Ai đang đi kia?
Băng cánh đồng khô chân trần hối hả
Đội giành gốm to đi giữa trưa nắng hạ
Có kịp bữa cơm, đám con đói lao nhao?
Ai đang đi kia?
Băng cánh đồng khô chân trần hối hả
Đội giành gốm to đi giữa trưa nắng hạ
Có kịp bữa cơm, đám con đói lao nhao?
Ai đang đi kia?
Gói khăn dằn lên lưng gùi qua đất Thượng
Chàm mình nghèo mà Thượng có giàu đâu
Nhưng đã đi thì phải quến nhau
Có kịp không, với vòng xoay công nợ?
(Inrasara, trường ca “Quê Hương”, Tháp nắng, 1996)
1. “Bản sắc” cùng với “truyền thống” là khái niệm được dùng dày đặc, khi nhắc tới văn hóa, thời gian qua. Toàn cầu hóa, thế giới càng phẳng thì con người càng đi tìm bản sắc, như là điều cấp thiết không thể bỏ qua.
Vậy, thế nào là bản sắc? Bản sắc có phải quay nhìn lui về quá khứ hay đi giật lùi về nguồn? Còn phải đi tới đâu mới gặp nguồn như là nguồn? Hỏi ngôi tháp Chàm kia có bao nhiêu phần trăm là Ấn Độ, bao nhiêu là Chăm? Nó được người Ấn mang tới hay do nghệ sĩ Chăm nào đó viễn dương qua Ấn Độ nổi hứng khênh về, không là vấn đề. Nhưng muốn được là tháp Chàm, người nghệ sĩ đã hủy phá nhiều, rất nhiều – “tiếp thu sáng tạo”, như chúng ta dễ dãi nói thế. Trong hành động “phá” này, vô thức (bản sắc cũ) và ý thức (tài năng nghệ sĩ) cùng có mặt. Tài năng cá nhân càng lớn thì phần “phá” càng vượt trội. Một khi có đột biến trong sáng tạo, chúng ta gọi đó là thiên tài.
Như vậy, bản sắc đa phần là cái đang chuyển động hình thành chứ không/ ít là cái đã đóng băng. Mà muốn làm nên bản sắc, kẻ sáng tạo phải thật sự dũng cảm. Biết và dám khênh về là dũng cảm, dám và biết “phá” càng dũng cảm trăm lần hơn. Bởi mãi lo khư khư ôm lấy kho bản sắc [cũ], ta đã tự cách li và cô lập mình với thế giới xung quanh. Để rồi, chẳng nhích lên tới đâu cả!
Bản sắc là cái khác của vùng miền/ dân tộc này so với vùng miền/ dân tộc kia. Hỏi cộng đồng Chăm [hay Việt Nam] có ai đã nêu bật hết các bản sắc của mình chưa? Câu trả lời thành thật nhất: chưa! Ta chưa học tập ông bà, chưa học tập các dân tộc trên đất nước Việt Nam thì làm sao nói đến học thế giới!
Và, tại sao không sáng tạo?
Nếu chỉ khám phá mình như là mình thì đã đủ chưa? Nếu chỉ gom góp để bảo tồn, chúng ta sẽ làm kẻ giữ kho của ông bà, không hơn. Tiếp thu và sáng tạo. Tiếp thu mình và thiên hạ để làm ra cái mới. Vẫn còn là chưa đủ, khi ta nhìn truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc như là bất di bất dịch. Vì ngay bản sắc cũng là các sáng tạo trầm tích qua nhiều thế hệ. Có thể nói đấy là tiếp thu và sáng tạo được ông bà ta chia ở thì quá khứ. Thế hệ đến sau sẽ gọi là bản sắc điều ta đang dốc sức sáng tạo hôm nay. Bản sắc không chịu dừng lại ở những gì đã có, không cứ mãi vuốt ve lòng kiêu hãnh qua bảo vật ông bà để lại mà phải dám làm ra sản phẩm mới, có đóng góp mới.
Một khi ta còn giữ được tâm hồn Chăm, suy tư Chăm thì bất kì làm gì, Chăm tính trong ta vẫn biểu hiện. Dù ta lấy vợ Pháp, hát nhạc pop, sáng tác thơ tự do bằng tiếng Việt hay phiêu lãng đến cùng trời cuối đất đi nữa.
2. Paul Musnhà dân tộc học nổi tiếng,ở tiền bán thế kỉ XX cho rằng văn học Chăm có thể chỉ tóm gọn trong 20 trang giấy. Nghĩa là: chẳng có gì đáng nói cả!Tôi đọc thấy ý kiến đó lúc đang lớp Chín, tôi nghe lạ, nên quyết đi tìm. Lúc đó văn học Chăm chưa được biết đến, hoàn toàn chìm trong vùng mờ của kí ức cộng đồng. Cuối cùng sau 30 năm mò mẫm tôi đã thấy, và gọi tên lên với Văn học Chăm khái luận - văn tuyển 3 tập.
