Thế kỷ 13-14, đời Trần có Đinh Củng Viên (?-1294) là người đi sứ có thơ truyền lại sớm nhất (một bài). Phạm Sư Mạnh (thế kỉ 14) làm những bài thơ, như: Quá Tiêu Tương và Ô Giang Hạng Vũ miếu v.v... trong chuyến đi sứ Trung Quốc năm 1345. Mạc Đĩnh Chi (1280-1346) từng được người nhà Nguyên khen về tài ngoại giao và tài thơ văn trong chuyến đi sứ nhà Nguyên năm 1308 và lưu lại một bài thơ: Quá Bành Trạch phỏng Đào Tiềm cựu cư. Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) từng viết một tập thơ đi sứ: Bắc hành tạp lục trong chuyến đi sứ nhà Nguyên năm 1314. Phạm Mại (?-?) có bài thơ Bắc sứ ngẫu thành; Nguyễn Cố Phu (?-?) có bài: Bắc sứ ứng tỉnh đường mệnh tịch thượng phú thi khi đi sứ nhà Nguyên năm 1335.
Thế kỷ 15 đến đầu thế kỷ 19, thơ đi sứ chữ Hán Việt Nam phát triển rất mạnh. Nhiều sứ thần Việt Nam đều có các tập thơ đi sứ. Có thể kể ra như: Vũ Cận (1527-?): Tinh thiều kỷ hành (1581); Đào Nghiễm: Nghĩa Xuyên quan quang tập; Phùng Khắc Khoan (1528-1613): Mai Linh sứ hoa thi tập (1597); Đào Công Chính (1623-? ): Bắc sứ thi tập; Nguyễn Quý Đức (1648 -1720) và Nguyễn Đình Sách (1638-1697): Hoa trình thi tập (1690); Đặng Đình Tướng (1649-1735): Chúc Ông phụng sứ tập; Nguyễn Đăng Đạo (1651-1719): Nguyễn Trạng nguyên phụng sứ tập (1697); Lê Anh Tuấn (1671-1763) và Nguyễn Công Cơ: Sứ hoa tập (1715); Đinh Nho Hoàn (1671-1715): Mặc Ông sứ tập (1715); Nguyễn Công Hãng (1680-1732 ): Tinh sà thi tập (1718); Phạm Khiêm Ích (1679-1741): Kinh Trai sứ tập; Ngô Đình Thạc: Hoàng hoa nhã vịnh; Lê Hữu Kiều (1691-1760): Bắc sứ hiệu tần thi (1737); Nguyễn Kiều (1694-1751) và Nguyễn Tông Quai (1693-1767): Sứ hoa tùng vịnh (Sứ hoa thi tập) (1741-1742); Trịnh Xuân Chú (1704-1763): Sứ Hoa học bộ thi tập; Lê Quý Đôn (1726-1784): Tiêu Tương bách vịnh (1760-1762) còn gọi là Liên châu thi tập, nay đã mất); Nguyễn Huy Oánh (1713-1789): Phụng sứ Yên Kinh tổng ca tịnh nhật ký (1765-1766); Đoàn Nguyễn Thục (1718-1775): Đoàn Hoàng giáp phụng sứ tập (1771); Hồ Sĩ Đống (1738-?): Hoa trình khiển hứng tập (Dao Đình sứ tập) (1777); Phan Huy Ích (1751-1822): Tinh sà kỷ hành (1790); Ngô Thì Nhiệm (1746-1803): Yên đài thu vịnh (Hoa trình thi phú sao) (1793); Vũ Huy Tấn (1749-1800): Hoa nguyên tuỳ bộ tập; Nguyễn Đề (1761-1805): Hoa trình tiêu khiến hứng tiền hậu tập; Trịnh Hoài Đức (1765-1825): Sứ hành quan quang còn gọi là Bắc sứ thi tập (1802); Nguyễn Du (1766-1820): Bắc hành tạp lục (1813-1814)…
Con số thống kê như trên là chưa đầy đủ, nhưng cũng đã có đến trên mấy ngàn bài thơ (có một số là văn) viết về đề tài đi sứ. Nhìn chung, về nội dung của thơ đi sứ, các vị sứ thần - nhà thơ thường gởi gắm nỗi niềm tâm tư tình cảm của mình trên hành trình đi sứ xa xôi, đầy khó khăn gian khổ, với trọng trách lớn lao đối với đất nước, dân tộc mà triều đình đã giao phó. Bên cạnh những bài thơ mang tính xã giao, thù tạc khi xướng hoạ, đối đáp, đề tặng thì số còn lại đa phần là thơ tả cảnh, vịnh cảnh vừa thể hiện nét tài hoa tinh tế, bộc lộ cảm hứng dạt dào yêu mến trước thiên nhiên tạo vật, vừa bộc lộ tâm sự nhớ quê hương, lại vừa phản ánh trách nhiệm đối với quốc gia xã tắc, thể hiện lòng tự hào dân tộc, tự hào văn hoá văn hiến Việt Nam.
