ ngữ và việc sử dụng Nghệ ngữ trong ví, giặm là: Tại sao có những vùng có nhiều thổ ngữ (là những biến thể địa phương của các phương ngữ), có vùng lại hầu như không có thổ ngữ? Câu trả lời của các nhà ngôn ngữ là: “Nơi nào là cái nôi của dân Việt Nam, nơi ấy có nhiều thổ ngữ, nơi nào là vùng mới khai phá, nơi ấy vắng mặt thổ ngữ”. (Hoàng Thị Châu, sdd, tr.220). Kết luận này của các nhà phương ngữ học trùng với kết luận của các nhà khảo cổ học và sử học khi nhận thấy vùng đồng bằng sông Hồng, vùng đồng bằng sông Mã và vùng đồng bằng ven biển Nghệ Tĩnh là những nơi có nền văn minh sớm cũng là những nơi có nhiều thổ ngữ nhất. Chất cổ của nền văn hóa và tính cổ của bản ngữ nơi các vùng đất này càng làm ta hiểu hơn tại sao chất Nghệ thể hiện qua giọng nói lại khó phôi pha đến vậy, cho dù họ là những người sống ở quê cha đất tổ hay những người ly hương. Bởi với người Nghệ, giọng nói là dấu chỉ để nhận diện một thành viên thuộc về cộng đồng, và với tâm thế của những người bám rễ chặt vào công xã nông thôn, người Nghệ cũng như mọi người Việt Nam chỉ thực sự cảm thấy an lòng khi được công nhận/được sống trong cộng đồng công xã của mình. Khi hát lên/hoặc nghe những làn điệu ví giặm đầy ắp tiếng nói quê hương, người Nghệ như cảm nhận được hồn quê lai láng trong đó, và được cùng nhau hòa vào một môi sinh tinh thần đầy dưỡng chất để nuôi sống tâm hồn họ.
2) Bản sắc Nghệ của hát ví, giặm
Ở trên, tôi đã có sự khảo sát sơ bộ về đặc tính con người xứ Nghệ và vai trò của phương ngữ Nghệ trong việc thể hiện bản sắc người Nghệ. Trong phần viết này, tôi sẽ từ hai góc độ đó để tìm hiểu dân ca ví, giặm vừa với tư cách là đối tượng để người Nghệ sáng tạo và thể hiện, vừa với tư cách là một chủ thể phản ánh và sáng tạo nên thế giới văn hóa Nghệ thông qua con người và tiếng nói của họ.
a) Phương ngữ Nghệ Tĩnh và dân ca ví, giặm
Như trên đã nói, phương ngữ của một vùng được nhận diện qua 3 yếu tố: từ vựng, thanh điệu và ngữ điệu. Ở Việt Nam, hiếm có loại dân ca nào mà 3 yếu tố này lại hiện diện một cách đậm đặc như ở trong ví, giặm.
- Từ vựng. Sẽ hoàn toàn không còn là dân ca Nghệ Tĩnh khi các từ địa phương được thay bằng từ toàn dân. Rất dễ dàng tìm các ví dụ thể hiện điều này. Trong công trình Hát ví Nghệ Tĩnh, Nguyễn Chung Anh đã cung cấp cho chúng ta những câu hát ví mà khi cất lên chắc chắn là làn điệu thiết tha, xúc cảm tinh tế nhưng tiếng địa phương lại hết sức đậm đặc:
Gọi rằng tình nghĩa khi mô đến giừ.
-
Trùcó đây thuốc cũng có đây,
Nhân duyên chưa định miếng trù này chưa trao.
-
Nghiêng tai nói nhỏ bạn nì,
Về vun trồng chốn cộ, chớ bỏ đi mà bạc tình.[16]
Trong ví dụ vừa dẫn, tất cả các câu đều có tiếng địa phương, tuy nhiên, ở một phạm vi thống kê rộng hơn, Phan Mậu Cảnh cho biết, chỉ có 20% bài ví sử dụng từ địa phương, còn tần số này ở các bài giặm là 100%. Như thế có thể thấy mật độ từ vựng tiếng Nghệ trong các bài hát giặm còn dày đặc hơn nữa. Bên cạnh các từ vựng có nghĩa bị phát âm trại đi (trù, roọng, nác, tru, cộ…), các từ địa phương thường dùng như mô, tê, răng, rứa, chơ, nỏ…còn được sử dụng với tần suất cao hơn; bên cạnh đó, các hô ngữ mang khẩu ngữ cao cũng được sử dụng khá phổ biến (ơ là bạn tình ơi…) trong hát ví.
