Những góc nhìn Văn hoá

Người say mê “giải cấu trúc” và mở rộng đường biên

Khi nói/khi viết về GS.TS. Trần Đình Sử không ít bạn bè, đồng nghiệp và học trò của ông thường gắn thêm một phụ danh nào đó. Ví như, Trần Đình Sử - nhà thi pháp học (Chu Văn Sơn), Trần Đình Sử - người của sự kiện (Lã Nguyên), Trần Đình Sử - kẻ trồng người không mệt mỏi (Phùng Ngọc Kiếm), Trần Đình Sử - người múa gươm dưới trời mưa (Đỗ Minh Tuấn) …, và ở bài viết này, tôi muốn tiếp tục tìm kiếm thêm vài phụ danh mới của ông.  

1. Trần Đình Sử - người mê “giải cấu trúc”

Có một thời chúng ta đã tin có những chân lí tuyệt đối, những thực thể bất biến, những cấu trúc bền vững, không thay đổi qua những biến thiên của đời sống, của thời gian. Nhưng thực tiễn đã chứng minh rằng, không có gì là tuyệt đối, không có gì là bất biến. Ngay một thực thể đã được định danh, tồn tại độc lập cũng không tuyệt đối là chính nó. Trong nó đã bao hàm cái khác nó, thậm chí còn đối lập với nó. Trào lưu tư tưởng giải cấu trúc như là một sản phẩm tất yếu của thời hiện đại, thời của những đảo lộn, đổ vỡ, bất định, biến thiên khó lường trong đời sống toàn nhân loại từ nửa cuối thế kỷ XX. Giải cấu trúc trước hết là thái độ đối với nhận thức, là ý thức phản tư, là nỗ lực giải thiêng những cái được cho là bất biến, là chân lí vĩnh hằng nhằm làm rõ những khía cạnh bất hợp lí, những điểm mù, phát hiện những vấn đề mới trong sự vận động không ngừng của vạn vật trong tự nhiên cũng như trong đời sống nhân loại. Với tinh thần đó, trong lĩnh vực nghiên cứu văn học, “Giải cấu trúc đòi hỏi phải viết lại văn học sử, viết lại lí luận, đọc lại người trước với  tính khoa học, phát hiện mọi ngộ nhận, mọi thành kiến, phát hiện những nhận thức mới, chân lí mới, đưa người đọc vào những tìm tòi mới”[1]. Nhìn lại hành trình nghiên cứu văn học trong ngót bốn mươi năm qua của GS.TS. Trần Đình Sử, tôi nhận thấy ông là người mê giải cấu trúc hay nói cụ thể hơn, ông nghiên cứu văn học theo tinh thần giải cấu trúc.

Trần Đình Sử xuất hiện trên diễn đàn văn học khá muộn. Ngoài tuổi bốn mươi ông mới đăng bài đầu tiên trên tạp chí Văn học số 5/1981: “Thời gian nghệ thuật và cảm quan hiện thực của Nguyễn Du trong Truyện Kiều”. Dù muộn nhưng ngay bài đầu tiên ấy ông đã tạo được ấn tượng mạnh bởi cách tiếp cận mới, phương pháp nghiên cứu mới với những thuật ngữ mới và thao tác mới. Đó là hướng tiếp cận thi pháp học, một khoa học nghiên cứu văn học từ bình diện nghệ thuật, khác hẳn với phương pháp phê bình xã hội học đương thời. Nếu phê bình xã hội học nhìn nhận văn học từ bình diện xã hội, coi văn học là một bộ phận trong ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội thì thi pháp học coi văn học là một hiện tượng nghệ thuật, nó là một thế giới có cấu trúc nội tại và quy luật nội tại, tuy nhiên nó vẫn có quan hệ với đời sống hiện thực. Có thể nói, với thi pháp học, Trần Đình Sử đã bước đầu “giải cấu trúc” phương pháp phê bình xã hội học, một phương pháp đã bộc lộ nhiều điểm bất cập, cản trở sự sáng tạo và tính đa dạng của văn học Việt Nam thời kì 1945 -1985.