I. Mấy nét về thơ đi sứ Đinh Nho Hoàn qua Mặc Ông thi tập
1. Về tác giả
Đinh Nho Hoàn (1671- 1715) 丁儒完 hiệu Mặc Trai (cũng gọi là Mặc Ông), tự Tồn Phác người xã An Ấp, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là con con thứ ba của cụ Đinh Nho Công và phu nhân họ Đặng, sinh ngày 5 tháng 10 năm Tân Hợi niên hiệu Cảnh Trị thứ 9 (1671). Họ Đinh Nho ở đây rất nổi tiếng vì có nhiều người hiển đạt như Đinh Nho Công (cha của Đinh Nho Hoàn), Đinh Nho Điển, Đinh Nho Quang... Đinh Nho Hoàn từ nhỏ đã thông minh hiếu học, lớn lên ông về kinh đô thụ học với nhiều bậc danh sư, năm 30 tuổi ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Canh Thìn niên hiệu Chính Hoà 21 (1700) đời Lê Hy Tông, sau đó ông từng làm Đốc trấn Cao Bằng, rồi Hữu Thị lang Bộ Công. Năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715) được cử làm Phó Chánh sứ đi sứ nhà Thanh, chẳng may ông lâm bệnh và mất ở dọc đường (năm 1715), sau đó ông được truy tặng chức Lại Bộ Thượng thư.
Đinh Nho Hoàn là tác giả của tập thơ Mặc Ông sứ tập và năm bài thơ chữ Hán của ông được chép trong sách Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn. Mặc Ông sứ tập bao gồm những bài thơ vịnh cảnh trên đường đi sứ (như sông Nhị Hà, ải Nam Quan, thành Ngô Châu…); nói lên cảm xúc, nỗi nhớ của tác giả về quê hương đất nước, ngoài ra còn có các bài họa đáp, tiễn tặng bạn bè... bài kí về việc đặt ruộng thờ cúng, bài minh khắc trên chiếc khánh đá chùa Thượng Bảo; bài răn dạy con cháu biết sống trung hiếu. Tên gọi của tập thơ không phải do Đinh Nho Hoàn tự đặt mà do con rể ông là Nguyễn Trọng Thường, tìm thấy bản thảo của ông viết trên đường đi sứ nên đã sắp xếp lại, viết thêm một bài dẫn và đặt tên tập thơ là Mặc Ông sứ tập để tỏ lòng kính trọng.
2. Khảo sát văn bản tác phẩm
Mặc Ông sứ tập 默翁使集 hiện còn 3 văn bản Hán văn đều lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, gồm các bản:
- Bản VHv. 1443 có 72 trang viết tay khổ 28 x 16
- Bản A.1409 có 70 trang viết tay khổ 26 x 10 bản do Viện Viễn Đông bác cổ sao chép, bản này chữ chân khá rõ ràng, khá dễ đọc.
- Bản A.2823 có 60 trang viết tay khổ 26 x 18, qua tìm hiểu thì thấy bản này sao chép vào thời Tự Đức (1848-1883)
Ngoài ba bản này ra, trong một sách khác tên là Chỉ Trai văn tập kí hiệu VHv.97 cũng có chép thơ của Đinh Nho Hoàn, tuy nhiên bản này chữ Hán viết thảo nên khó nhìn hơn bản A. 1409, có thể xác định bản VHv.97 chép trong niên đại thời vua Đồng Khánh (1886 - 1887). ( Các phần xác định văn bản này xin được trích lại từ nghiên cứu của PGS Ngô Đức Thọ khi khảo sát về văn bản Mặc Ông sứ tập).
Năm 2009, Mặc Ông sứ tập 默翁使集 đã được tuyển dịch 93 bài thơ trong tổng số 113 bài thơ chữ Hán, cùng một số bài văn khác sang tiếng Việt do Nhà xuất bản Văn học ấn hành và đặt tên là Mặc Trai sứ tập với lời giới thiệu của nhà thơ Anh Chi. Trước tác của Đinh Nho Hoàn để lại tuy không nhiều nhưng được các nhà nghiên cứu đánh giá rất cao: “Thơ Đinh Nho Hoàn nhuần nhị, ngọt ngào và chứa chan những tình cảm, ý vị đẹp đẽ, thể hiện nồng nàn lòng yêu quê hương đất nước và niềm tự hào dân tộc” (Tổng tập văn học Việt Nam, Tập 6, tr.315).
Khi so sánh phần chữ Hán và phiên âm của bản Mặc Ông sứ tập kí hiệu A.1409 với phần trong sách Mặc Trai sứ tập do Nhà xuất bản Văn học ấn hành, thì thấy có một số sai khác, có thể do chế bản bị sai, sau đây là bảng so sánh:
STT
|
Tên bài
|
Mặc Ông sứ tậpbản A. 1409
|
Âm Hán Việt - Nghĩa
|
Mặc Trai sứ tập. NXB Văn học
|
Âm Hán Việt - Nghĩa
|
Số trang trong Mặc Trai sứ tập. NXB Văn học
|
1
|
Quá Lã Côi dịch
|
峯
|
Phong – đỉnh núi
|
封
|
Phong – ban cho, to lớn, bọc đóng.