- Thanh điệu. Một phương ngữ thường được nhận diện ở ngữ điệu và thanh điệu. Như đã nói ở trên, nằm trong phương ngữ Trung Bộ, tiếng Nghệ được coi là có 5 thanh, tuy nhiên, trên thực tế, người Nghệ đã nhập các thanh, pha trộn các thanh theo những cách thức linh hoạt đặc biệt khiến trong tiếng Nghệ có khi chỉ có 3 thanh hay 3 thanh rưỡi. Trong hát ví, dặm, sự pha trộn các thanh được thể hiện rõ rệt hơn cả. Hãy lấy ví dụ một bài hát ví quen thuộc:
A ới(thực ra là “à ơi” nhưng sự luyến láy khiến âm bị biến dạng),
Hoa đển thi thi hoa phại nợ
Đo đây ngươi thi đo phại sang sông.
Đển duyên em thi em phại lẩy chông
Em yêu anh như rửa họi cỏ mẳn nông la tuy anh.
Ở đây, ta có thể thấy sự biến thanh rất khó bắt chước: hỏi -> nặng (phải -> phại; nở -> nợ); sắc -> hỏi (đến -> đển, lấy -> lậy), huyền -> không (đò -> đo, chồng ->chông). Vậy thì 4 thanh (sắc, nặng, hỏi, không) trong phát âm của người Nghệ trong bài dân ca này chỉ còn 3 (nặng, hỏi, không), và thanh hỏi thì biến thành thanh nặng, thanh sắc biến thành thanh hỏi. Chỉ người Nghệ mới thẩm được sự biến thanh một cách phức tạp theo cách của riêng mình, không xử lí được các sự biến thanh này, không thể hát hay dân ca Nghệ Tĩnh được. Do đó, gần như chỉ có người Nghệ mới hát đúng và hát hay dân ca Nghệ Tĩnh, người ở vùng khác, dù là nghệ sĩ lớn cũng khó mà hát đúng và hát hay theo các thang âm biến đổi phức tạp này. Nghiên cứu về hát dặm, Nguyễn Đổng Chi cũng đã nhận xét: “Giọng nói đã nặng và dài thì giọng hát cũng vậy. Cái hay của điệu hát dặm là ở chỗ giọng hát thô và quê cùng chỗ có một số thổ âm đệm vào bài. Bởi thế nên những người không nhại được giọng ấy quen thì khó lòng mà hát theo cho giống được”.
Về sự đặc biệt của giọng nói người Nghệ, nhiều nhà nghiên cứu đã thử lí giải nguyên nhân. Vào đầu thế kỷ XIX, Bùi Dương Lịch nhận xét: “Thổ âm người Nghệ An đục và nặng (trọc) nhưng đều có thể bắt chước tiếng khác được vì rằng, nặng thuộc âm cung, mà âm cung thì thuộc hành thổ, hành thổ thì không phải chính ngôi (ngôi cố định) và không thành tính (tính cố định) đều có thể nhờ ở 4 hành khác mà vượng lên cho nên hiện ra âm thanh cũng thế”.[17] Cách lí giải này bị Nguyễn Đổng Chi cho là thiếu thuyết phục và nêu ra một cách lí giải khác: “Xét từ khi lập quốc đến nay, bản đồ Việt Nam bao giờ cũng có miền Nghệ Tịnh dính vào, vậy mà giọng nói của dân miền ấy vẫn khác với giọng người Bắc, lại cũng khác luôn với giọng người Đàng Trong. Bùi Dương Lịch, nhà Nho ở thế kỷ trước, đã dựa vào âm dương ngũ hành mà giải đoán, nhưng những ý kiến ấy đối với ngày nay không khỏi thành ra cổ hủ. Theo âm vận học thì do những điều kiện địa lý, sinh lý. Tiếng Việt Nam bắt đầu đến đây bị ảnh hưởng cách phát âm của các thổ dân là dân có hầu khẩu hở nên âm thanh biến đổi ra cứng và nặng - hay trọ trẹ, như người xứ Bắc thường chê”.[18]
