Theo đó, có thể kể đến một số ngôi tháp còn hiện diện cho đến tận ngày nay tại một số địa phương người Thái, cụ thể là:
1. Tháp Mường Luân
Địa điểm: Bản Mường Luân 1, xã Mường Luân, huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên.
2. Tháp Chiềng Sơ
Địa điểm: Bản Nà Muống, xã Chiềng Sơ, Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên.
3. Tháp Mường Bám
Địa điểm: Bản Lào, xã Mường Bám, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.
4. Tháp Mường Và
Địa điểm: Bản Mường Và, xã Mường Và, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La.
5. Tháp Yên Hòa
Địa điểm: Bản Yên Hòa/Xằng Tờ, xã Mỹ Lý, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An.
Cho đến nay, ngoài Tháp Mường Và, tháp Mường Luân được sửa sang tôn tạo lại, còn hầu hết các tháp khác chỉ còn ở dạng phế tích, đang xuống cấp trầm trọng và có nguy cơ sụp đổ. Có một số vấn đề đặt ra là: Quá trình du nhập của Đạo Phật vào vùng người Thái diễn ra như thế nào?; Nguyên nhânhaylý do nào dẫn đến sự mai một của tín ngưỡng Phật giáo của người Thái tại các địa phương nêu trên?
Và Tại sao hiện nay người Thái ở Việt Nam hầu như không theo tôn giáo nào? ví dụ: Đạo Phật, Đạo Thiên chúa hay Đạo Tin lành?.
Trong gần 10 năm qua, sau một số chuyến nghiên cứu, sưu tầm hiện vật tại Lào (nhất là các chuyến điền dã tại các huyện Sầm Tớ, Viềng Xay, Mường Quăn, tỉnh Hủa Phăn); cùng với một số chuyến điền dã tại một số địa phương người Thái khu vực biên giới Việt-Lào như các huyện Điện Biên Đông (tỉnh Điện Biên), huyện Sốp Cộp (tỉnh Sơn La), huyện Kỳ Sơn (tỉnh Nghệ An), những câu hỏi trên mới phần nào được sáng tỏ. Tôi cũng xin nhấn mạnh rằng, đây chỉ là những ý kiến cá nhân, có tính gợi mở để những nhà nghiên cứu quan tâm tham khảo và cùng chia sẻ.
2. Thông tin chung về các ngôi tháp
2.1. Tháp Mường Luân (được xếp hạng năm 1980): Được xây dựng thế kỷ XVI,kiến trúc theo hình vuông, cao 15,5m, được cấu tạo hai phần: bệ tháp và thân tháp. Bệ tháp mỗi chiều cao 60cm, rộng 80cm, xây bằng hai loại gạch chỉ khác nhau, được trạm khắc hoa văn, hoạ tiết cách điệu rất cầu kỳ thể hiện được sự khéo léo và tinh tế. Từ hàng trăm năm nay, tháp Mường Luân được nhân dân trong vùng coi là “vị thần hộ mệnh” phù hộ cho dân bản sức khỏe, mùa màng bội thu. Trải qua quá trình lịch sử và thời gian, tháp Mường Luân bị xuống cấp nghiêm trọng. Năm 2009, tỉnh Điện Biên đã đầu tư hơn 5 tỷ đồng để trùng tu, tôn tạo, nên tháp mới có được diện mạo mới với diện tích sân tương đối rộng để phục vụ du khách và lễ hội cầu mưa hay cúng tháp vào ngày lễ hằng năm.
2.2. Tháp Chiềng Sơ , xếp hạng năm 2011, được xây dựng vào khoảng thế kỷ XV-XVI, kiến trúc theo hình nậm rượu. Tháp cao 10,5m, phần ngọn tháp dài 1,6m (đã bị gãy), được xây bằng nguyên liệu gạch, vôi vữa mật. Toàn bộ kiến trúc tháp chia thành hai phần: bệ, thân và các tầng của tháp.