Tinh thần giải cấu trúc của Trần Đình Sử cũng được thể hiện khá sớm trong cuốn giáo trình Lí luận văn học[2], tập 1 xuất bản từ thời điểm tiền đổi mới. Trong cuốn giáo trình này, ông đã mạnh dạn trình bày “Tính quốc tế và tính nhân loại của văn nghệ”, coi hình tượng nghệ thuật là “khách thể tinh thần”  “vừa phản ánh, nhận thức đời sống, lại vừa là một hiện tượng kí hiệu giao tiếp”[3] và đưa tiếp nhận văn học vào trung tâm của lí luận văn học. Đây là những nỗ lực đầu tiên của Trần Đình Sử trong việc đổi mới lí luận văn học theo hướng khai thác các bình diện quan hệ mới của văn học mà bước đầu là quan hệ giữa tác phẩm với tác giả, tác phẩm với bạn đọc, nhấn mạnh tính kí hiệu và tính thẩm mĩ của hình tượng. Từ các bình diện này, ông nhấn mạnh về vai trò của chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận, chỉ ra thế giới nghệ thuật là một chỉnh thể có cấu trúc nội tại dùng để chuyển tải thông điệp về nhân sinh. Mấy năm sau, trong không khí cởi mở của thời Đổi mới, ông có điều kiện đào sâu hơn các bình diện này qua các tiểu luận: “Phương diện chủ quan của phản ánh và đặc trưng của văn nghệ”, “Tính mơ hồ, đa nghĩa của văn học”, “Nghệ sĩ như một phạm trù thi pháp”, “Tiếp nhận - bình diện mới của mới của lý luận văn học”[4].

Tinh thần giải cấu trúc được thể hiện tập trung nhất ở những những viết của ông về lí luận văn học Marxist trong tầm nhìn hiện tại được in trong tập tiểu luận Trên đường biên của lí luận văn học[5]. Nhìn nhận lại toàn bộ hệ thống lí luận văn học Marxist đã từng chiếm địa vị độc tôn ở các nước Xã hội chủ nghĩa hơn nửa thế kỉ qua, Trần Đình Sử không có ý phủ nhận hay giải thể hệ thống lí luận ấy mà chỉ muốn nhìn nhận lại một cách khách quan và toàn diện hơn.

Lí luận văn nghệ Marxist trên thế giới được hình thành trên cơ sở triết học C. Marx, F. Enghen, V. Lenin và những ý kiến của họ bàn về văn học nghệ thuật đăng tải rải rác trong nhiều bài viết và được các nhà nghiên cứu mĩ học, lí luận nghệ thuật hệ thống hóa thành những nguyên lí cơ bản. Xuất phát từ những mục đích và quan điểm tiếp nhận khác nhau mà có nhiều khuynh hướng lí luận văn nghệ Marxist khác nhau. Ở Việt Nam, lí luận văn nghệ Marxist được tiếp nhận chủ yếu qua phiên bản của các nhà lí luận văn nghệ Liên Xô và Trung Quốc. Một số nguyên lí cơ bản đã được thể hiện qua Đề cương văn hóa năm 1943, Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam[6] (1949) do Trường Chinh soạn thảo và cuốn Văn học khái luận[7] (1944) của Đặng Thai Mai. Những năm sáu mươi của thế kỉ XX, bộ sách Nguyên lý mỹ học Marx - Lenin do Viện Triết học và Viện Lịch sử nghệ thuât thuộc Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô biên soạn được trích dịch và xuất bản thành nhiều tập mỏng[8] và cuốn Nguyên lý lý luận văn học[9] của Timofeev cũng được dịch và trở thành tài liệu quan trọng để biên soạn các giáo trình lí luận văn học ở Việt Nam. Vì coi những nội dung trong các tài liệu trên là nguyên lý/chân lý nên suốt một thời gian dài những người làm công tác nghiên cứu văn học ở nước ta chỉ việc tiếp thu và quán triệt sâu sắc chứ không ai dám nghi ngờ tính khoa học hoặc tính thực tiễn của nó. Mãi đến khi hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu hoàn toàn sụp đổ và hệ tư tưởng Marx – Lenin bộc lộ những mâu thuẫn, bất cập với thực tiễn thì lí luận văn nghệ Marxist cũng cần phải nhìn nhận lại một cách nghiên túc, khách quan và khoa học.