Tôi cho rằng, cần nhìn nhận “tính riêng biệt” của tiếng Nghệ trong dân ca ví, giặm ở các nguyên nhân về lịch sử và tính cách người Nghệ. Như đã nói ở trên, phương ngữ là một hiện tượng mang tính lịch sử, tuy nhiên, ta đã thấy trong đời sống, người Nghệ không chấp nhận pha tiếng, và trong dân ca ví, giặm, phương ngữ Nghệ được sử dụng nguyên trạng, chẳng những không thay đổi theo hướng ngôn ngữ toàn dân mà còn được thể hiện một cách đậm đặc với hàm nghĩa nhấn mạnh cá tính của mình. Ở góc độ tiếng nói, người Nghệ có vẻ như đứng bên ngoài quá trình hòa nhập, họ kiêu hãnh và bảo thủ trong việc nâng niu và gìn giữ tính đậm đặc của phương ngữ trong kho tàng dân nhạc của mình, kể cả trong các nhạc phẩm tân nhạc có sử dụng yếu tố dân ca, như là một cách thức để giữ gìn bản sắc. Tôi cho rằng, chất “gàn” của người Nghệ là ở đây. Họ cố tình giữ lại tiếng nói thô mộc, bởi nó thể hiện trong đó sự cực nhọc của việc chống chọi với thiên nhiên hoang dã và cuộc sống khó khăn, nó thể hiện sự cứng cỏi của nghị lực, vừa bản lĩnh vừa bảo thủ một cách gàn dở. Tiếng Nghệ vì thế, chính là người Nghệ. Nó là chất kết dính những người Nghệ xa xứ, họ có thể “bắt sóng” để nhận ra nhau và thân thiết với nhau nhanh chóng. Đó là lí do khiến cho ví, giặm, nơi sử dụng một cách hồn nhiên và đậm đặc tiếng Nghệ, là sức hút nam châm đối với mỗi người Nghệ, càng xa quê càng trở nên mãnh liệt.
2.2. Những chiều cạnh trong tính cách và đời sống cảm xúc người Nghệ thể hiện trong hát ví, giặm
Văn học nghệ thuật là nơi thể hiện sự thăng hoa cảm xúc, nơi con người tự vẽ chân dung mình bằng những nét thanh tao nhất với ít nhiều hư cấu. Tuy nhiên, dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh lại không tuân theo quy luật này. Người nghe/người đọc khó tìm thấy một diện mạo hoàn hảo với những nét vẽ nuột nà về người hát trong các bài dân ca; mà ngược lại, có thể thấy ở đây những con người thực như cuộc đời với nhiều đối cực, trong đó, bên cạnh sự sâu sắc và đằm thắm, tinh tế và lãng mạn là sự mộc mạc đôi khi đến mức thô thiển mà nhân vật trữ tình hình như không muốn giấu đi.
Ấn tượng đầu tiên và hết sức mạnh mẽ mà dân ca ví, giặm mang lại là sự sâu sắc trong tâm hồn người tham gia sáng tác và diễn xướng ví, giặm. Chỉ nhắc hai bài ví quen thuộc Anh đến giàn hoa và Thà trước em nói không thương anh thì thôi với lối hát “chồng đấu” từ hai câu ca dao chính, với giai điệu ngọt ngào mà da diết, lời tâm tình mộc mạc mà sâu nặng khiến người hát và người nghe luôn cảm nhận một sự rung động sâu xa về tình yêu đôi lứa. Mỗi bài hát ví, hát giặm về tình yêu là một câu chuyện tình mà người hát gửi lòng mình vào đó, người nghe như đang được trải nghiệm cảm xúc yêu đương và độ thiết tha sâu sắc của tình cảm được dồn nén trong bài dân ca khiến người hát/người nghe nghĩ sâu hơn về chính con người mình.