Bệ tháp hình vuông, mỗi cạnh 5,3m, cao 0,6m. Hoa văn trang trí trên thân tháp được bố trí thành hai nửa: nửa dưới là một tòa sen có 6 lớp chồng lên nhau, bên trên là những đường nét hoa văn hình chim, hoa lá cách điệu, được bố cục hài hòa, nhất là những con rồng được đắp nổi uốn mình quanh thân tháp. Nửa trên có ba tầng, chính giữa của mỗi tầng được xây phình to ra, trông như hình những búp sen non, giữa chỗ giáp nối mỗi tầng có trang trí hoa văn bằng đất nung hình cánh sen, lưỡi mác, mặt trời và hình hoa lá khác, bên trong các cánh sen và lưỡi mác có đính những miếng gương nhỏ, khi mặt trời chiếu vào tỏa ánh hào quang.
Trước kia, bên cạnh cây tháp có một ngôi chùa nhỏ, nhưng nay chỉ còn lại chân móng.
2.3. Quần thể Tháp Mường Bám, gồm 5 tháp, xếp hạng năm 2012, được xây dựng vào thế kỷ XVI, 1 tháp to ở giữa và 4 tháp nhỏ dựng ở 4 góc tháp to. Mặt trước của tháp hướng ra ngã 3 Nậm Húa, mặt sau tháp là dãy núi. Cả 5 tháp đều được xây bằng gạch vồ màu đỏ, được gắn kết với nhau bằng vôi, cát và mật mía. Các mô típ hoa văn trang trí bằng vữa, đắp nổi, nhiều chỗ gắn họa tiết trang trí bằng đất nung.
Tháp to còn gọi là tháp Mẹ cao 13 m, gồm 4 tầng. Hoa văn trang trí chủ yếu hình voi, hổ, tượng vũ nữ nhảy múa, lá đề, hoa cúc, chuỗi tràng hạt, hình naga 5 đầu, hình hoa sen…đắp nổi. Các tháp nhỏ gọi là tháp Con cao 3,7m, cách tháp to 3m theo cùng một kiểu kiến trúc, kích thước, cũng gồm 4 tầng. Hoa văn tráng trí chủ yếu là mô típ hình lá đề xen kẽ vân mây, hoa cúc. Phần ngọn tháp thon nhỏ dần. Bên cạnh tháp còn vết tích chùa.
2.4. Tháp Mường Và, xếp hạng năm 1998, được xây dựng thế kỷ XVII.Tháp tọa trên một quả đồi (tương truyền do dân đắp) cao 17m, về hướng phía Tây Bắc bản Mường Và. Bên cạnh tháp là Nậm Ca uốn lượn như một dải lụa.Tháp cao 15,6 m, chân móng hình vuông, mỗi chiều rộng 9,2 m, cao 2,6 m. Tháp được xây bằng gạch vồ, kích thước 35 m x 15 cm x 6 cm, được liên kết bởi vôi, cát và mật mía. Tháp có hình trụ vuông, dạng bút tháp, gồm 5 tầng.
Cách tháp khoảng 100m, hiện còn dấu tích nền của 2 ngôi chùa, xây bằng gạch vồ (1 ở phía Tây Nam, cách tháp chừng 50m và 1 ở phía Đông Nam, cách tháp khoảng 100m, cạnh bản Mường Và). Theo lời kể của dân địa phương, trước đây chùa tháp có thờ 8 pho tượng đồng, 4 pho tượng gỗ, 1 tượng thủy tinh, 1 trống gỗ cổ, 1 pho sách cổ.
2.5. Tháp Yên Hòa,chưa được xếp hạng. Ông Lô Văn Liệu (Phó Chủ tịch UBND xã Mỹ Lý) nói rằng: theo các nhà sư ở Lào cho biết, tháp đượcxây dựng vào năm 1008 (còn ông Nguyễn Văn Thanh, Trưởng ban QLDTDT, Sở VH-TT-DL tỉnh Nghệ An cho rằng, tháp được xây dựng thế kỷ VII). Tháp tọa lạc trên một vùng đất khá rộng rãi và bằng phẳng.Tháp cao khoảng 30m, gồm 5 tầng, được xây bằng gạch nung, màu đỏ. Chân đế tháp hình vuông, càng lên cao càng nhỏ thon dần, trên cùng thì nhọn hoắt. Trên mỗi tầng tháp vẫn còn dấu tích của những bức phù điêu và những họa tiết hoa văn hết sức tinh xảo như hình Phật chắp tay, lá đề, hoa dây... được đắp nổi. Theo các cụ già bản Yên Hòa cho biết, trước đây, ngoài ngọn tháp này, trong khu vực còn có 3 ngọn tháp nữa có hình dáng tương tự, nhưng kích thước nhỏ hơn, dựng tại bản Xằng Nưa, bản Tả Lay (bản Hòa Lý hiện nay) và bản Xiềng Tắm, nhưng đã bị đổ sập từ lâu.