Vậy đâu là cái độc đáo, khác biệt để làm nên bản sắc?
Sử thi - AkayetChăm có xuất xứ từ/ mang âm hưởng Mã Lai/ Ấn Độ được viết vào thế kỉ XVI - XVIII, là sáng tác thành văn đặc trưng Chăm, một hiện tượng không có trong văn học sử Việt Nam. Nữa, Chăm sở hữu bốn sử thi nổi tiếng; nhưng khác với các dân tộc anh em ở Tây nguyên như Êđê hay Bana… sử thi Chăm đã được văn bản hóa từ thế kỉ XVI. Sử thi Chăm còn khác Ấn Độ ở sự thể mọi chi tiết tập trung vào sự phát triển của câu chuyên, ngoài ra không gì thêm thừa. Càng không có khoảng dừng để kể lể về phong tục tập quán.
Ba Trường ca - Ariya trữ tình nổi tiếngmà nội dung mang chở sự đối kháng quyết liệt giữa Hồi giáo - Ấn Độ giáo dẫn đến đổ vỡ và cái chết, cũng là một dị biệt khác.Người Việt cũng có truyện thơ, nhưng ở đó không có sự đối kháng mang tính ý thức hệ ở tầm thế giới. Khác là vậy.
Chăm còn sở hữu hai trường ca triết lí như Ariya Nau Ikak (Thơ đi buôn) vàJadar (Người chôn) rất độc đáo, có trường ca thế sự, vân vân. Ở đó thấy có mặt nhiều thủ pháp nghệ thuật khá hiện đại.
Về hình thức, Chăm có thểariyamà tôi tạm dịch là Lục bát Chăm. Đây là thể thơ như lục bát Việt, nhưng nó linh hoạt trong cấu trúc hơn, nên khả năng sáng tạo lớn hơn. Đến nay chưa có nghiên cứu nào xác minh dân tộc nào vay mượn dân tộc nào. Chỉ biết rằng ariya - lục bát có đó, làm phong phú nền văn học Chăm và Việt xưa và nền văn học đa dân tộc Việt Nam hôm nay. Bởi cấu trúc ngôn ngữ khác nhau (đa âm tiết/ đơn âm tiết là một trong những), nên lối phát triển hai dòng thơ đã có khác biệt nhất định.
Và gì nữa…
3. Thử tưởng tượng người Việt cứ vâng lời các cụ Nho học ôm khư khư Lục bát, Song thất lục bát với Hát nói hay Đường luật, thơ Việt hôm nay sẽ ra sao? Chắc chắn sẽ không có “Một thời đại trong thi ca” với Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên… Sau đó, nếu cứ nghe theo Xuân Diệu, Tố Hữu quyết kiên trì loại thơ như Thơ Mới với Thơ Mới hậu kì, chắc chắn Việt Nam sẽ không có được Nguyễn Đình Thi, Trần Dần, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên… Rồi các nhà thơ tự do mãi cấm cản, kì thị loại thơ khác thơ mình, thì có đâu nảy nòi phong trào Tân hình thức với Hậu hiện đại hay Thơ Trình diễn!
Thơ Việt dậm chân tại chỗ với “truyền thống” và “bản sắc” là điều khó tránh.
Còn Chăm, nếu một mực ôm ghì bản sắc, ta sẽ có gì? Hết điệu múaBiyen, Tiaung, Mưmơng, Mưrai đến Patra, Wah Gaiy, Po Tang Ahauk; hết Múa quạt, Đội lu đến Múa Carit hay Đạp lửa…
Gốm, sao cứ là Khang, Gauk, Glah… để sau đó phải căng cổ đội dạo khắp làng thôn rao bán? Còn Thổ cẩm ai lại bắt nhau mãi “buộc lưng” (girak ka-ing) ngồi dệt từng sợi từng sợi để “đi Churu”? Sao không gì khác, không gì hơn?
Tại sao không sáng tạo, không dám làm mới, làm khác “truyền thống-bản sắc”?
Các ca khúc Amư Nhân là hay, nhưng sao không dám cắt đứt hẳn với thể điệu dân gian cũ? Hôm nay Chăm cần vài nhạc sĩ thế hệ mới làm khác thế, và hơn thế.
Các vũ điệu của Đặng Hùng là độc đáo. Ngoài việc ông đặt tên cho nó là “Múa Cung đình Chăm” [ông vẫn chưa chứng minh được liên quan giữa “múa cung đình Champa” và điệu múa do ông sáng tạo]; còn lại đó là một ý niệm giá trị, khi ông biết mã hóa các thế tay chân từ tượng, phù điêu cổ để làm ra cái mới.
Còn thơ, lẽ nào bạn thơ Chăm mãi quanh quẩn thể ariya (lục bát Chăm) đếm chữ, đến ariya đếm âm tiết, hay pauh catwai(1)? Không chịu “lai căng” thì ta lấy đâu thơ tự do, lấy đâu các thủ pháp hậu hiện đại? May, các bạn thơ Chăm đã ý thức mạnh mẽ: dám cắt đứt với “truyền thống-bản sắc”, từ đó họ có những sáng tạo sáng giá, thời gian qua.