Ấn tượng thứ hai là sự kết hợp chất dân gian và chất bác học trong lời ca, có nghĩa là chính trong tâm hồn của những người tham gia diễn xướng: người hát/người sáng tác/người nghe. Theo thống kê của Nguyễn Phương Châm, trong 1771 lời trong cuốn Hát phường vải (Ninh Viết Giao, 1993) có 177 lời sử dụng các tích cổ trong văn chương bác học.[19] Trong các bài hát ví, hát giặm, tình trạng này khá phổ biến. Có điều này một phần vì các cuộc hát ví, giặm có sự tham gia của các nhà nho bình dân và các bậc đại nho như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Phan Bội Châu; phần khác là vì trong con người Nghệ có nhiều con người cùng tồn tại mà Vũ Ngọc Khánh đã chỉ ra (có con người khố chạc, có con người văn chương chữ nghĩa). Nghệ Tĩnh được coi là đất học, số lượng sĩ tử đông, số người đỗ đạt cũng nhiều; và có thể thấy rằng, trong mỗi người Nghệ, tâm lý học để vượt thoát khỏi cuộc sống lam lũ luôn đan xen với học để nâng mình lên tầng lớp “có chữ”, không biết nét tâm lý nào đậm hơn. Chính vì vậy, việc đưa yếu tố bác học vào lối hát bình dân, dùng chữ nghĩa để làm sang cho một hoạt động diễn xướng dân gian chắc chắn phải bắt nguồn từ việc mê học và trọng chữ nghĩa của người Nghệ có từ thủa xa xưa (cho đến nay, niềm đam mê học hành vẫn mãnh liệt trong con người xứ Nghệ). Và một điều thú vị là diễn xướng dân ca xứ Nghệ đã bình dân hóa các yếu tố chữ nghĩa, khiến cho sự xuất hiện của nó không cản trở mà ngược lại làm thêm duyên cho câu hát dân ca. Ở chỗ này, tôi thực sự không đồng tình với nhận xét của Lê Văn Hảo khi cho rằng, “sự tham dự của nhà Nho đã phức tạp hóa hát ví, nhất là ví phường vải, làm cho nó trở nên ít nhiều nặng nề, khúc khuỷu, làm mất bớt tính chất nhân dân của nó”.[20]
Có thể thấy một biểu hiện của đối cực khác của phong thái người Nghệ trong nhịp điệu của hai lối hát ví và hát giặm. Các nhà nghiên cứu đã nhìn thấy nhịp điệu dồn dập và nặng nhọc của cuộc sống người Nghệ Tĩnh được thể hiện qua hát giặm. Thái Kim Đỉnh viết: “Hát giặm, với thể văn ngắn, nôm na, mộc mạc, dùng nhiều thổ ngữ, với nhịp điệu dồn dập, gấp gáp, và giọng hát như dằn xuống, chắc nịch, nghe trầm buồn, phải là sản phẩm của một vùng đất xa nơi đô hội, ít giao lưu, không có thuyền lớn sông dài, mà là đồng chua nước mặn, cuộc sống con người còn vất vả, nhọc nhằn”.[21] Lê văn Hảo cũng có cảm nhận tương tự về lối hát giặm: “Không nghe quen tai ta sẽ không hiểu nổi giọng hát giặm; có lẽ nó là lối dân ca làm cho người hát mệt nhọc nhất, bởi thế phong dao Nghệ Tĩnh đã có câu: Dại nhất là thổi tù và, Thứ hai hát giặm, thứ ba thả diều”.[22]
Bên cạnh đó, hát ví được thể hiện trong nhiều môi trường, với giai điệu ngọt ngào và sâu lắng, cách nói lịch sự và đầy chữ nghĩa, cách thể hiện thiết tha và trân trọng đã thể hiện phong cách thanh tao và sang trọng của người Nghệ. Nguyễn Đổng Chi chi rằng, hát giặm là lối hát cổ và trong quá trình phát triển thì dần dần, hát giặm mất đi, chỉ còn lại hát ví. Như thế nghĩa là hát ví thể hiện trình độ nghệ thuật cao của lối diễn xướng dân ca, trong đó, tính thực tiễn thô giản của đời thường bị giảm thiểu và độ trau chuốt nghệ thuật đã được nâng lên. Chính ở điểm này, Nguyễn Chung Anh đã viết: “Hát ví Nghệ Tĩnh có cái giọng chắc nịch, nghe réo rắt như tiếng thác đổ, thiết tha như có một sức nặng của tình cảm trên cao dội xuống”[23].