Những năm đầu khi công cuộc đổi mới ở nước ta được khởi xướng, một số nhà lí luận phê bình văn nghệ đã mạnh dạn nhìn nhận lại một số vấn đề như: Quan hệ giữa văn nghệ và hiện thực, quan hệ giữa văn nghệ và chính trị, phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa…nhưng ngay lập tức vấp phải những phản ứng từ nhiều phía, thậm chí còn bị chỉ trích quy kết. Vì vậy từ sau năm 1990, việc đổi mới lí luận văn nghệ ở nước ta diễn ra một cách âm thầm, tự phát, thiếu tính hệ thống, dè dặt, nửa vời. Tuy giới lí luận phê bình văn nghệ đã thưa dần nhắc đến tính giai cấp, tính đảng, phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, thưa dần thế giới quan quyết định sáng tác, văn nghệ phục vụ chính trị…nhưng vẫn không dám công khai khước từ những cái đã lỗi thời ấy. Trước tình trạng đó, nhà lí luận phê bình Trần Đình Sử cho rằng: “xem xét các nguyên lí văn học Marxist theo tầm nhìn đổi mới là công việc không thể thoái thác”[10] và ông đã dũng cảm làm cái công việc khó khăn ấy trong hơn mười năm gần đây. Ông viết một loại bài có tính hệ thống và có tư tưởng học thuật nhất quán để xem xét lại nguyên lí văn học Marxist ở nước ta: Mấy vấn đề lí luận văn học Marxist ở Việt Nam nhìn từ hôm nay, Văn học và ý thức hệ xã hội, Phản ánh luận trong tầm nhìn hiện tại, Vấn đề phương pháp sáng tác trong tầm nhìn hiện tại, Lí luận văn học Marxist trong bối cảnh toàn cầu hóa…

Với tầm nhìn hiện tại, bằng kiến văn sâu rộng và một thái độ khách quan, Trần Đình Sử đã chỉ ra những cách hiểu giản đơn, nhầm lẫn về phản ánh luận, về nguyên lí văn học là một hình thái ý thức xã hội, về phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa. Vấn đề cốt lõi xuyên suốt những quan niệm lệch lạc đó là cách hiểu giản đơn về nguyên lí văn học phản ánh hiện thực, chỉ coi phản ánh là sự tái hiện, là phản chiếu, là ghi lại hiện thực cuộc đời. Để phản biện những cách hiểu giản đơn và nhầm lẫm đó, Trần Đình Sử đã dựa vào những lí thuyết mới về nhận thức luận trong thế kỉ XX như “nguyên lí bất định” trong cơ học lượng tử, lí thuyết thần kinh tri nhận, lí thuyết kiến tạo, lí thuyết ngôn ngữ - kí hiệu …Những lí thuyết ấy đã đưa lại nhận thức đúng đắn và toàn diện hơn về phản ánh: phản ánh phụ thuộc vào khách quan lẫn chủ quan; phản ánh không phải là sao chép mà là mã hóa, giải mã và kiến tạo. Giác quan của con người không “chụp ảnh” sự vật mà giải mã sự vật; hình ảnh trong tâm trí con người là kết quả của quá trình kiến tạo vừa có cội nguồn khách quan vừa có cội nguồn chủ quan, là kí hiệu của sự vật. Con người phản ánh thế giới không chỉ bằng cảm giác mà bằng cả hệ thống kí hiệu kiến tạo thế giới. Khi soi vào thực tiễn lí luận phê bình văn  nghệ Việt Nam, Trần Đình Sử đã chỉ ra: “Một thời gian dài nhiều người trong chúng ta chỉ bám vào một số câu chữ thiếu chính xác của Lenin mà hình thành một quan niệm máy móc, giản đơn về phản ánh, coi đó là lí luận duy nhất đúng về nhận thức, là lí luận về ý thức xã hội, đem vận dụng vào lĩnh vực nghệ thuật, xem nghệ thuật là sự phản ánh sao chép đời sống xã hội, gây rất nhiều ngộ nhận và tranh cãi”[11].

