1. Sự thay đổi nghĩa của tiếng Việt trong vòng 370 năm (từ thời VBL)
Từ thời VBL ra đời (1651), tiếng Việt đã thay đổi phần nào - đây chỉ là hiện tượng rất tự nhiên vì số dân gia tăng, sự ổn định sau thời gian khai phá vùng đất phía Nam (Nam Bộ) cùng với giao lưu ngôn ngữ của các dân tộc ở Nam Bộ và chữ quốc ngữ đã phát triển và trở thành văn tự chính thức thay thế chữ Hán và chữ Nôm truyền thống. Vài thí dụ tiêu biểu sau đây cho thấy một chuỗi kết quả: phạm trù nghĩa có thể hoàn toàn biến mất cho đến hoàn toàn bảo lưu nghĩa vào thời VBL
- sinh thì (nghĩa là chết/VBL) so với sinh thì (sinh thời, dạng này hiện diện sau thập bán thế kỷ XIX cho đến nay) nghĩa là lúc còn sống
- nhân danh dùng trong Kinh Thánh (nhân danh cha ...) bây giờ đã mở rộng nghĩa (nhân danh đạo đức, nhân danh con người ...)
- niễng (niảng - thuyền ghe đi sông) bây giờ không còn dùng nữa
- giáo tiền, giáo gạo (xin tiền, xin bố thí gạo) bây giờ không còn dùng nữa
- bơm (bơm thơm - tóc bờm xờm, bù xù) - bây giờ không còn dùng nữa mà thay thế bằng nét nghĩa ống (máy) bơm từ kỹ thuật Tây phương nhập vào
- ghe nghĩa là nhiều (VBL) bây giờ không còn dùng nữa, thay bằng danh từ ghe (tàu)
- nồng nàn (VBL - khinh dễ) bây giờ có nghĩa tích cực, yêu nồng nàn (say đắm) ...
- non dạ (VBL - buồn nôn) bây giờ hàm ý thiếu suy nghĩ, còn non nớt ...
- lịch sự (vẫn còn duy trì nghĩa thời VBL) là vết tích của khóa học trong Quốc Tử Giám thời nhà Minh (những đợt sóng giao lưu ngôn ngữ Việt Trung)
...v.v...
2. So sánh một số từ trong VBL và từ điển của Béhaine và Taberd
2.1 Từ chỉ thuyền bè
Từ điển VBL có khoảng 9000 mục từ, trong đó có 7 từ chỉ thuyền bè
- tàu
- thuyền
- đò
- mảng
- niểng (niảng)
- bè
- tam bản
Sau đó khoảng 120 năm, từ điển Béhaine (1772) với khoảng 29000 mục từ (so với 31000 mục từ của từ điển Taberd/1838) có 10 từ chỉ thuyền bè
- tàu
- thuyền
- đò
- bè
- ghe
- xuồng1
- sõng
- tam bản
- đà (đại trường đà)
- tiểu điếu (ghe tiểu điếu)
Để ý là tiếng Mường Bi (Thanh Hóa) vẫn còn dùng từ mảng chỉ thuyền nhỏ, không thấy dùng trong Nam Bộ cũng như niểng (VBL). Hai LM Béhaine và Taberd đều soạn tài liệu của mình từ thời kỳ ở Nam Bộ, so với không gian và thời gian khi VBL ra đời. Điều này dẫn đến cách gọi các dân tộc đã đến Nam Bộ khai phá, trong đó có người Trung Hoa - đa phần là Triều Châu cùng với người Phúc Kiến, Hải Nam, Quảng Đông, Khme, Việt Nam (từ Đàng Trong hay Đàng Ngoài) ...v.v...
2.2 Từ chỉ người Trung Hoa
Để chỉ nước hay người Trung Hoa, VBL đã dùng các từ:
- Ngô (nước Ngô, thằng Ngô, bí Ngô)
- Đại Minh (không thấy dùng Đại Thanh trong các tác phẩm còn để lại của de Rhodes)
- Nhà Hán
So với các từ dùng trong từ điển Béhaine và Taberd:
- Ngô
- Đại Minh
- Nhà Hán
- Đại Thanh
- Chệc
- A Chệc
- Tàu
- Khách
Số từ chỉ người TQ đã tăng vọt trong vòng 120 năm từ thời VBL. Khi so sánh VBL và Béhaine, số phần trăm tăng là 267 (%) cho số từ chỉ người TH so với khoảng 322 % tổng số từ tăng: một tỷ lệ rất đáng chú ý! Điều này không làm cho ta ngạc nhiên vì từ khi vua Chân Lạp (1623) cho chúa Nguyễn di dân Việt đến Prey Kor (Sài Gòn) làm ăn, không lâu sau đó là các đợt sóng di dân từ Quảng Đông (Minh Hương) khai phá vùng đất2 chằng chịt sông ngòi và bùn lầy này. Với bản tính chuộng buôn bán, người TH cùng dân bản địa đã tạo nên sinh khí mới cho Nam Bộ với tàu bè qua lại tấp nập. Thành ra, số (danh) từ chỉ người TH dĩ nhiên cũng tăng vọt.
Sau khi đã nhìn bức tranh Nam Bộ một cách tổng quát qua 4 thế kỷ, ta hãy xem lại phạm trù nghĩa của mực, tàu và cấu trúc “mực tàu” trong cùng giai đoạn.
3. Mực (hay mức) có nhiều nghĩa
3.1 Mực là một biến âm của mặc HV, thường là chữ mặc bộ thổ 墨(thanh mẫu minh 明vận mẫu đức 德nhập thanh, khai khẩu nhất đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết
莫北切mạc bắc thiết (TVGT, ĐV)
密北切,音默mật bắc thiết, âm mặc (TV, VH, LT, CV, LTCN 六書正