|
36
|
2
|
Quá Yên Dũng huyện Yên Ninh tự
|
芝泥
|
Chi nê – con dấu đóng trên tờ niêm phong
|
泛泥
|
Phiếm nê – trôi nổi
|
39
|
3
|
Ngộ Phúc Kiến khách Khâu Đỉnh Thần lai phỏng
|
遇
|
Ngộ - gặp
|
Đánh máy thiếu chữ 遇
|
Ngộ - gặp
|
45
|
4
|
Ức Trung Dũng Thiếu phó Đặng tôn đài hồi thi trình thượng nhị thủ
|
斥
|
Xích – ở trong bài có nghĩa là tiếng kêu của chim sâu
|
斤
|
Cân – cái rìu, đơn vị đo
|
49
|
5
|
Ức nhũ mẫu kí dữ đồng niên Thái Bộc tôn đài
|
琹
|
Cầm – đàn cầm
|
Không đánh máy chữ 琹
|
Cầm – đàn cầm
|
55
|
6
|
Quá Thành Đoàn
|
琹
|
Cầm – đàn cầm
|
Không đánh máy chữ 琹 nên từ câu: “Cáchạ thi cầm trấn tướng khoan. Thành ngoại hựu giang giang hữu thị. Ky hoàn hống động ức Trường An” trong phần chữ Hán bị lộn xộn, không đúng thứ tự
|
Cầm – đàn cầm
|
59
|
7
|
Hạ Minh giang thuyền
|
湧
|
Dũng – nước vọt lên cao
|
勇
|
Dũng – dũng cảm
|
65
|
8
|
Hạ Minh giang thuyền
|
滙
|
Hối – nước chảy quanh
|
潰
|
Hội – nước vỡ ngang bờ
|
65
|
9
|
Hạ Minh giang thuyền
|
兀
|
Ngột – bần thần, ngây ngất
|
凡
|
Phàm – bao gồm
|
65
|
10
|
Quá Thái Bình thành
|
驚咱
|
Kinh thính– đột nhiên nghe tiếng tiếng gì đó
|
驚聽
|
Cảnh thính – phiên âm sai
|
67
|
11
|
Quá Thái Bình thành
|
此
|
Thử - chỗ đó
|
此
|
Sơ – phiên âm sai
|
68
|
12
|
Thái Bình Tham tướng thiết yến đương tịch sách ngâm tức ứng khẩu vân
|
涵
|
Hàm – lớn lao nồng hậu
|
函
|
Hàm - cái hộp; cái chỗ chứa đựng
|
71
|
13
|
Thái Bình Tham tướng thiết yến đương tịch sách ngâm tức ứng khẩu vân
|
泄
|
Tiết – lộ rõ
|
節
|
Tiết – đốt tre; ngày lễ, tiết
|
71
|
14
|
Thái Bình Tham tướng thiết yến đương tịch sách ngâm tức ứng khẩu vân
|
琹
|
Cầm – đàn cầm
|
Không đánh máy chữ này
|
Cầm – đàn cầm
|
71
|
15
|
Đáp Hữu Doanh Chu Đại Tổng trấn quan yến tiếp
|
營
|
Doanh – doanh trại, dinh quan
|
盈
|
Doanh – đầy đủ
|
79
|
16
|
Đáp Hữu Doanh Chu Đại Tổng trấn quan yến tiếp
|
建
|
Kiến – trong bài là 建武tên riêng thành Kiến Vũ
|
見
|
Kiến – xem, gặp
|
79
|
17
|
Đáp Hữu Doanh Chu Đại Tổng trấn quan yến tiếp
|
敢
|
Cảm – tiến lên, dám làm việc gì đó
|
感
|
Cảm – cảm động
|
79
|
18
|
Đáp Tả Giang đạo tẩy yến tiếp túng du Viên Khâu Cực Lạc
|
園
|
viên
|
榮
|
Vinh - đánh chữ Hán sai
|
81
|
19
|
Cửu Thứ Ninh thành dư cảnh
|
天
|
Thiên – trong Thiên Ninh tự
|
扁
|
Thiên – đánh chữ Hán sai
|
83
|
20
|
Nam Ninh hoán thuyền thích ngộ thiên tệ bất ninh thả chu phu loạn trạo tọa ngọa nguy khốn nhân tư cảm tác
|
敢
|
Cảm – tiến lên, bản thân mình dám làm việc gì đó
|
感
|
Cảm – cảm động
|
87
|
21
|
Đáp Tưởng bạn tống tặng phiến tịnh hương nhị tuyệt
|
絕
|
Tuyệt – câu thơ
|
絕
|
Thủ - phiên âm sai
|
91
|
22
|
Đáp Tưởng bạn tống tặng phiến tịnh hương nhị tuyệt
|
漁
|
Ngư -đánh bắt cá, thuyền câu cá
|
魚
|
Ngư – con cá
|
91
|
23
|
Đại Quách khuê phụ tiễn Quách bạn thướng Yên Kinh
|
代郭
|
Đại Quách – thay lời họ Quách
|
大郭
|
Đại Quạt – sai chữ Hán và sai phiên âm
|
95
|
24
|
Tặng Quách bạn hoàn nhị tuyệt
|
絕
|
Tuyệt – câu thơ
|
絕
|
Thủ - phiên âm sai
|
97
|
25
|
Tặng Quách bạn hoàn nhị tuyệt
|
貺
|
Huống – so sánh, tình huống
|
況
|
Huống – ban cho
|
97
|
26
|
Quá Ô Man than
|
千
|
Thiên - ngàn
|
天
|
Thiên – trời
|
102
|
27