Văn học phản ánh hiện thực là một nguyên lí cơ bản của lí luận văn học, không thể phủ nhận. Nhưng phản ánh cái gì và phản ánh như thế nào lại là chuyện khác. Theo Trần Đình Sử, “văn học phản ánh hiện thực là phản ánh các hiện tượng mang nghĩa của hiện thực, chứ không phải phản ánh hình ảnh hiện thực hay “sự thật hiện thực”[12]. Hiện thực mà văn học hướng tới là thế giới trong quan hệ với con người; là sự trải nghiệm của con người với bao cảnh huống, bao tâm trạng, bao số phận; là mối quan tâm của con người về tương lai, về những khả năng của đời sống. GS.Trần Đình Sử rất tâm đắc khi đưa ra nhận định: “Hiện thực của văn học – lĩnh vực của cái khả nhiên”, “Văn học như là tư duy về cái khả nhiên”[13]. Nhận định trên đây của ông được gợi ý từ một tư tưởng rất sâu sắc của Aristote trong tác phẩm Nghệ thuật thơ ca: “nhiệm vụ của nhà thơ không phải ở chỗ nói về sự việc đã thực sự xảy ra, mà là nói về cái có thể xảy ra theo quy luật xác suất hay quy luật tất nhiên. (…) nhà sử sử học nói về những điều đã xảy ra thực sự, còn nhà thơ nói về những gì có thể xảy ra[14]. Hiện thực đời sống vận động theo quy luật tất nhiên, cái đã xảy ra trở thành cái dĩ nhiên, còn những khả năng đã bị bỏ qua trong quá khứ và muôn vàn khả năng đang chờ đợi phía trước chính là cái khả nhiên. Từ ý tưởng của cổ nhân và bằng kinh nghiệm sống của mình, Trần Đình Sử nhận thấy: “Trong hiện thực tồn tại vô vàn khả năng, nhưng do điều kiện cụ thể, hiện thực chỉ là sự thực hiện của một trong vô vàn khả năng đó. Nhiều khi cái khả năng tốt đẹp nhất thì bỏ phí còn cái khả năng xấu nhất thì lại được thực hiện. Các khả năng khác tuy đã mất cơ hội được trở thành hiện thực, nhưng chúng vẫn mãi mãi có ý nghĩa để suy nghĩ về quá khứ, hiện tại và tương lai. Như thế hiện thực của văn học rộng lớn hơn nhiều lần so với hiện thực của lịch sử.”[15]. Lựa chọn cái khả nhiên làm đối tượng chủ yếu, nghệ thuật có thể trở về quá khứ để đối thoại với lịch sử, nuối tiếc cho những khả năng tốt đẹp bị bỏ qua, đau khổ trước những bước đi nhầm lẫn. Lựa chọn cái khả nhiên, nghệ thuật có thể dự báo cho tương lai, cảnh báo trước cho loài người những thảm họa. Và điều quạn trọng nữa: “Tính chất của cái khả nhiên cho phép nghệ thuật có thể tưởng tượng, hư cấu, tạo ra những thế giới chưa từng có”[16] nhằm gửi gắm những thông điệp nhân sinh tới mọi người. Một quan niệm như thế về đối tượng của nghệ thuật mới dung chứa được tính đa dạng của các khuynh hướng, trào lưu nghệ thuật, mới chấp nhận được các hình thức huyền thoại, kì ảo, nghịch dị, phi lí …trong lịch sử nghệ thuật nhân loại.