Bên cạnh những biểu hiện thể hiện sự tinh tế của cảm xúc trong ví, giặm, một đối cực khác khá dễ nhận thấy là sự mộc mạc đến thô giản trong cách diễn đạt của dân ca ví, giặm. Cùng trách con gà gáy sớm để đôi lứa phải chia lìa trong cuộc hát đang độ say, ca dao/dân ca Bắc Bộ là:
-
Trách gà sao vội gáy tan, Chung tình chưa mãn chuông vàng vội rung
-
Ta tức con gà ta giận con gà, Đôi ta đang than thở nó đà gáy lên.
Còn dân ca ví, giặm thì nói:
Đến giờ chỉ giận con gà chết toi.
Tím gan cho cái sao mai,
Thảo nào vác búa chém trời cũng nên…
Bên cạnh sự thô giản, trong dân ca ví, giặm, ta còn có thể thấy nhiều yếu tố tục (Tui đây chẳng phải trai hư, Tui đan cũng tài, tát cũng đặng lại lận dừ cho coi. Lận thì chận cột hẳn hoi, Ở trên tui ấn xuống, ở ngoài tui dùi vô. Nói ra sợ mất lòng o, Ngó trong lòng mủng, lộ mô tui cũng dùi.), nhiều sự chanh chua, nhiều cách ăn nói bốp chát như đào đất đổ đi (câu chuyện đối đáp giữa Di Tương và Sĩ Đường - một cặp hát ăn ý với nhau ở Thạch Hà. Chỉ vì bực bội với người bạn hát của mình trong câu hỏi có chút ỡm ờ, trách móc mà cô gái đã dùng lối chơi chữ để đốp chát ngầm ý đạp vào mặt bạn hát của mình).[24] Trong hát đối đáp, các bên thử tài, tranh tài biết bao là say sưa, ý nhị; nhưng có khi chỉ vì một chút không ưng ý, một thế bí là có thể “tung” ra một câu lý sự cùn, có khi văng ra câu chửi. Tình huống này cho thấy không phải chỉ là sự nóng nảy của người hát, mà thực chất đó chính là sự hạn chế trong văn hóa giao tiếp thể hiện những rào cản cố hữu mà người Nghệ cần rũ bỏ nó trên con đường của hòa nhập.
Đến đây, có thể thấy một hình dung khái lược về chân dung con người xứ Nghệ được thể hiện qua dân ca ví, giặm. Đó chắc chắn không phải chỉ là những nét vẽ nên thơ về những nghệ sĩ chốn dân gian mà là những nét khắc họa trung thực, thông qua đó, sự tinh tế và trau chuốt và sự xù xì, thô ráp của con người Nghệ với những đối cực trong tâm tính và cảm xúc đã hiển hiện thật rõ nét. Chất Nghệ của dân ca ví, giặm vì thế mà càng đậm đà hơn, và càng gắn bó với người Nghệ hơn. Bản tính của người Nghệ là không ưa tô vẽ, bằng sự mộc mạc họ nhận chân bản thân mình, bằng sự cứng cỏi họ khẳng định bản lĩnh của mình, bằng sự kiêu hãnh họ thể hiện lòng tự tôn, và bằng sự bảo thủ họ sống trong một thế giới đầy bản sắc nhưng cũng không ít giới hạn của chính mình. Ví, giặm trở thành những thông điệp để người Nghệ tạo lập những liên kết và sẻ chia trong cộng đồng, để giới thiệu mình với thế giới bên ngoài và cũng từ sự nhận chân đó để phá bỏ dần các giới hạn để hòa nhập vào không gian chung của đất nước và thế giới.
3) Ví, giặm trong cuộc sống hôm nay
Các nghiên cứu thực địa đều chỉ ra sự đứt đoạn của diễn xướng ví, giặm trong một thời gian dài. Tuy nhiên, thực tế cuộc sống lại chỉ ra rằng, sự đứt đoạn diễn xướng không làm đứt đi mối dây ràng buộc tâm hồn người Nghệ với dân ca ví, giặm ở mọi thời điểm, ở mọi không gian.