Hiện nay, chân tháp Yên Hòa xuất hiện nhiều lỗ thủng lớn, do kẻ xấu đào trộm để tìm tượng đồng đen, nên một góc chân tháp đã sập. Cách chân tháp khoảng 20m còn có một cây bồ đề khá to, cạnh gốc cây này, dân bản xây một bệ thờ, trên đó đặt một pho tượng Phật bằng đồng (do các nhà sư ở Chùa Đại Tuệ, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An cung tiến), mặt trước bệ xi măng có đặt thêm 2 tượng phật nhỏ vốn là di vật của tháp cũ, do dân bản cất giữ để thờ.
3.Bối cảnh xã hội vùng người Thái Tây Bắc và tây Thanh-Nghệ từ thế kỷ XII-XIV và sự hiện diện của Đạo Phật
Cho đến nay, chưa có một nghiên cứu nào kết luận một cách chính xác thời gian du nhập của Đạo Phật vào vùng người Thái Tây Bắc cũng như tây Nghệ An diễn ra như thế nào. Tuy nhiên, như chúng ta biết, Phật giáo đã phát triển hưng thịnh ở nước ta vào thời nhà Lý, kéo dài sang thời nhà Trần, Lê, tức là từ thế kỷ XI-XV, trong khi đó, bắt đầu thế kỷ thứ XII trở đi, vùng người Thái ở Tây Bắc cơ bản đã ổn định và bắt tay vào việc xây dựng bản mường của mình. Đến thế kỷ XV-XVI, toàn miền Tây Bắc có 16 châu mường, nên có tên gọi là khu vực Mường Sáu Châu Thái (Xíp hốc Chụ Tay). Do vậy, muốn tìm hiểu quá trình du nhập của Đạo Phật vào vùng người Thái diễn ra như thế nào, chúng ta hãy đề cập tới một số sự kiện được ghi chép trong các tài liệu, tư liệu sau đây:
- Ở Điện Biên, cho đến thế kỷ XII, người Thái Đen do thủ lĩnh Lạng Chượng dẫn đầu từ Mường Lò tiến quân sang và đã làm chủ đất Mường Thanh (Điện Biên), đặt trung tâm lỵ sở của mường tại bản Thanh Nưa. Các mường thuộc Mường Thanh xưa gồm: Mường Phăng, Mường Nhà, Mường Luân (nơi có ngọn tháp Mường Luân hiện nay), Mường Lói, Mường Lèo; các mường: Sốp Cộp, Mường Và (nay thuộc huyện Sông Mã, Sốp Cộp); Mường U (nay đã thuộc tỉnh Phong Sa Lỳ của Lào). Như vậy, phạm vi Mường Thanh thời bấy giờ còn bao gồm cả một số mường mà nay đã thuộc về đất Lào.
- Trong khi đó, phần lớn Sơn La ngày nay, (bao gồm: Tp. Sơn La, huyện Mộc Châu, Yên Châu, Mai Sơn, Sông Mã, Thuận Châu) trước năm 1479 là lãnh thổ của Vương quốc Bồn Man (gồm Tương Dương, Con Cuông, Kỳ Sơn, Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An; Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa; tỉnh Hủa Phăn của Lào). Năm 1479, các mường Thái nêu trên của Sơn La và Nghệ An chính thức được sáp nhập vào Đại Việt thời vua Lê Thánh Tông, gọi là Trấn Ninh.
- Ở Yên Châu (tỉnh Sơn La), tức Mường Vạt/Wat xưa, được nhắc đến trong Quam tô mương vào thời Lò Lẹt (khoảng thế kỷ XIII), tương đương với thời kỳ người Thái thiên di từ Lào đến địa bàn Mường Xang. Nói về sự xuất hiện tên gọi Mường Vạt hiện có ý kiến cho rằng đó là tên đọc chệch từ chữ “Vắt” hay “Wat” (tiếng Lào), tên gọi Chùa phổ biến ở đất Phật. Người Thái ở Mường Vạt (Yên Châu) di cư từ đất chùa Phật sang (do tránh chiến tranh hoặc cũng có thể theo các đoàn quân của các tù trưởng các mường bên Lào sang đánh chiếm, tranh dành đất đai bên Việt Nam, sau đó ở lại), nên đặt tên mường theo tên quê cũ của mình là Mường Vạt (Wat).