|
Quá Ô Man than
|
稳
|
Ổn - yên ổn
|
隱
|
Ẩn – sai chữ Hán
|
102
|
30
|
Bạc Đông Tân dịch dạ văn thôn kê tư cảm
|
吾又憶吾居
|
Ngô hựu ức ngô cư
|
Câu này đánh máy thiếu
|
Đánh máy thiếu
|
120
|
31
|
Quá Quế Bình huyện nhân Chung Doãn xuất phiến cầu thi toại đề
|
桂平縣
|
Quế Bình huyện – huyện Quế Bình
|
桂平縣
|
Đánh máy phiên âm sai
|
128
|
32
|
Quá Quế Bình huyện nhân Chung Doãn xuất phiến cầu thi toại đề
|
瑞
|
Thụy – điềm tốt lành
|
端
|
Đoan – điểm khởi đầu
|
129
|
33
|
Nhân Chung Doãn vấn cập Đặng Thiếu phó tôn đài nhân đại khoa danh đạo thúc quật tác
|
旄
|
Mao – cờ tiết mao của sứ bộ
|
髦
|
Mao – tóc mao của trẻ
|
131
|
34
|
Quan Âm các đề tự cảnh
|
薛蘿
|
Tiết la – loài hoa Tiết La
|
薛羅
|
Tiết La, chữ 羅 bị sai
|
153
|
35
|
Thị nhật vãn thiên chu thứ Quế Hoa Đường đường họa Thái Bộc tôn đài vận
|
晚
|
Vãn – muộn
|
往
|
Vãng – đã qua
|
161
|
36
|
Tặng Bình Lạc phủ Mộ chính đường
|
政
|
Chính – chính sự, chính trị
|
正
|
Chính – chính trực, ngay thẳng
|
166
|
37
|
Dương sóc đồ trung nhân Mộ chính đường thứ vận tiền thi kiêm tặng thượng phẩm phiến nhất bả nhưng phục thứ tiền vận tạ tha
|
|
|
|
Câu: “Dương sóc đồ trung nhân mộ chính” bị đánh máy nhầm sang bài tặng Bình Lạc phủ mộ chính đường
|
166-168
|
38
|
Đề Bình Lạc Ấn Sơn đình
|
光
|
Quang – ánh sáng
|
先
|
Tiên – ban đầu
|
170
|
39
|
Đề Tượng Tỵ sơn
|
人
|
Nhân – người
|
人
|
Quân – phiên âm sai
|
175
|
40
|
Đề Thuấn sơn
|
雨
|
Vũ - mưa
|
宇
|
Vũ – không gian
|
177
|
41
|
Đề Thuấn sơn
|
端
|
Đoan- điểm khởi đầu
|
瑞
|
Thụy - tốt lành
|
177
|
42
|
Hạ Trần Phủ nhị tử nhập Hàn lâm
|
翰
|
Hàn – hàn lâm, văn chương
|
寒
|
Hàn – lạnh
|
182
|
43
|
Quá Trường Sa thành
|
煙
|
Yên – khói
|
安
|
Yên - yên ổn
|
201
|
44
|
Tiễn Lư y sinh hồi An Nhân quận
|
耳
|
Nhĩ – trong bài là tên địa danh Hùng Nhĩ
|
年
|
Niên – năm, sai chữ Hán
|
215
|
45
|
Tiễn Lư y sinh hồi An Nhân quận
|
度
|
Độ - đơn vị đo góc, cứu độ
|
渡
|
Độ - bến nước
|
215
|
46
|
Tiễn Lư y sinh hồi An Nhân quận
|
誰
|
Thùy - Ai, người nào
|
垂
|
Thùy – rủ xuống, hoặc biên thùy
|
215
|
47
|
Quá Tương Âm huyện đề Thanh Thảo hồ
|
岳
|
Nhạc – núi lớn
|
岳
|
Ngạc – phiên âm sai
|
219
|
48
|
Đề Động Đình hồ
|
晚泛
|
Vãn phiếm – chiều muộn thuyền trôi
|
晚泛
|
Phiếm văn – phiên âm sai
|
224
|
49
|
Động Đình hồ hoài cổ
|
滄
|
Thương- mênh mông
|
蒼
|
Thương – màu xanh
|
227
|
50
|
Đăng Hoài Ninh tháp mạn đề
|
手
|
Thủ - cái tay
|
首
|
Thủ - đầu, đứng đầu
|
258
|
51
|
Đăng Hoài Ninh tháp mạn đề
|
丹
|
Đan – màu đỏ, cung điện
|
安
|
An – yên ổn, bình an, sai chữ Hán
|
258
|
52
|
Đăng Hoài Ninh tháp mạn đề
|
霄
|
Tiêu – khoảng không trung
|
宵
|
Tiêu – nhỏ bé
|
258
|
53
|
Du Trường Sinh am
|
偕
|
Giai – đều, tất cả
|
偕
|
Hài – phiên âm sai
|
269
|
54
|
Tặng Kim Lăng thi ông Mã Kỉ Tiên kỳ nhị
|
人
|
Nhân – người, con người
|
因
|
Nhân – nguyên nhân
|
274
|
55
|
Tặng Kim Lăng thi ông Mã Kỉ Tiên kỳ nhị
|
唐
|
Đường – đời Đường
|
塘
|
Đường – cái ao vuông
|
274
|
56
|
Phỏng thi họa Thanh khách Đào Văn Độ
|
舊情
|
Cựu tình – tình nghĩa xưa
|
九情
|
Cửu – số chín
|
277
|
57
|
Đề Yến Tử ky
|
飲
|
ẩm – ăn uống
|
欽
|
Khâm – kính, mệnh lệnh
|
279
|