Rất khó nói hết những vấn đề mà GS. Trần Đình Sử xem xét và lí giải về lí luận Marxist trong tầm hiện đại. Nhưng điều tôi trân trọng nhất là tinh thần “giải cấu trúc” trong những bài viết của ông. Tinh thần ấy góp phần giải thể những cái lỗi thời đang cản trở sự phát triển của văn nghệ và mở ra chân trời mới cho sáng tạo nghệ thuật nước nhà.

1. Trần Đình Sử - người nỗ lực mở rộng đường biên

Trong Lời nói đầu của tập tiểu luận Trên đường biên của lí luận văn học, GS.TS Trần Đình Sử tâm sự: “Tôi hình dung lí thuyết văn học như một không gian, mà đường ranh giới của nó tiếp giáp với các không gian lí thuyết khác. Mọi đổi thay lí thuyết đều diễn ra trên đường ranh giới này. Mọi cố gắng của tôi cũng đều nằm trên đường ranh giới. Cái gì đang ở biên có nghĩa là chưa vào tâm, vì thế đặt tên sách là Trên đườngbiên của lí luận văn học[17]. Trong bài tiểu luận Ngoại biên hóa trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại, ông đã dựa trên cơ sở triết học nhân học của Bakhtin để làm rõ hơn nội hàm các khái niệm như trung tâm, ngoại biên, vùng biên, đường biên và đi đến một kết luận rất thú vị: “Quan niệm về ranh giới của Bakhtin cho ta hiểu rằng, toàn bộ sức sống của văn học, nghệ thuật nằm ở đường biên. Kìm giữ văn học, nghệ thuật ở trung tâm là kìm hãm sự phát triển, sinh sôi của chúng. Quan niệm này cũng cho thấy ngoại biên hóa là quy luật khách quan của nghệ thuật và lí thuyết, phê bình”[18].

Nhìn lại tiến trình văn học Việt Nam hiện đại, tôi nghiệm thấy kết luận trên là hoàn toàn chính xác. Hành trình xây dựng nền văn nghệ mới ở Việt Nam thế kỉ XX là hành trình trung tâm hóa văn nghệ Cách mạng. Từ sau năm 1930, cùng với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự hình thành một nền văn học mới của giai cấp vô sản do Đảng lãnh đạo. Để xây dựng một nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, ngay khi soạn thảoĐề cương văn hóa Việt Nam (1943), ông Trường Chinh đã chủ trương đấu tranh chống lại các “tông phái văn nghệ (chống chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa tượng trưng v.v…làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng”. Từ đó các nhà lí luận cũng sáng tác văn nghệ cách mạng Việt Nam luôn giữ vững lập trường Marxist, “mài sắc vũ khí” chiến đầu chống lại tất cả các xu hướng văn nghệ phi Marxist, xây dựng một nền văn nghệ thống nhất về tư tưởng – thẩm mĩ.  Kết quả là, gần nửa thế kỉ ở miền Bắc (1945 -1985) chỉ có sự độc tôn của lí luận văn nghệ Marxist chính thống được tiếp thu từ Liên Xô và Trung Quốc. Sự độc tôn ấy đã tạo nên một nền văn nghệ thống nhất, một dàn đồng ca hùng tráng tràn đầy âm hưởng sử thi và cảm hứng lãng mạn, giàu tính chiến đấu, tập trung phục vụ cho sự nghiệp chính trị. Nhưng do trung tâm hóa cao độ với sự bao cấp về tư tưởng và học thuật đã tạo nên một nền văn nghệ đơn điệu, thiếu cá tính sáng tạo, thiếu những thành tựu đỉnh cao. Từ sau năm 1986, với đường lối đổi mới và hội nhập quốc tế của Đảng và sự nỗ lực của những người làm công tác lí luận và sáng tác, văn nghệ Việt Nam đã diễn ra một quá trình ngoại biên hóa nhanh chóng: Từ đơn lí thuyết sang đa lí thuyết, từ sự độc tôn của phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa sang sự cộng sinh của nhiều phương pháp sáng tác. Sự chuyển đổi ấy đã mở rộng tự do, giải phóng tiềm năng sáng tạo cho văn nghệ sĩ, đưa văn nghệ nước ta vào một thời kì phục hưng mới với sự phát triển phong phú, đa dạng. Quá trình ngoại biên hóa của văn nghệ Việt Nam từ thời đổi mới là một quy luật tất yếu khi chúng ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và thực chất.