- Ở Mộc Châu (Sơn La), tên Mường Xang/Mường Mók xuất hiện trong truyền thuyết về cuộc di dân lớn của người Thái Trắng vào thế kỷ XIII, do Pha nha Nhọt Chom Cằm làm thủ lĩnh từ Lào sang. Nhọt Cằm lúc nhỏ tên là Khang, sau khi làm chủ vùng đất này mới đặt tên là Mường Khang (mường gang, thép), sau đọc chệch thành Mường Xang. Trung tâm của châu đặt ở Mường Xang nơi có núi Pha khỉ xút (núi sáp ong), đồng thời cho xây dựng chùa Vặt Hồng để dân thờ Phật. Khi xuất hiện Mường Xang thì châu mường này vốn rất rộng đất, bao gồm nhiều mường nhỏ: Mường Chiềng Ký (nay thuộc châu Đà Bắc tỉnh Hoà Bình); Mường Ét, Xiềng Khọ/Chiềng Cọ (nay thuộc nước Lào)… Thời Trần, đất Mộc Châu thuộc lộ Đà Giang. Hiện nay, ở xã Mường Xang, Mộc Châu vẫn có một bản tên gọi là Bản Vặt.
- Ở miền tây tỉnh Nghệ An, tình hình có khác chút ít. Trong bài Bước đầu tìm hiểu lịch sử phân bố cư dân ở miền Tây Nghệ An, TCDTH, số 108, 1974, tr 24, Đặng Nghiêm Vạn có viết: Các nhóm Thái di cư vào vùng đất Nghệ An không thể sớm hơn thế kỷ XII và rất có thể hoài nghi ở vùng trung du Nghệ An và dọc đường 7A, các cư dân có sinh sống liên tục ở đó hay không. Như trên đã đề cập, trước thời Lê (vùng Sơn La thì trước 1479), vùng miền tây Nghệ An lúc bấy giờ có các mường người Thái định cư như Mường Mặt (Kỳ Sơn), Mật Châu (Tương Dương, Con Cuông), Quỳ Châu và Ngọc Ma (có lẽ là Quế Phong ?) đều thuộc đất Bàn Nam tục gọi là Mường Bôn, thường gọi là Bồn Man (1369-1478). Đến thế kỷ XV, Mường Mặt (nơi có ngôi tháp Phật ở bản Yên Hòa, xã Mỹ Lý, huyện Kỳ Sơn), Mật Châu (Tương Dương), Quỳ Châu, Quế Phong mới thuộc hẳn về Đại Việt, nằm trong phủ Trấn Ninh (như đã nêu trên). Một số mường còn lại của Bồn Man nhập vào vương quốc Lạn Xạng của chậu Phà Ngừm.
Như vậy, từ những cứ liệu đã trình bày ở trên, chúng ta thấy, từ thế kỷ thứ XII trở đi, xã hội Thái vùng Tây Bắc cũng như tây Thanh-Nghệ cơ bản đã đi vào ổn định. Nói cách khác, từ thế kỷ XII trở đi, xã hội Thái đã khép lại thời kỳ Tạo tìm mường, bắt đầu mở ra thời kỳ Tạo ăn mường. Các vùng biên viễn tạm thời ổn định, Đạo Phật có điều kiện phát triển và mở rộng sang phía đông của Lào, nên các ngôi tháp mới dần được xây dựng.
Có một số điểm chung mà ta có thể nhận diện được trong thời kỳ này là:
- Địa giới và phạm vi các mường của người Thái vùng Tây Bắc và Tây Thanh-Nghệ không chỉ bao gồm và giới hạn bên Việt Nam, mà còn được mở rộng sang địa phận của các mường người Thái bên Lào. Điều dễ hiểu là thời bấy giờ chưa có một mốc phân chia ranh giới giữa hai bên, nên người Thái (và các tộc khác nữa) cư trú trong phạm vi các mường nêu trên, ngoài duy trì thực hành tín ngưỡng thờ ma nhà, còn theo cả tín ngưỡng thờ Phật.
