Những góc nhìn Văn hoá
Có một đỉnh núi khuất sau những tầng mây

Nhà viết kịch Nguyễn Trung Phong đã khẳng định mình qua những tác phẩm đi vào lịch sử của dân ca Ví Giặm Nghệ Tĩnh và kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam. Ông đã để lại hàng chục vở diễn với nhiều thể loại cho sân khấu chuyên nghiệp, hàng chục vở kịch ngắn, hoạt ca, hoạt cảnh cho văn hóa quần chúng và là một trong những tác giả đặt nền móng cho nền kịch hát dân ca Ví Giặm xứ Nghệ. Vở chèo "Cô gái sông Lam" và đặc biệt làn điệu "Ví giận thương" đã mãi mãi đi vào tiềm thức của người dân xứ Nghệ và cả nước. Không những thế, làn hát "Ví giận thương" đã được trình diễn nhiều nơi trên thế giới, được các nhạc sỹ nước ngoài soạn lại cho nhiều loại nhạc cụ khác nhau.
Còn một tác phẩm nữa là làn điệu “Ví đò đưa sông Lam” cũng đã và đang đứng vững trong kho tàng dân ca xứ Nghệ và kho tàng dân ca Việt Nam. Tác phẩm này đang được cho là do Nguyễn Trung Phong phóng tác. Nếu đúng như vậy, thực sự đây mới chính là đỉnh cao trong những tác phẩm nghệ thuật của ông để lại:
Ai biết nước sông Lam răng là trong, răng là đục
Thì biết sống cuộc đời răng là nhục là vinh
Thuyền em lên thác xuống ghềnh,
Nước non là nghĩa là tình ai ơi.
Lời ca óng chuốt, hình tượng đẹp, ý nghĩa sâu xa và mang tính khái quát lớn. Nó như một tuyên ngôn về nhân cách của người xứ Nghệ, trọng tình nghĩa và hòa quyện với thiên nhiên. Bởi thế khi gặp những câu ca này người đọc, người nghe cứ ngỡ nó là vốn cổ nên vô tình để lẫn vào trong kho tàng thơ ca dân gian, dẫn đến có sự hiểu sai và mặc định làn điệu này là vô danh.
Trong nhiều văn bản đã phát hành cũng đều ghi như vậy. Theo cuốn: Dân ca Nghệ Tĩnh, Nhà Xuất bản âm nhạc, Sở Văn hóa thông tin Nghệ Tĩnh xuất bản năm 1991, bản “Ví đò đưa sông Lam” được ghi: Sưu tầm: Trung Phong; Ghi âm: Vi Phong; Cuốn: Dân ca Nghệ Tĩnh xuất bản năm 2000 của cố nhạc sỹ Vi Phong cũng được ghi như vậy; Cuốn: "Tuyển tập dân ca xứ Nghệ" xuất bản năm 2014 (do Sở VHTT& DL Nghệ An chủ biên) cũng lấy nguồn từ cuốn của nhạc sỹ Vi Phong... Nhưng thực ra nhạc sỹ Vi Phong chưa đi sưu tầm một ngày nào, sau này ông được phân công ghi âm lại nhưng còn có rất nhiều sai sót. Theo những người cùng thời với Nguyễn Trung Phong lúc đó, nguyên trưởng Đoàn Dân ca Nghệ Tĩnh (giai đoạn 1971-1991), nhạc sỹ Thanh Lưu đã khẳng định: làn điệu ví này là của Nguyễn Trung Phong. Cùng ý kiến đó còn có nhạc sỹ Văn Thế, đạo diễn Kim Tân, NSƯT Nguyễn Ngọc Ất… Và rất nhiều làn điệu có tác giả nhưng khi in vào sách lại được ghi của dân gian. NS Thanh Lưu đã nói vấn đề này trong cuốn "Dân ca xứ Nghệ và sân khấu hóa dân ca" xuất bản năm 2019. Kiểm tra trong "Kho tàng ca dao xứ Nghệ", "Kho tàng vè xứ Nghệ" của GS Ninh Viết Giao cũng không có bóng dáng câu ca này.