Dĩ nhiên, nếu các bạn viết bằng tiếng mẹ đẻ thì càng tốt hơn nữa.
Còn ai muốn ôm khư khư bản sắc nữa không?
4. Nhà thơ dân tộc Dáy Lò Ngân Sủn viết về Tháp nắng, có đoạn:
“Tôi muốn biết thơ anh có cái gì thật bản sắc, thật độc đáo mang đậm phong vẻ, cốt cách Chăm của anh hay không nhưng hơi khó. Vì thơ anh là thơ hiện đại, lại rất gần với thơ Việt từ giọng điệu, ngôn từ, cách thể hiện”(2).
20 năm sau, Nguyễn Hòa lặp lại y hệt(3). Đó là phê bình nói mò, đầy may rủi. Ý kiến kia mới lướt qua như thể trúng, tuy thế nếu chịu đẩy tư duy lên xíu mới thấy nó hỏng to. Câu hỏi đặt ra:
Bạn muốn thơ Dân tộc thiểu số phải thế nào? Hình ảnh gần gũi, cụ thể? Lối nói đơn giản, mộc mạc? Thậm chí thơ bằng thứ tiếng Việt ngô nghê, ngọng nghịu sao?
Bạn đã biết đặc trưng văn học các dân tộc thiểu số thế nào chưa, mà bảo thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số thiếu bản sắc dân tộc? Riêng Chăm, là dân tộc có chữ bản địa sớm nhất Đông Nam Á, văn học viết cũng đã phát triển sớm. Chăm biết tư duy trừu tượng, tư duy siêu hình, tư duy tư biện (Ariya Glơng Anak, Pauh Catwai)… Tác giả Chăm cổ điển đã biết sử dụng kĩ thuật đồng hiện, dòng ý thức (Ariya Bini Cam), lối kể chuyện hiện đại (Ariya Cam Bini tuyệt không có “chàng rằng”, “nàng rằng”), so sánh đa tầng… Nếu thơ của các tác giả trẻ Chăm có “xài lại” mấy thứ đó, đâu phải họ thiếu cốt cách Chăm!
Dấn thêm một bước, khi đã nhìn ra bản sắc văn học dân tộc(4), lẽ nào thi sĩ hôm nay cứ bám vào nó mà viết? Tại sao kẻ sáng tạo không dám cắt đứt nó, để làm cái mới? Cuối cùng, các kĩ thuật hiện đại của thơ Việt hôm nay đâu phải độc quyền của người Việt? Nó là “kho trời chung” của nhân loại, sao nhà thơ dân tộc thiểu số không thể dùng tới?
Văn chương không chủ ở số lượng. Nếu bạn góp thêm một Akayet Dewa Mưno hay một Ariya Glơng Anak mới thì văn chương Chăm chẳng vì thế mà mập lên. Cuộc sáng tạo đòi hỏi bạn phải làm khác, của hôm nay. Chính cái khác này quyết định sinh phận của văn chương và ngôn ngữ Chăm ngày mai.
______________
Chú thích
(1) pauh catwailà thể thơ như thể ariya, ở đó mỗi cặp lục bát đều đứng biệt lập như một bài thơ hoàn chỉnh, một châm ngôn với đầy đủ ý nghĩa được kết nối liên hoàn đến cả mấy trăm câu mà vẫn thống nhất ở giọng điệu, tư tưởng; hình thức không khác mấy so với choka (trường ca) của Nhật (choka là shika: năm, bảy âm được kết nối liên hoàn).
(2) Lò Ngân Sủn, “Đọc Tháp Nắng của Inrasara”, đăng tạp chí Văn, số 70, 8-1997.
(3) “Trong văn học cũng vậy, nếu các tác giả như Y Phương, Pờ Sào Mìn, Mã A Lềnh,… kế tục xuất sắc sự nghiệp của Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn,… thì ngày nay, đọc tác phẩm của một số cây bút trẻ, ngoài họ và tên hay đôi dòng tiểu sử giúp nhận biết xuất thân dân tộc thiểu số, lại thấy cách cảm, cách nghĩ, lối diễn đạt, cách thức xây dựng hình ảnh,… trong thơ của họ có điều gì đó gần gũi với cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt, cách xây dựng hình ảnh, giọng điệu… trong thơ của tác giả người Kinh! (Nguyễn Hòa, “Nghiên cứu hậu thực dân ở Việt Nam: một nhu cầu thực tế hay một giả vấn đề”, Vanvn.net, 6-8-2016.
(4) Inrasara, Văn học Chăm, khái luận - văn tuyển (3 tập), đã in và tái bản ở nhiều nhà xuất bản khác nhau.
2133
2318
22125
225983
130677
114578926