- Trên thực tế, các địa phương có các ngôi tháp nêu trên đều là những địa phương giáp với biên giới giữa hai nước Việt-Lào.
- Vào thời bấy giờ, Đạo Phật cũng mới chỉ du nhập vào những mường giáp ranh của người Thái Việt Nam và Lào, mà vị trí của các ngôi tháp nêu trên chứng minh điều đó. Còn các mường Thái nằm sâu trong nội địa bên phía Việt Nam như: Mường La, Mường So, Mường Tấc hay Mường Lò..., (ở Tây Bắc); Xiêng Mi, Xiêng Men, Xiêng Lăm hay Mường Noọc, Mường Quang...(ở tây Nghệ An) thì do thế lực của các chúa mường lớn, cộng thêm áp lực của chính quyền trung ương và ảnh hưởng các yếu tố văn hóa của dân tộc khác (Kinh, Tày, Mường), nên Đạo Phật khó du nhập. Điều này là lý do giải thích vì sao chùa tháp lại vắng bóng tại các mường nằm sâu trong nội địa phía đông nêu trên.
- Về niên đại, theo những thông tin đã nêu trên, các tháp vùng Tây Bắc đầu được xây dựng vào thế kỷ XVI. Tuy nhiên, căn cứ vào bối cảnh lịch sử như trình bày trên, tôi nghi ngờ rằng,các ngôi tháp này có thể được xây dựng sớm hơn, tức vài từ khoảng cuối thế kỷ XI, đầu XII đến cuối thế kỷ XIV, phù hợp với thời kỳ Tạo ăn mường. Còn từ thế kỷ XV trở đi, các mường/các vương quốc nhỏ dọc theo biên giới giữa Việt Nam và Lào đều đã thuộc về Đại Việt. Sang thế kỷ thứ XVI, bắt đầu vào thời kỳ Trịnh-Mạc phân tranh, rồi bước sang thời kỳ phò Lê diệt Trịnh, đất nước rối ren, chiến tranh liên miên, vùng biên giới không thể nhàn rỗi để xây dựng chùa tháp được. Riêng ngôi tháp ở Yên Hòa, Kỳ Sơn, Nghệ An có lẽ được xây dựng vào thế kỷ XI hoặc có thể sớm hơn, như ý kiến đã nêu trên.
4. Lý giải về sự mai một của Đạo Phật vùng người Thái
Ở vùng Thái Tây Bắc, sau khi bước vào thời kỳ xây dựng bản mường, các chúa mường Thái một mặt không ngừng củng cố địa vị, quyền lực, mặt khác tìm cách mở rộng và bành trướng thế lực ra các vùng xung quanh, kể cả sang phía tây. Tuy nhiên, điều trở ngại nhất mà các chúa đất Thái vấp phải chính là bức tường tín ngưỡng. Theo đó, nếu như về truyền thống, người Thái chỉ thờ ma nhà và cúng bản, cúng mường vốn đại diện là Then Phạ-đấng tối cao nhất, thì cư dânThái ở phía tây lại tôn sùng tín ngưỡng Phật giáo, nên để giữ được quyền lực thế tập của mình, đồng thời tiếp tục quy tụ được dân chúng vào quá trình xây dựng bản mường, các chúa mường và phìa tạo Thái chủ trương tìm cách ngăn cản ảnh hưởng và sự du nhập của đạo Phật về phía đông. Vì thế, ngoài 4 ngôi tháp nêu trên, không có ngôi tháp nào được xây dựng tại các mường nằm sâu trong nội địa.