Trong không khí đó, một người mê “giải cấu trúc” như Trần Đình Sử hiển nhiên ông sẽ chọn vị trí trên đường biên lí luận văn nghệ. Đứng ở nơi sống động, đầy những va chạm, nhiều chồng lấn, đan xen ấy ông mới có điều kiện để bày tỏ chủ kiến, phê phán cái cũ, khẳng định cái mới, góp phần hiện đại hóa lí luận văn nghệ Việt Nam đương đại.

Trước hết, Trần Đình Sử được biết đến như một nhà thi pháp học hàng đầu ở Việt Nam. Từ những năm tám mươi của thế kỉ trước, trong lúc hướng nghiên cứu xã hội học văn học đang giữ địa vị độc tôn, Trần Đình Sử đã cùng với những đồng nghiệp như Phan Ngọc, Nguyễn Kim Đính, Vương Trí Nhàn, Lại Nguyên Ân, Chu Xuân Diên, Nguyễn Phan Cảnh…, tiếp nhận và ứng dụng thi pháp học để nghiên cứu văn học với những khám phá mới mẻ. Các thập niên sau đó, những chuyên luận công phu tâm huyết của ông như Thi pháp thơ Tố Hữu (1987), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam (1998), Dẫn luận thi pháp học (1998), Thi pháp Truyện Kiều (2002)…lần lượt ra đời, chứng minh một cách thuyết phục ưu thế của thi pháp học trong nghiên cứu văn học, đưa lại cho người đọc chìa khóa để đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn.

Ít khi thấy có trong văn đàn Việt Nam đương đại một hướng nghiên cứu mới lại tạo được một “cơn sốt” mạnh như thi pháp học. Hàng trăm công trình nghiên cứu thi pháp tác phẩm, tác giả và trào lưu; hàng trăm luận văn, luận án ứng dụng thi pháp học trong nghiên cứu và dạy học văn học. Hướng nghiên cứu thi pháp học, trong một thời gian ngắn đã lấn át hẳn hướng nghiên cứu xã hội học. Kết quả đó là công sức của nhiều người nhưng công đầu là của Trần Đình Sử. Ông không những tiếp nhận một cách chủ động sáng tạo thi pháp học mà còn “làm xanh” lí thuyết bằng những công trình ứng dụng thi pháp học vào nghiên cứu văn học Việt Nam, đưa đến cho giới nghiên cứu một bộ công cụ mới để giải mã văn bản văn học. Có thể nói, với thi pháp học Trần Đình Sử đã làm cho không gian đường biên lí luận văn học Việt Nam được rộng mở hơn.

