Các phi công Tôn và Sâm thuộc trung đoàn Không quân tiêm kích 921 đóng tại Thọ Xuân. Hôm nay là ngày bay đầu tiên của Sâm, anh có nhiệm vụ hộ vệ cho biên đội trưởng Tôn. Đối với Tôn, mỗi chuyến bay đều quan trọng, vì sự kỳ vọng vào anh là cao.
Về Đinh Tôn
Đinh Tôn mới quay về Việt Nam 4 tháng trước, sau ba năm nâng cao trình độ bay tại Liên Xô. Anh nhiều tuổi hơn, và có kinh nghiệm hơn so với các bạn cùng lớp. Sinh năm 1936, Tôn đã khai tăng tuổi của mình để nhập ngũ chống quân Pháp vào năm 1951. Anh được đào tạo thành phi công năm 1955, và năm 1960 đã bắt đầu 2 năm bay trên chiếc Li – 2, một máy bay vận tải.
Năm 1962, Tôn bắt đầu nếm trải không chiến. Khi trở về từ một chuyến bay tiếp tế hàng, anh đã gặp một chiếc tiêm kích của Mỹ. Tôn tăng tốc và đưa máy bay mình lên một độ cao, để rồi bay phía sau chiếc máy bay Mỹ. Nếu chiếc Li-2 của anh có vũ khí, chắc là Tôn đã đạt được một vị trí tuyệt vời để giành một chiến thắng.
Sau Sự kiện Vịnh Băc Bộ, Mỹ đã tằng cường các cuộc ném bom vào các tháng sau, Tôn được tuyển chọn đi học chuyển loại sang MiG -21. Vào tuổi 29, anh trở thành lớn tuổi nhất lớp. Ở đầu bên kia của giải quang phổ tuổi tác là Phạm Phú Thái, người sẽ bắn rơi tới bốn chiếc tiêm kích của Mỹ trong một tháng (tháng 7/1972), lúc đó chưa tròn 16 tuổi, khi lớp của anh và Tôn sang đến Liên Xô. Khi những học viên bay giỏi nhất của lứa lái MiG – 21 ấy (gồm Tôn, Thái, Hà Quang Hưng, và Lương Thế Phúc) về đến nhà ngày 20/2/1968, kỳ vọng vào họ là cao.
Đã 32 tuổi, lớn nhất nhóm, Tôn đã sắn sàng. Anh đã hạ được ba máy bay của đối phương vào tháng 4, tháng 5 và tháng 6 năm 1968. Nhưng hôm ấy, 16/6/1968, Đinh Tôn tập trung toàn tâm toàn ý vào chuyến bay đang thực hiện.
Trên bầu trời Nghệ An 16 tháng 6 1968
Khi Tôn và Sâm tiếp tục bay về phía nam, qua Nghĩa Đàn tại độ cao 1500m, radar của đài chỉ huy mặt đất bắt được mục tiêu là các tiêm kích của Hải quân Mỹ bay từ phía biển theo hướng tây trên không phận Nghệ An. Họ báo ngay cho Tôn và Sâm, và hai phi công này đã được tạo một thời cơ công kích tuyệt vời.
Nhìn về phía trước, ở phía nam, Tôn nhận thấy một tiêm kích của Mỹ rời khỏi phía nam dịch chuyển theo hướng đông, theo hướng quay trở lại biển. Anh nhanh chóng tiếp cận từ phía sau, bắn một quả tên lửa không đối không, loại chiếc phản lực Mỹ này khỏi vòng chiến. Chiếc này rơi xuống trong quầng lửa đỏ. Vào 16/6/1968, Tôn đã bắn hạ chiếc máy bay Mỹ thứ tư, chỉ bốn tháng sau khi kết thúc khóa huấn luyện phi công MiG -21 tại Liên Xô.
50 năm đã qua.
Quan hệ của tác giả bài viết với sự kiện này là: cha tôi, Gene Wilber, là người phi công trên chiếc máy bay mà Đại úy Tôn bắn rơi ngày 16/6/1968. Chỉ vài phút sau khi bị bắn trúng máy bay, ông Gene Wilber đã bị bắt trên đất Nghệ An. Sau đó ông trải qua chuyến đi nhiều ngày về tới nhà giam tại Hà Nội. Gene Wilber sẽ chuyển biến theo hướng đưa ra nhiều phát ngôn chống chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, rồi ông được trao trả, bình yên đoàn tụ với gia đình sau khi Hiệp định Paris 1973 được ký kết. Sau một quãng đời dài chung sống với đại gia đình, có tới 20 cháu và 10 chắt, Gene Wilber đã mất vì ung thư tháng 7/2015 tại nhà riêng.
Một vài điều tôi học được từ người Việt
Tôi bắt đầu các chuyến đi sang Việt Nam từ 2014, tìm kiếm thông tin và kiểm định các dữ kiện trong trải nghiệm của cha mình, bao gồm cả hoàn cảnh lịch sử của các sự kiện diễn ra hôm 16/6/1968, được đề cập trong bài này.