Cũng cần nêu thêm rằng, từ sau thế kỷ XV trở đi, mặc dù vẫn do các chúa mường điều hành, quản lý, song ảnh hưởng và thế lực của triều đình phong kiến trung ương đã bắt đầu lan tỏa dần tới vùng người Thái Tây Bắc. Thêm vào đó, sau khi bình định được miền Tây Bắc (1897), người Pháp chủ trương không khuyến khích người Thái theo đạo Phật, mà tăng cường truyền bá đạo Thiên Chúa vào các vùng dân tộc thiểu số, trong đó có vùng Tây Bắc, tây Thanh Hóa, Nghệ An. Tuy nhiên, như ta thấy, hiện nay ở vùng Tây Bắc, trừ người Kinh ở Mường Lò-Văn Chấn, Nghĩa Lộ; ở Sa Pa có thờ, còn lại người Thái ở các Mường lớn vùng Tây Bắc không theo Thiên Chúa giáo (2). Vì thế, đạo Phật không có điều kiện mở rộng, thời kỳ đầu những nơi có chùa tháp, người dân vẫn thăm nom, hương khói, nhưng sau này, nhất là từ sau 1975, các ngôi tháp lâu ngày xuống cấp, rồi dần bị bỏ hoang. Mãi sau những năm 1980 của thế kỷ trước đến sau những năm 1990 trở lại gần đây, các ngôi tháp ở vùng Tây Bắc mới được sử chữa, trùng tu phần nào và được xếp hạng.
Điều này cũng giống như tư liệu về trường hợp của người Tày Đeng bên Hủa Phăn (lào) mà chúng tôi đã thu thập được trong đợt điền dã năm 2013 tại Mường Xôi. Thuở ban đầu, cư dân Mường Xôi là người Lào theo đạo Phật. Hiện phế tích chùa tháp vẫn còn. Đến thời Pháp, người Tày Đeng ở Việt Nam di cư sang sống xen kẽ, nhưng họ không theo đạo Phật, mà chỉ thờ ma nhà. Năm 1928, Pháp đã xây nhà thờ ở bản Tén, đồng thời cử một cha cố tên là Pó Vòng quản lý Mường Xôi, tuyên truyền vận động bà con người Tày Đeng theo đạo Thiên chúa, thờ Jê Su. Vì thế, thời đó, hầu hết dân Tày Đeng đều theo đạo thiên chúa. Do khác biệt về tôn giáo và văn hoá, người Tày Đeng và người Lào thường xẩy ra xung đột, nên năm 1935, chính quyền Pháp tỉnh Hủa Phăn bắt người Lào phải di rời đi nơi khác. Sau khi Pháp thất bại năm 1945, người Tày Đeng bỏ đạo Thiên chúa, quay lại thờ ma nhà.
Các tư liệu điền dã mà tôi thu thập được tại vùng Tương Dương trong những năm trước đây, do các cụ già người Thái cung cấp cũng cho thấy: Trước kia, vùng Tương Dương, Kỳ Sơn (vùng đường 7A) đã từng tồn tại 8 ngôi chùa Phật (chưa tìm được địa điểm cụ thể ở đâu), do các sư sãi người Lào, người Thái Lan trụ trì, trông nom. Nghe nói, những nơi có chùa, cứ đến tết cơm mới hay lễ cúng bản, cúng mường, bà con người Thái mang hoa quả, xôi bánh vào chùa dâng cúng. Sau này (có lẽ khoảng từ 1925-1935?), do muốn truyền Đạo Thiên chúa, các sư sãi bị chính quyền Pháp tẩy chay, nên phải bỏ chùa trở về Lào, từ đấy, các ngôi chùa bị bỏ hoang dần. Ông Lô Văn Minh (bản Xốp Tụ, xã Mỹ Lý) kể: Ngôi tháp này được một vị sư tăng người Lào trông nom, chăm sóc và hương khói quanh năm. Vào ngày rằm và mồng một hằng tháng, người dân Yên Hòa và các bản khác trong vùng thường đem lễ vật, hương nhang, đèn nến đến cầu cúng xin bình an, phúc lộc. Theo bà con bản Yên Hòa kể thì năm 1968, bờ rào bằng tường xây xung quanh tháp vẫn còn nguyên vẹn. Phía trong bờ rào có nhiều bức tượng đồng và đá trắng to bằng người lớn dựng kín xung quanh tháp. Phía sau có một ngôi miếu thờ, trên đỉnh tháp có một viên ngọc phát sáng vào ban đêm, trông rất đẹp.