Tiếp nối và song hành cùng thi pháp học là tự sự học, một ngành nghiên cứu mới mà đầy triển vọng ở Việt Nam cũng được Trần Đình Sử khởi xướng và triển khai có hiệu quả. Khi viết Dẫn luận thi pháp học[19], ông đã từng đề cập đến cấu trúc và tính nội dung của truyện kể như một phương diện quan trọng của tự sự học. Nhưng phải đợi đến thập niên đầu của thế kỉ XXI với hai cuộc hội thảo Tự sự học do Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức (lần 1 năm 2001, lần 2 năm 2008) hướng nghiên cứu này mới được ý thức là một ngành nghiên cứu liên ngành đầy tiềm năng. Kết quả chủ yếu của hai cuộc hội thảo quan trọng đó được công bố qua hai tập sách do Trần Đình Sử chủ biên: Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2004; Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử, phần 2, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2008. Tự tin vào hướng khai mở của mình, Trần Đình Sử tiếp tục nghiên cứu sâu về lí thuyết tự sự. Năm 2008, ông công bố tiểu luận Tự sự học từ kinh điển đến hậu kinh điển trên Tạp chí Nghiên cứu văn học số 10/2008. Ở bài viết này, Trần Đình Sử đã chỉ ra sự giao thoa và kế thừa giữa tự sự học kinh điển và tự sự học hậu kinh điển; giới thiệu một cách tổng quát và hệ thống quá trình chuyển đổi hệ hình nghiên cứu trong lĩnh vực tự sự học.  Mấy năm gần đây, các công trình nghiên cứu tự sự học của ông xuất hiện nhiều hơn: Khái niệm sự kiện trong tự sự học hiện đại[20], Cái nhìn tự sự đa chiều trong “Truyện Kiều”[21]; đặc biệt là chuyên luận bề thế, công phu và hệ thống về tự sự học do ông tổ chức biên soạn: Tự sự học lí thuyết và ứng dụng[22]. Cuốn sách đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề cơ bản của tự sự học, từ sự ra đời, đối tượng, phương pháp đến vấn đề ứng dụng trong nghiên cứu văn học. Cấu trúc chuyên luận gồm ba phần, có sự kết cấu chặt chẽ: Tự sự học kinh điển, Tự sự học hậu kinh điển, Tự sự học ứng dụng. Ngoài ra, cuốn sách còn có hơn một trăm trang phụ lục Thuật ngữ tự sự học để giúp bạn đọc tiện tra cứu, tìm hiểu về ngành nghiên cứu non trẻ này.

Cũng như thi pháp học, tự sự học có sức lan tỏa nhanh chóng ở Việt Nam trong gần hai chục năm nay, thu hút được sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu. Nhiều công trình nghiên cứu tự sự học ở Nga và phương Tây được dịch và giới thiệu. Từ đó một số lí thuyết tự sự của Tz. Todorov, E. Meletinski, I. Ilin, V. Chiupa, J. Lotman, J.A. Greimas, N. Frye, M. Bal, R. Barthes, G. Genette, P. Ricoeur, G. Prince, H. White…được biết đến ở Việt Nam. Việc ứng dụng tự sự học vào nghiên cứu văn học bước đầu có những kết quả đáng trân trọng với những công trình của Phùng Văn Tửu, Lộc Phương Thủy, Đỗ Bình Trị, Phan Đăng Nhật, Lê Nguyên Cẩn, Đào Duy Hiệp, Trần Huyền Sâm, Lê Huy Bắc, Cao Kim Lan, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Nguyễn Đăng Điệp…Những nghiên cứu ứng dụng ở ta hiện nay chủ yếu là tự sự học kinh điển nhưng bước đầu đã mở ra tự sự học hậu kinh điển với những nghiên cứu về tự sự học nữ quyền, tự sự học tu từ, tự sự học văn hóa…

Tự sự học đã tạo ra một phương pháp luận nghiên cứu tác phẩm tự sự một cách hữu hiệu ở Việt Nam. Tuy nhiên không ít người vì chưa hiểu lí thuyết một cách có hệ thống và bản chất nên vận dụng một cách máy móc, sống sượng. Nhưng những ấu trĩ ban đầu sẽ dần được điều chỉnh, tự sự học sẽ có triển vọng tốt đẹp trong tiến trình lí luận và phê bình văn học Việt Nam đương đại.