Cũng như một số loại hình dân ca các vùng miền khác (như quan họ, xoan), sau năm 1945, các hoạt động diễn xướng dân gian dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh không được tiếp tục như trước. Dù vậy, trong các xóm làng, các nghệ nhân vẫn hát, các bài dân ca vẫn được truyền lại cho con cháu. Ở Thanh Chương quê tôi, vào những năm của thập kỷ 70 của thế kỷ trước, tôi vẫn được nghe một vài cuộc hò đối đáp của các anh chị thanh niên trong làng. Đến thập kỷ 80 thì diễn xướng đối đáp dân gian này mất hẳn. Tuy nhiên, trong lòng người Nghệ Tĩnh vẫn luôn có chỗ cho các bài dân ca. Bởi vậy, thay cho diễn xướng dân gian, hoạt động sưu tầm và biểu diễn của các đoàn dân ca, việc cải biên lời cũ và sáng tác lời mới của các nhạc sĩ, các hoạt động sưu tầm của các nhà nghiên cứu, các hoạt động truyền dạy của các nghệ nhân trên sóng truyền hình và trong các trường học, các phong trào thi đua học hát dân ca trong trường học và trong các địa phương trên địa bản tỉnh…đã thực sự làm sống lại kho tàng dân ca ví, giặm trong cuộc sống mới. Đặc biệt, hình thức kịch hát dân ca với việc sân khấu hóa hình thức diễn xướng dân gian truyền thống đã làm tốt việc nuôi sống diễn xướng dân gian trong một hình thức mới, bằng các phương tiện nghe nhìn đã giới thiệu một cách rộng rãi vốn cổ tới nhân dân để rồi kho tàng dân ca ví, giặm được hồi sinh trong cuộc sống người dân với một sức sống mới. Hoạt động của hơn 50 câu lạc bộ dân ca trên địa bàn hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh hiện nay là kết quả của những nỗ lực tổng hợp của các nghệ sĩ chuyên nghiệp và nghệ nhân dân gian xuất phát từ một chủ trương đúng đắn của hai tỉnh về việc bảo tồn, khôi phục và phát huy vốn cổ trong đời sống đương đại.
Bên cạnh đó, việc sáng tác các ca khúc sử dụng chất liệu dân ca ví, giặm cũng là một cách thức thể hiện việc khơi nguồn và tiếp nối sức sống của dân ca cổ truyền trong bối cảnh mới. Trong các ca khúc này, phương ngữ Nghệ được sử dụng một cách tinh tế và uyển chuyển với trình độ nghệ thuật cao khiến cho chỉ cần lời ca được cất lên là người nghe được đắm chìm vào không gian văn hóa đặc sắc của xứ Nghệ. Vẫn là việc sử dụng tiếng địa phương (mô, rứa, ngái), sự pha trộn của các thanh điệu và việc thể hiện ngữ điệu đặc trưng giọng Nghệ, các bài hát về Nghệ Tĩnh tiếp nối mạch nguồn của dân ca ví, giặm đã chuyển tải hồn quê qua các ca khúc tới người nghe mà sóng thanh âm có sức lay động mãnh liệt tới các tâm hồn người xứ Nghệ. Có thể nói, không một người Nghệ Tĩnh nào không thuộc ít nhất một ca khúc về quê hương mình. Bên cạnh việc “ngôn ngữ là một tập quán mà người ta mang theo mình và không thay đổi dễ dàng được” (Hoàng Thị Châu, tr. 223), âm nhạc của một vùng đất (dân ca, nhạc đương đại) có giá trị kết nối cao với một sức mạnh không thể ngờ tới, nó tạo nên một không gian văn hóa xuyên thời gian và xuyên không gian, đưa những người xa lại gần nhau trong một tinh thần tôn vinh bản sắc.
Bối cảnh mới đang đặt ra vấn đề bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống trong những điều kiện kinh tế, xã hội mới. Từ những mạch nguồn truyền thống và từ sự kết nối sâu xa của con người xứ Nghệ với không gian văn hóa của mình, từ tính bản sắc đậm đà trong thế giới tinh thần của người Nghệ, từ việc trao truyền gen văn hóa của người Nghệ tới các thế hệ con cháu, việc bảo tồn gần nhất với nguyên trạng là yêu cầu cấp thiết được đặt ra. Bởi bảo tồn là để giữ gìn bản sắc văn hóa cho đất nước nhưng phải thực hiện sự bảo tồn và phát huy đó thông qua những con người cụ thể. Như vậy, việc bảo tồn này phải vì đất nước nói chung, vì xứ Nghệ và con người Nghệ nói riêng.