Những năm chiến tranh, dân bản sơ tán vào rừng sâu tránh máy bay Mỹ, nên những bức tượng này bị kẻ xấu lấy trộm.Sau năm 1975, trào lưu đi tìm đồng đen bán sang Trung Quốc ở vùng núi Nghệ An khá sôi động, các ngôi chùa, tháp bị đập phá, đào bới, tan hoang, hầu hết các pho tượng Phật bị lấy đi, nên không còn ngôi chùa tháp nào nguyên vẹn. Trong cuốn Lịch sử Đảng Bộ huyện Tương Dương, (1945-2010) do NXBLLCT, Hà Nội in năn 2015, tr 25 có viết: Cho đến năm 1958, một số bản (người Thái-TG) ở Tà Cạ, Keng Đu (Kỳ Sơn), bản Nhăn, bản Lau (xã Thạch Giám, Tương Dương), bà con vẫn còn cúng Phật.
5. Thay lời kết
Đã có một thời, một bộ phận người Thái (khu vực biên giới với Lào) của vùng Tây Bắc và tây Nghệ An theo đạo Phật. Biểu hiện sự có mặt của một số ngôi tháp và chùa. Các ngôi tháp này được xây dựng từ khoảng cuối thế kỷ XI-XIV, gắn với thời kỳ kết thúc Tạo tìm mường, bắt đầu thời kỳ Tạo ăn mường (bao gồm cả các vùng đất thuộc phạm vi bên Việt Nam và các mường phía đông của Lào). Tuy nhiên, chùa tháp chỉ mới du nhập vào đến các mường Thái sát biên giới.
Do để củng cố quyền lợi và vị thế, nên các chúa mường Thái chủ trương không duy trì đạo Phật. Tiếp đó, bên cạnh ảnh hưởng của triều đình trung ương, đến thời Pháp, do chủ trương hạn chế và tẩy chay sự du nhập của đạo Phật, trong khi khuyến khích người Thái theo đạo Thiên Chúa, nên Phật giáo ngày càng bị lãng quên, sau này, vốn chỉ thờ ma bản, ma mường, nên người Thái đã dần từ bỏ đạo Phật, các ngôi chùa, tháp cũng dần bỉ hoang phế và chỉ được sửa sang lại hơn mươi năm trở lại đây ở vùng Tây Bắc như đã nêu trên.
Chú thích:
(1). Có thể kể đến: Lê Văn Lan, Nguyễn Duy Chiếm, Cầm Trọng, Lệ Thi...; Thiên Thạch, Nhật Lân, Đào Tuấn (Báo Nghệ An); Vu Toàn-Hồ Văn (TC Du lịch Xứ Nghệ)…Quốc Lê, Thanh Tâm…(Báo Sơn La)
(2). Thời Pháp, vùng người Thái Mường Đèng, Yên Khương, Lang Chánh Thanh Hóa có một nhà thờ Thiên Chúa; ở bản Xiềng Nữa, xã Đôn Phục, huyện Con Cuông; bản Cánh Tráp, xã Tam Thái; bản Khe Kiền, xã Lưu Kiền cũng đã có nhà thờ Thiên Chúa; nhà nguyện ở bản Nhôn Mai, xã Nhôn Mai (đều thuộc huyện Tương Dương), nhưng sau khi Pháp thất bại 1954, người Thái cũng bỏ đạo luôn, các nhà thờ này cũng bị dần bị quyên lãng, bị đập phá. Đến năm 1958, bản Cánh Tráp, xã Thạch Giám, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An còn có 45 hội, 256 giáo dân là người Thái theo đạo Thiên Chúa, nhưng nay không còn người nào theo nữa. (Lịch sử Đảng Bộ huyện Tương Dương, (1945-2010) do NXBLLCT, Hà Nội in năn 2015, tr 25).
Tài liệu tham khảo
1. Vi văn An, Tư liệu điền dã năm 2013, tại huyện Mường Xôi (Lào);
2. Hà Văn Chung, Mấy vấn đề Phật giáo của người Thái ở Việt Nam
TC. Dân tộc & Thời đại, số 168-169, tháng 7,8/2014;
3. Dương Văn Mạnh, Trần Thị Thanh Hà, Văn hóa và ngôn ngữ các dân tộc trong sự giao thoa giữa các quốc gia Đông Nam Á (Kỷ yếu Hội thảo quốc tế). Nxb Đại học Thái Nguyên, H, 2016;
4.Lịch sử Đảng Bộ huyện Tương Dương, (1945-2010). NXBLLCT, H, 2015.