Là một nhà khoa học đầu ngành, Trần Đình Sử luôn nỗ lực khai phá những vùng đất mới. Những vấn đề đương đại của của lí luận văn học thế giới đều được ông quan tâm và trên một mức độ nhất định kịp thời giới thiệu với giới nghiên cứu văn học Việt Nam. Các tiểu luận Bước ngoặt diễn ngôn và chuyển đổi hệ hình trong nghiên cứu văn học, Giải cấu trúc và nghiên cứu, phê bình văn học[23] và chuyên luận Cơ sở văn học so sánh[24] được ông mới công bố gần đây đã minh chứng cho tiềm năng sáng tạo to lớn, nỗ lực không biết mệt mỏi của người trí thức tâm huyết với nghề và ý thức trách nhiệm cao với đời.

Sau hơn ba mươi năm đổi mới, lí luận phê bình văn học Việt Nam đã có những bước tiến dài. Chúng ta đã vượt qua được tình trạng bao cấp tư tưởng, sự độc quyền lí luận văn nghệ Marxist để bước vào thời kì hội nhập quốc tế một cách toàn diện. Nhờ thế cư dân lí thuyết văn nghệ trên đường biên ngày càng đông đúc, không gian vùng biên ngày càng giãn nở, không gian trung tâm dần bị thu hẹp lại. Kết quả đó là do xu thế của thời đại và một phần là nhờ sự đóng góp của những người trí thức tài năng và tâm huyết như GS.TS. Trần Đình Sử.

 

                                                                           Hà Nội, tháng 3 năm 2020

                                                                                 

  

       

 

 


[1] . Trần Đình Sử, Trên đường biên của lí luận văn học, Nxb Phụ nữ, 2016,  tr. 236

[2] . Phương Lựu, Trần Đình Sử, Lê Ngọc Trà, Lí luận văn học, Tập 1, Nxb Giáo dục, 1986. Trần Đình Sử viết các chương I, IV, V, X

[3]  Phương Lựu, Trần Đình Sử, Lê Ngọc Trà, sđd, tr. 212

[4] . Những bài tiểu luận này đăng trên báo và tạp chí, được tập hợp in lại trong tập tiểu luận Lý luận và phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn, 1996                                                                              

[5]  Trên đường biên của lí luận văn học, Nxb Phụ nữ, H, 2016

[6]  Hội Văn nghệ Việt Nam xuất bản, 1949

[7]  Nxb Hàn Thuyên, HN, 1944

[8]  NXB Văn hóa –Nghệ thuật, HN, 1962, NXB Sự thật, HN, 1962

[9]  Nguyên lý lý luận văn học (hai tập), NXB Văn hóa –Nghệ thuật, HN, 1962

[10] Trên đường biên của lí luận văn học, sđd, tr. 15

[11]  Trên đường biên của lí luận văn học, sđd, tr. 62

[12] Trên đường biên của lí luận văn học, sđd, tr. 75

[13] Trên đường biên của lí luận văn học, sđd, tr. 83, tr. 127

[14]  Aristote, Nghệ thuật thơ ca, Lê Đăng Bảng, Thành Thế Thái Bình, Đỗ Xuân Hà, Thành Thế Yên Bảy dịch, Đoàn Tử Huyến hiệu đính, Nxb Văn học, HN, 1999, tr. 45

[15]  Trên đường biên của lí luận văn học, sđd, tr. 85

[16] Trên đường biên của lí luận văn học, sđd, tr. 134

[17] Trên đường biên của lí luận văn học, sđd, tr. 7

[18] Trên đường biên của lí luận văn học, sđd, tr. 334

[19]  Trần Đình Sử, Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, HN, 1998

[20]  Trần Đình Sử, tạp chí Nghiên cứu văn học, số 1/2015

[21]  Trần Đình Sử, tạp chí Khoa học, Đại học Văn hiến, Số 10/2016

[22] Trần Đình Sử (chủ biên), NXb Giáo dục Việt Nam, HN, 2018

[23]  Trên đường biên của lí luận văn học, sđd, tr 188 -205, tr 223 - 236

[24]  Trần Đình Sử, Cơ sở văn học so sánh, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 2020

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114559315

Hôm nay

215

Hôm qua

2317

Tuần này

2633

Tháng này

226858

Tháng qua

122920

Tất cả

114559315