Qua bảng so sánh trên ta thấy so với bản Mặc Ông sứ tập kí hiệu A.1409 với phần trong sách Mặc Trai sứ tập do Nhà xuất bản Văn học ấn hành thì có sự sai lệch khá nhiều, cụ thể có: 40 lỗi sai chữ Hán, 12 lỗi sai phiên âm, 5 lỗi sai do đánh máy thiếu hoặc lộn xộn, do chữ Hán là loại chữ có nhiều chữ đồng âm khác nghĩa nên có nhiều trường hợp bị sai vì không hiểu rõ nghĩa của chữ Hán; tuy nhiên ta nên thông cảm cho vấn đề này; việc có lỗi sai như vậy là một việc rất đáng tiếc, mong rằng trong những lần tái bản và chỉnh sửa Mặc Trai sứ tập điều này sẽ được khắc phục và giải quyết tốt hơn.
3. Nét riêng thơ đi sứ Đinh Nho Hoàn
Về chuyến đi sứ của Đinh Nho Hoàn vào năm 1715, trong sử sách còn ghi lại khá đầy đủ. Đại Việt sử ký tục biên ghi rõ: “Ất Mùi (Vĩnh Thịnh) năm thứ 11 (1715) (Thanh Khang Hy thứ 54). Mùa xuân, tháng Giêng. Sai sứ thần Nguyễn Công Cơ, Lê Anh Tuấn (người xã Thanh Mai, huyện Tiên Phong), Đinh Nho Hoàn (người An Ấp, huyện Hương Sơn), Nguyễn Mậu Áng (người xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm) đi sứ nhà Thanh”. Trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi đủ cả chức vụ trong sứ bộ “Chánh sứ là Hộ bộ Tả Thị lang Nguyễn Công Cơ, Thái bộc Tự khanh Lê Anh Tuấn. Phó sứ là Thượng bảo Tự khanh Đinh Nho Hoàn và Lại khoa Cấp sự trung Nguyễn Mậu Áng”. Sứ bộ lên đường giữa tháng 2 - 1715, vừa đi bằng thuyền, bằng xe đến Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay), dâng quốc thư và lễ vật, chúc thọ, vấn an và một số hoạt động bang giao khác...Trong Đại Việt sử ký tục biên cũng ghi “Năm Bính Thân niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 12 (tức đời Khang Hy thứ 55 năm 1716), tháng 8, sứ thần Nguyễn Công Cơ cùng sứ bộ trở về nước ta”.
Ta biết vị quan có tập thơ đi sứ trước gần thời của Đinh Nho Hoàn nhất là Nguyễn Đăng Đạo với tập Nguyễn Trạng nguyên phụng sứ tập (1697) (tuy nhiên hiện nay chưa tìm thấy tác phẩm này ). Năm 1697, nhận chức Chánh sứ, Nguyễn Đăng Đạo dẫn đầu đoàn sứ bộ nước ta đi sứ nhà Thanh với mục đích tuế cống và đòi lại những vùng đất thuộc hai động Tuyên Quang và Hưng Hóa bị quan thổ ty nhà Thanh lấn chiếm trái phép. Chuyến đi sứ của phái đoàn Nguyễn Đăng Đạo kéo dài từ tháng giêng năm Đinh Sửu (1697) đến tháng tư mùa hạ năm Mậu Dần (1698), đã đạt mục đích đem được quốc thư tới Yên Kinh nói rõ sự việc biên giới tới vua Thanh – điều mà trước đó nhiều năm nhiều đoàn sứ bộ của ta chưa đạt được. Và vị quan đi sứ nối sau chuyến đi sứ của Đinh Nho Hoàn là Nguyễn Công Hãng, với tập thơ Tinh sà thi tập (1718), tuy nhiên tìm hiểu trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm thì không thấy tác phẩm nào có nhan đề như vậy mà chỉ tìm thấy tác phẩm: Bắc sứ thi tập, ký hiệu VHv.2166, bản viết tay, chữ tốt, dễ đọc, 72 trang, khổ 26 x15cm, gồm 2 tập thơ đi sứ của Đào Công Chính và Nguyễn Công Hãng. Thơ văn của Nguyễn Công Hãng duy nhất có cuốn này. Theo Bắc sứ thi tập, trong chuyến đi sứ năm Vĩnh Thịnh thứ 14 (1718), Nguyễn Công Hãng khi đó đang giữ chức Binh bộ Hữu Thị lang được cử làm Chánh sứ, dẫn đầu đoàn sứ bộ sang sứ nhà Thanh.