KẾT LUẬN:
Trong lời Tựa sách An Tĩnh cổ lục, Phó toàn quyền Đông Dương Yves Charles Châtelviết: “Nghệ Tĩnh là một trong những miền đất của xứ Đông Dương có những bản sắc và đặc điểm rõ rệt hơn đâu hết”. “Tính bản sắc” và “đặc điểm rõ rệt” này có thể cảm nhận một cách dễ dàng nhất qua biểu tượng chưng cất của văn hóa xứ Nghệ là dân ca ví, giặm bởi những lẽ sau đây:
Ví giặm là hồn quê của một vùng đất có nhiều cơ duyên trong lịch sử để mang những nét đặc trưng riêng của địa lý-lịch sử-văn hóa.
Ví giặm chính là người Nghệ, nó chứa đựng trong mình những đối cực: hào hoa và sâu nặng, thô giản mà tinh tế, trên một cái nền tự hào một cách bảo thủ những nét riêng của mình.
Ví giặm là một kho tàng diễn xướng-dân ca có giá trị âm nhạc cao, là sản phẩm của những không gian diễn xướng đặc thù của một vùng quê có tính kết nối và lan tỏa nội vùng mạnh mẽ khiến cho nó có sức sống bền bỉ vượt thời gian; và đang từ xu hướng hướng tâm một cách khả bảo thủ để lan tỏa ra các cộng đồng khác trong nền văn hóa Việt Nam cũng như các nền văn hóa khác trên thế giới. Trải biết bao dâu bể, ví, giặm đã, đang và sẽ sống một đời sống mạnh mẽ trong tâm hồn người Nghệ, trong không gian rộng lớn toàn cầu nơi những người Nghệ đang sống, và như vậy, nó mang sức sống Việt Nam tỏa rạng muôn nơi.
*** Cũng như người của biết bao miền quê khác, tôi yêu quê hương tôi bằng một một tình yêu không thể lí giải được. Trong đó, tiếng Nghệ như là một biểu tượng của tất cả sự gian khổ, nhọc nhằn, của dịu ngọt và đằm thắm, của bình yên và giông bão… gắn kết người Nghệ thành một cộng đồng đầy thân thương; và ví, giặm như một thứ quốc hồn của quê hương mà tôi tin, tất cả mọi người Nghệ đều từ đó để “lớn nổi thành người”.
Trong bối cảnh tôn trọng tính đa dạng văn hóa, việc công nhận danh hiệu cho dân ca Nghệ Tĩnh là điều dường như không cần bàn cãi, bởi như núi Hồng sông Lam, dân ca Nghệ Tĩnh sẽ mãi còn, như những mạch nguồn lặng thầm tuôn chảy trong các mảnh đời, trong tình người, trong máu của mỗi người Nghệ, mỗi người Việt Nam chúng ta./.
......................................
[1]Về mặt phong thổ, xứ Nghệ "xưa nay vẫn để lại trong tâm não của nhiều người ấn tượng một khu vực không hề được tạo vật cưu đương. Mấy mảnh đồng bằng hẹp như bị thắt riết vào bao nhiêu thung lũng, giữa những dãy núi chập chùng. Đất đai phần lớn chả có bao nhiêu màu mỡ. Nhiều nơi chỉ là đồng chua nước mặn. Cảnh vật quanh năm, nếu không nói là cằn cỗi, thì cũng không có gì là thi vị. Một mùa xuân nghèo màu sắc, hiếm thanh âm. Hè đến là nắng với gió. Những đợt "nam cào" làm cho nứt đất nẻ đồng, cạn cả khe suối, khô róc cả giếng, ao, đầm hồ. Bụi tỏa mù trời, đầu cả đường, lùa vào tận nhà ở, phủ lên cả đồ đạc. Gió vồ vập làng mạc, gió rung chuyển cả núi rừng. Nắng với gió là hai nguyên tố ngự trị. Tiếp theo đó là mùa thu với mưa với lụt. Rồi đến mùa đông ủ dột, lạnh lẽo, tiêu điều" (Đặng Thai Mai, Văn thơ Phan Bội Châu, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1960 (in lần thứ 2), tr. 34-35)
[2]Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa Việt Nam, Nxb. Trẻ, tr.64
[3]Bùi Dương Lịch viết: “Núi Nam Giới trên bờ biển xã Dương Luật, huyện Thạch Hà. Ngày trước, phía Nam nước ta giáp giới nước Chiêm Thành, nên đặt tên là núi Nam Giới”. (Nghệ An ký, Nguyễn Thị Thảo dịch và chú, Nxb. KHXH, H., 1993, tr.155).