Trong quá trình của một số chuyến đi Việt Nam, tôi đã kết bạn được với đại tá phi công đã về hưu Nguyễn Văn Sửu. Khi tìm kiếm thông tin về Đinh Tôn, ông Sửu, người công tác cùng phi đội với Đại tá Tôn năm 1980, đã cho tôi hay là ông Tôn được chẩn đoán bị ung thư, và đã từ trận khi mới hơn 40 tuổi.
Ông Sửu tiếp tục giúp tôi. Ông đã sắp xếp để tôi được gặp Trung tướng đã về hưu Phạm Phú Thái, người đã tóm tắt cho tôi các sự kiện không chiến kể từ 16/6/1968. Ông Thái đã tổ chức cuộc gặp này tại Bảo Tàng không quân Hà Nội hôm 28/3/2016. Tôi đã phấn khởi và vinh dự vì ông Thái đã thu xếp mời được tới cuộc gặp này một vị khách đặc biệt: bà Trần Thị Diên Hồng, người vợ góa của Đại tá Đinh Tôn. Vì tôi đã không thể gặp được ông Đinh Tôn nữa, tôi rất biết ơn những nỗ lực đưa bà Hồng ra gặp tôi ở Hà Nội..
Câu chuyện gia đình mà bà Hồng chia sẻ đã cuốn hút sự chú ý của tôi. Bà và ông Đinh Tôn là người cùng làng. Khi ông được về phép thăm quê hương, ông đã hỏi cô gái trẻ cùng thôn Trần Thị Diên Hồng làm vợ. Họ đã đính hôn nhưng do nhiệm vụ thời chiến, đã sống xa nhau, kể cả thời kỳ ông học lái MiG 21 ở Liên Xô. Lúc đó, bà làm nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe thương binh, còn ông làm nhiệm vụ bay bảo vệ Tổ quốc. Vào tháng 6/1968, chỉ huy đơn vị hẳn muốn tạo một động cơ một cách tự nhiên, không thúc ép, đã bảo Đinh Tôn là nếu anh bắn được thêm một máy bay Mỹ nữa, thì sẽ cho về phép để lấy vợ. Vài ngày sau, Đinh Tôn đã bắn rơi máy bay của bố tôi, đó là hôm 16/6/1968. 27/7/1968, Đinh Tôn và Trần Diên Hồng thành hôn.
Đinh Tôn và Trần Diên Hồng và gia đình.
Cuộc sống của họ trong những năm chiến tranh không dễ dàng. Họ thường xuyên phải sống xa nhau dù đã là vợ chồng, điều kiện để hội ngộ là vô cùng khó khăn, do họ đều có những chức trách đáng kể trong thời chiến. Năm 1969 họ sinh hạ được một bé gái, nhưng đã mất sớm, khi mới 4 tuổi. Rồi họ có được một con trai, rồi sau khi chiến tranh với Mỹ kết thúc, thêm một gái. .
Với sự giúp đỡ của ông bà, hai vợ chống đã nuôi con khôn lớn trong những năm chiến tranh nối tiếp. Trần Diên Hồng từng đạp xe đạp 200 km từ Thanh Hóa về Hà Nội, nhiều khí chỉ kịp gần chồng có một đêm. Tôn nhiều khi cũng quá bận rộn với nhiệm vụ bay, và chỉ có thể thăm con được 15 phút. Tôi đã được biết nhiều chi tiết sống động do vinh dự được bà Hồng mời về thăm nhà của gia đinh tại thành phố Hồ Chí Minh. Tôi cũng được biết thêm nhiều nhờ các cuộc gặp với các phi công Nguyễn Văn Cốc, và Hà Quang Hưng. Thông tin qua lời kể của các ông Phạm Phú Thái, Nguyễn Văn Sửu, cùng các sách viết các tác giả Nguyễn Sỹ Hưng và Nguyễn Nam Liên, Phạm Phú Thái và Đặng Vương Hưng cung cấp nhiều chi tiết về các chuyến bay.
Bà Hồng trong hồi ức của mình đã mô tả những chi tiết quan trọng nhất vô cùng sống động. Bà tỏ ra luôn kiên định, ân cần, luôn thấm đậm tinh thần hòa giải. Tôi sẽ luôn biết ơn bà Hồng đã chia sẻ các hồi ức về ông Đinh Tôn với tôi.
Tác giả Tom Wilber nghiên cứu tư liệu về tù binh Mỹ tại Việt Nam dân chủ cộng hòa trong thời gian 1964 – 1973. Ông đã đi khoảng 20 chuyến sang Việt Nam, tới nhiều địa phương, và thực hiện các cuộc phỏng vấn. Ông hiện là một giảng viên thỉnh giảng, dạy môn Đường lối đối ngoại của Mỹ, tại Đại học Hà Nội. Ông đã hỗ trợ Khu di tích Lịch sử Hỏa Lò trong các cuộc triển lãm của bảo tàng này, cũng như tạo điều kiện cho công tác thu thập các hiện vật lịch sử và hổi ức của các phi công Mỹ thuộc nhà tù Hỏa Lò để phục vụ các trưng bày trong tương lai.
[1]http://vietnamnews.vn/sunday/features/450038/remembering-dinh-ton-50-years-later.html