Do những tập thơ đi sứ gần nhất trước và sau chuyến đi sứ của Đinh Nho Hoàn chưa tìm được đầy đủ nên muốn hiểu rõ những nét đặc sắc trong thơ đi sứ của ông; chúng tôi sẽ so sánh một số bài thơ tiêu biểu trong tập Mặc Ông sứ tập với một số bài thơ trong tập Phụng sứ Yên Kinh tổng ca tịnh nhật ký của Nguyễn Huy Oánh (1713-1789), đi sứ năm 1765- 1766; tác phẩm đã được tuyển dịch trong “Tuyển tập thơ văn Nguyễn Huy Oánh” do Nhà xuất bản Hội Nhà văn xuất bản năm 2005.
Trước hết Mặc Ông sứ tập khác với Phụng sứ Yên Kinh tổng ca tịnh nhật ký của Nguyễn Huy Oánh và phần lớn các thơ đi sứ khác là thơ Đinh Nho Hoàn ít có những ghi chép tỉ mỉ như một dạng nhật kí hành trình: ngày tháng nào đi qua đâu, ngay tên tiêu đề của Phụng sứ Yên Kinh tổng ca tịnh nhật ký – Tổng ca phụng mệnh đi sứ Yên Kinh và nhật ký đã cho ta thấy sự khác biệt này. Cả tập Mặc Ông sứ tập chỉ có vài bài ghi rõ ngày tháng như ngày: mừng thọ vua Lê bài: “Ngũ nguyệt thập cửu nhật ngộ Diên Thọ tiết dạ ức ỷ bồng độc tọa nhân đề”, hay ngày giỗ mẹ ông bài: “Thất nguyệt thất thập nhật ngộ mẫu thân kỵ nhật cảm tác”. Điều này cho thấy Đinh Nho Hoàn chú tâm vào việc làm thơ để gửi gắm nỗi niềm trung với vua và hiếu kính với cha mẹ của ông mà thôi, chứ không chú trọng nhiều vào việc làm thơ để ghi chép, thuật lại tỉ mỉ những việc gặp trên đường đi sứ.
Hành trình của sứ bộ bao gồm cả đường thuỷ đường bộ, qua nhiều vùng đất khác nhau, theo lộ trình thì sứ bộ ta phải đi qua sông Nhị Hà rồi đến các trạm dịch ở phía Bắc để sang biên giới. Có thể nói việc qua sông Nhị Hà là điểm đánh dấu mở đầu cho chuyến đi sứ, nên các nhà thơ đi sứ ai cũng có làm thơ nói về điều này. Nếu những câu thơ của bài Độ Nhị hà khiển đề trong Mặc Ông sứ tập cho ta hiểu rõ hơn cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp và cảm xúc hứng khởi, tin vui, tâm thế lạc quan, hào sảng coi việc đi sứ lớn lao vẻ vang chỉ như một chuyến đi xa, hẹn ngày thắng lợi trở về của Đinh Nho Hoàn:
Hương trời thơm nức muôn trùng nước
Sóng Nhị rờn xanh mấy dặm mờ
Sào quế chèo lan, gian hiểm thử
Hiếu trung lòng trọn, lợi danh xa
Ngày về thắng lợi thuyền hoa sứ
Nở nụ cười vui gặp bến xưa
(Cao Thế Lữ dịch)
Thì trong Phụng sứ Yên Kinh tổng ca tịnh nhật ký việc vượt sông Nhị, dừng chân ở thôn Ái Mộ để mở đầu cho chuyến đi sứ, nói lên trách nhiệm lớn lao, sứ mệnh quan trọng của việc đi sứ được mô tả bằng những câu thơ:
… Ly câu vang nhịp ca nhanh
Sớm chiều Ái Mộ vượt thành trú chân
Sứ người tạc dạ hoàng ân
Đinh ninh mấy chữ ân cần một chương…
(Lại Văn Hùng dịch)
Việc vượt sông Nhị được coi như là điểm mở đầu cho chuyến đi sứ thì việc qua cửa ải biên giới chính là cột mốc đánh dấu cho những khó khăn vất vả, và cả nguy hiểm cũng như trách nhiệm quốc gia của sứ bộ ở phía trước. Qua biên ải đã là sang xứ người, quốc thổ ở sau lưng, gian nan, khó khăn luôn ở phía trước. Đinh Nho Hoàn đã nói lên điều này qua bài thơ Quá quan thượng:
Then đời khó dễ như nhau
Mệnh vua muôn dặm dám đâu sai lời
Gian lao hầu suốt cuộc đời
Ngày qua cửa ải khổ mười phần hơn.