[4]An Tĩnh cổ lục, Bản dịch của Nguyễn Đình Khang và Nguyễn Văn Phú; phần hiệu đính của Chương Thâu và Phan Trọng Báu, Nxb. Nghệ An và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2005, tr. 20
[5]Nguyễn Đổng Chi, Hát giặm Nghệ Tĩnh, Tập I, tr.23
[6]Bùi Dương Lịch, Nghệ An ký, Nguyễn Thị Thảo dịch, Bạch Hào hiệu đính, Nxb. KHXH., H., 1993, tr.211
[7]Lời Tựa cuốn An Tĩnh cổ lục, Sdd., tr.10
[8]Dẫn theo Lê Văn Hảo (1963), Vài nét về sinh hoạt của hát giặm và hát ví - dân ca Nghệ Tĩnh, Tạp chí Đại học
[9] Đặng Thai Mai, Văn thơ Phan Bội Châu, sđd, tr. 40
[10]Ngô Đức Thịnh, Văn hóa vùng & phân vùng văn hóa Việt Nam, Bản tái bản năm 2004, Nxb. Trẻ, TpHCM, tr.189
[11]Hoàng Thị Châu (1989), Nxb. KHXH., H.
[12]Phan Mậu Cảnh (2010), Vai trò của phương ngôn trong dân ca hò, ví, giặm Xứ Nghệ, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Bảo tồn và phát huy các giá trị hò, ví, giặm xứ Nghệ, Tp Vinh, 2011
[13]Karl Marx đã nói rằng: “Thổ ngữ là sản phẩm của công xã, cũng như nếu xét theo một quan điểm đó, nó là bản thân sự tồn tại của công xã: là công xã tự biểu hiện” (dẫn theo Hoàng Thị Châu, tr. 230).
[14]Nguyễn Đổng Chi & Ninh Viết Giao (1962), Hát giặm Nghệ Tĩnh, Tập 1
[15]Theo thống kê của Phan Mậu Cảnh, có 20% số bài hát ví sử dụng tiếng Nghệ, và 100% bài hát dặm sử dụng tiếng Nghệ.
[16]Nguyễn Chung Anh (1958), Hát ví Nghệ Tĩnh, Nxb. Văn Sử Địa, tr.40
[17]Bùi Dương Lịch, sdd, tr. 214
[18]Nguyễn Đổng Chi, Hát giặm Nghệ Tĩnh, sdd
[19]Nguyễn Phương Châm (1998), Tính chất bác học trng ca dao xứ Nghệ, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3.
[20]Lê Văn Hảo (1963), Vài nét về sinh hoạt của hát giặm và hát ví - dân ca Nghệ Tĩnh, Đại học, số 34
[21]Thái Kim Đỉnh (1995), Tản mạn về hát giặm, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, H., 1995
[22]Lê Văn Hảo (1963), bdd
[23]Nguyễn Chung Anh (1958), sdd, tr.42
[24]Hỏi (Sĩ Đường): Một là tương lạt muối, Hai là tương xấu đỗ nành, Ba là Tương vắn (ngắn) múi khăn xanh, Đường đại lộ thông hành, Không chộ Tương lai vãng, Nỏ chộ nàng lai vãng.
Đáp (Di Tương): Tương không hề lạt muối, Tương không xấu đỗ nành, Tương cũng không vắn múi khăn xanh, Đường đại lộ thông hành, Tương đi ngày ba bận, Tương đạp giữa mặt đường ba bận.