(Cao Thế Lữ dịch)
Còn trong Phụng sứ Yên Kinh tổng ca tịnh nhật ký, NguyễnHuy Oánh lại nói đến điều đó bằng những câu thơ giống như là kể lại hành trình, nói về những việc xảy ra nhiều hơn:
… Nam Quan then khóa mở toang
Bên đài Chiêu Đức biểu chương dâng bày
Kho Đông bạc phát tiền thay
Họ tên sứ bộ tỏ hay từng người
(Lại Văn Hùng dịch)
Qua ải Nam Quan là vào địa phận Trung Quốc; cảnh sắc thiên nhiên mới lạ, phong phú trên đất nước Trung Hoa là nguồn thi hứng cho các sứ thần - nhà thơ. Cùng với vinh dự tột bực của kẻ sĩ, họ còn tìm thấy niềm vui lớn của người nghệ sĩ, trong rất nhiều danh thắng nổi tiếng của Trung Hoa thì Hoàng Hạc lâu, là một trong những danh thắng đặc biệt nhất, mà đoàn sứ bộ nước ta khi qua đây đều có thơ để nói lên phong cảnh hữu tình và cảm xúc của thi nhân. Đinh Nho Hoàn không chỉ miêu tả cảnh vật thiên nhiên, mà ông còn nói lên chí lớn cùng một chút phiêu diêu, bay bổng, thoát tục như một tiên ông với bài : Quá Vũ Xương thành đề Hoàng Hạc lâu:
Ngòi cũ kê vàng còn lửa nóng
Vườn nay táo đỏ vẫn hương thơm
Giá như núi Phượng lên cương được
Thổi sáo đua tài ai dám hơn
(Cao Thế Lữ dịch)
Còn Nguyễn Huy Oánh trong bài Hoàng Hạc lâu lại mượn cảnh vật thiên nhiên nơi lầu Hoàng Hạc để nói lên tâm sự nhớ quê hương, nhớ nhà, nhớ người thân và nỗi buồn sầu của mình khi đang trên đường đi sứ:
Sóng khói mù khơi đất rắc mây
Cảnh lúc tạnh trong như họa vẽ
Bút từ khi gác chẳng thơ hay
Tây nam quê cũ nhìn xa thẳm
Thân tạm về thôi kiểu muộn ngày
( Nhất Phàm dịch)
Bên cạnh những danh thắng lịch sử nổi tiếng, Trung Hoa cũng là đất nước có nhiều cảnh đẹp tự nhiên hùng vĩ, đẹp đẽ, khác thường, vẻ đẹp thiên tạo gắn liền với một sự tích, truyền thuyết nào đó, những cảnh vật như vậy cũng là cảm hứng lớn cho các thi nhân trong đoàn đi sứ. Đinh Nho Hoàn không chỉ nói lên chí lớn, chí khí tự do, tự tại, hùng tâm kẻ sĩ của ông trong bài Hoàng Hạc lâu ở trên mà qua bài Đề Yến Tử ky điều này cũng được ông bày tỏ thêm nữa:
Kim Lăng trú đậu ăn chơi
Chim nay lạ nước lạ trời đến đây
Chờ dòng trong vụt cánh bay
Chí cao đâu phải nơi đây sông hồ
(Cao Thế Lữ dịch)
Nguyễn Huy Oánh cũng đến Yến Tử ky này, nhưng trong bài Đề Yến Tử ky nhất luật của ông lại thiên về miêu tả cảnh vật sinh động cùng đời sống sinh hoạt của con người nơi ghềnh Yến Tử này mà thôi, chứ không nói lên chí khí, tự do tự tại như Đinh Nho Hoàn:
Lau dầm sương tuyết ba phần trắng
Gió thổi chuông chùa nửa dặm bay
San sát mũi thuyền âu xếp đội
Giỡn đùa sóng nước giữa trời mây
( Nhất Phàm dịch)
Không chỉ miêu tả các danh thắng, cảnh đẹp thiên nhiên, mà các thi nhân – sứ thần của ta còn có thơ đề vịnh các di tích lịch sử gắn với các danh thần, danh tướng của Trung Hoa. Đinh Nho Hoàn khi đến thăm đền Quan Đế ở Ngô Châu đã có thơ ca ngợi võ nghiệp của Quan Công, đặc biệt là ca ngợi tấm lòng trung hiếu được người ta tôn trọng và phụng thờ:
Quất xích thố cùng đời tranh đế Hán
Múa minh đao mở đất đến Ngô Giang
Phụng thờ khói nhẹ bay lên đỉnh
Miếu mạo nghìn thu thoang thoảng hương
(Cao Thế Lữ dịch)
Cùng cảm hứng lấy trung hiếu làm gốc, quên mình giữ trọn đại nghĩa, khi đến thăm miếu Nhạc Phi trong bài Đề Nhạc Vương miếu, thì Nguyễn Huy Oánh cũng có thơ đề vịnh:
Hơn chục năm ròng lập chiến công
Đá bền trời thấu tấm kiên trung
…Kẻ phàm chỉ đắm vì tư lợi
Có được lưu danh sử sách không
(Nhất Phàm dịch)
Dù được qua thăm những cảnh vật mới lạ, được đến những di tích danh thắng, dù được tiếp đãi chu đáo, dù được mở rộng kiến văn và hiểu biết thêm về đất và người Trung Hoa, nhưng với sứ đoàn, điều cốt yếu nhất vẫn là nỗi lo canh cánh để làm tròn nhiệm vụ quốc thể, cùng với nỗi nhớ quê hương, nhớ gia đình và người thân lúc nào cũng luôn thường trực. Với tâm sự của người lữ thứ, nơi đất khách quê người nên mỗi khi vào những ngày lễ, tiết nỗi nhớ và tâm sự của những thi nhân – sứ thần lại càng được bộc lộ rõ ràng hơn. Đinh Nho Hoàn trong bài Đoan ngọ tiết đề không chỉ nói lên tâm sự nhớ vua, nhớ nhà, nhớ quê hương mà cao hơn cả là nói lên tiết khí, tấm lòng của ông với vua, với quê hương, xã tắc, nói lên trọng trách lớn lao và sứ mệnh quan trọng của sứ đoàn mà ông và sứ bộ đang đảm nhiệm:
Linh bồ kết cỏ thả trôi sông
Rong ruổi tâm hùng sách với gươm
Năm Ngọ ngày rày chầu cửa khuyết
Năm nay thuyền đậu bến ngô hương
Không nhà đất khách bùa không chỗ
Thương nước thương dân quạt chẳng buông
Lòng nghĩa khí vời cao vạn trượng
Lưỡi gà nướng tụng hướng quê hương
(Cao Thế Lữ dịch)
Cũng với tâm sự của người lữ thứ lại gặp tiết Đoan dương nơi đất khách, Nguyễn Huy Oánh bày tỏ tâm sự nhớ quê một cách man mác, buồn sầu, như trong bài Lữ thứ Đoan dương:
… Tựa ghế nghe đàn âm thoảng đến
Ngắm hoa lựa chữ tứ nồng hương
Hôm nay chốn ngự bày toàn rượu
Sầu nổi đầy vơi chén nhấp suông
(Lại Văn Hùng dịch)
Tóm lại, qua những phần trình bày ở trên người ta thấy được thơ nói riêng và văn nghiệp nói chung của Đinh Nho Hoàn cần được giới thiệu kỹ lưỡng, chu đáo hơn nữa. Riêng thơ đi sứ của ông cũng có nhiều đặc sắc đáng để nghiên cứu, tìm hiểu đúng như bài dẫn của Nguyễn Trọng Thường trong Mặc Ông sứ tập dẫn có nói:“…Phàm những nơi đi qua đều có đề vịnh. Thơ quốc âm và thơ Đường luật làm sáng nghĩa cho nhau, hoặc dùng Ngũ ngôn, hoặc dùng Thất ngôn không như nhau, mà về thể loại lại càng đầy đủ. Nói tóm tắt thì ngôn từ tình cảm không ngoài hai đầu mối chính là trung với vua và hiếu kính với cha mẹ mà thôi…”. Đinh Nho Hoàn viết Mặc Ông sứ tập chỉ chú tâm vào ý thơ, tứ thơ chứ không phải ghi chép tỉ mỉ như một dạng nhật kí hành trình của sứ đoàn như phần lớn các tập thơ đi sứ khác. Thơ đi sứ Đinh Nho Hoàn phần lớn ít khuôn sáo, công thức. Vẻ đẹp trong thơ ông khi tả về vẻ đẹp thiên nhiên thì mới mẻ, ý vị, tả người thì nhuần hậu, trong sáng, gần gũi. Tuy vẫn là mượn cảnh ngụ tình, nhưng tình trong thơ ông không chỉ là nỗi nhớ vua, nhớ quê, nhớ người thân, mà còn nói lên chí lớn, trách nhiệm của một vị sứ thần, nói lên hùng tâm tráng chí của kẽ sĩ quân tử và cả sự khoáng đạt, tinh thần tự do, tự tại của một thi nhân. Do thế những tìm hiểu ở bài viết này mới chỉ là những nét khái quát sơ lược nhất về Mặc Ông sứ tập của Đinh Nho Hoàn, mong rằng sắp tới sẽ có nhiều trang viết cụ thể, hoàn chỉnh sâu và rộng hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bắc sứ thi tập, kí hiệu VHv.2166, Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
2. Mặc Ông sứ tập, kí hiệu VHv.1443, Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
3. Mặc Ông sứ tập, kí hiệu A. 1409, Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
4. Mặc Ông sứ tập, kí hiệu A.2823, Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
5. Chỉ Trai văn tập, kí hiệu VHv.97, Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
6. Đại Việt sử ký tục biên (1991), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Đặng Việt Thủy, 117 Vị sứ thần Việt Nam, (2009), NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
8. Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh (Chủ biên), (2005), Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
9. Đinh Nho Hoàn, Mặc Trai sứ tập, (2009), NXB Văn học, Hà Nội.
10. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (1998), NXB Giáo dục, Hà Nội.
11. Lại Văn Hùng (Chủ biên), Phạm Văn Ánh – Trần Hải Yến, Tuyển tập thơ văn Nguyễn Huy Oánh (2005), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
12. Phạm Thiều, Đào Phương Bình (Chủ biên), (1993), Thơ đi sứ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
13. Tổng tập Văn học Việt Nam, (2000), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
14. Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, 2 tập (2003), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.