Vở kịch “Cô gái sông Lam” được Nguyễn Trung Phong viết năm 1959 và chuyển thể sang dân ca năm 1973. Trong đó, câu “Ví đò đưa sông Lam” là chủ đạo. Câu hát cứ phảng phất, xa gần, được lặp đi lặp lại trong cả quá trình đã lôi cuốn, gây cảm xúc mạnh cho người nghe. Theo từng tình huống mà câu ví dân ca ấy cất lên như cốt cách, chí khí, là một giá trị khẳng định của người Nghệ Tĩnh. Ông chọn tình huống đắc địa nhất để đưa những lời hát này vào làm óng ả thêm lên giá trị tự thân và những giá trị mới làm xúc động người xem, sáng rõ hơn chủ đề tư tưởng của vở diễn. Với lối viết mộc mạc, văn phong trong sáng, bình dân, gần gũi với công chúng, làm cho người nghe dễ nhớ, dễ thuộc. Đây hoàn toàn là sáng tạo của một cá thể nhưng ngôn ngữ mang đậm đặc chất liệu dân gian đồng thời lột tả được cái văn hóa ngàn đời của xứ Nghệ. Nguyễn Trung Phong thực sự khẳng định sự thăng hoa trong bút pháp của ông.
Con trai của nhà viết kịch, anh Nguyễn Trung Vinh kể lại đã từng nghe ông nói chuyện về nguồn gốc câu ca này trong một cuộc rượu với bạn bè ở nhà ông: Một lần đi trên thuyền, ông nhìn sang bên kia bờ sông Lam, với cảnh sông nước mênh mông, bờ nối bờ với con sông lúc hung dữ khi mùa lũ về, hiền hòa khi vào vụ, bồi đắp phù sa cho 2 bờ xanh ngát nương dâu, bãi lúa... Tức cảnh sinh tình ông đã liên tưởng đến thân phận, khí chất con người xứ Nghệ mà viết ra câu ca ấy.
Mới nghe thoáng qua “Ví đò đưa sông Lam”, ta tưởng như là một phần của ví sông La:
Công anh lên thác xuống ghềnh
Vô Trang ra Hội không thành thất gia
Nhưng ở “Ví đò đưa sông Lam” tính phổ quát, tầm triết lý nhân sinh, bản chất sống con người xứ Nghệ trong nhân tình thế thái được nâng tầm rất nhiều. Ông khéo léo chắt lọc từ vốn quý tục ngữ, thành ngữ trong dân gian như: “Sông có khúc, ngài có lúc”; “chết vinh hơn sông nhục”; “Nước giữa dòng có khi trong, khi đục. Người ở đời có lúc nhục, lúc vinh”; “Trải bao lên thác xuống ghềnh. Thác ghềnh còn đó ai đành phụ ai”;” Đôi ta lên thác xuống ghềnh. Em ra đứng mũi để anh chịu sào”… để đưa vào trong “Ví đò đưa sông Lam” đã làm cho nhiều người lầm tưởng đây là câu ví dân gian bấy nay. Trong Ví sông nước thông thường là 2 đến 4 câu lục bát, niêm luật chặt chẽ, nhưng trong “Ví đò đưa sông Lam” lại phá cách. Với hai câu đầu 11, 10 chữ, hai câu sau là lục bát, nhưng tất cả đều không theo luật định nào cả. Tuy nhiên, vữa kết nối ở đây lại là vần “ục”, vần “inh” đã đưa câu ví dần vào khuôn khổ nghe thuận tai. Làm được điều này, chỉ có Nguyễn Trung Phong, đã hiện đại hóa ví đò đưa, chuyển tải được sức sống thời đại vào câu ví một cách nhẹ nhàng hơn.
Câu ví trong cách biểu đạt của ông là đưa lên một hiện tượng thiên nhiên, một quy luật của vũ trụ từ đó mới nói đến quy luật của cuộc sống, quy luật của con người. Vế một mang tính tiền đề, một mệnh đề mặc định cho quy luật bất biến của vũ trụ: Một dòng nước có trong, có đục, bên lở thì đục, bên bồi thì trong, mùa cạn nước trong, mùa lũ nước đục. Nó được trải nghiệm qua hàng vạn năm, hàng nghìn năm đã hình thành nên một quy luật như thế. Từ quy luật ấy ai có thể hiểu được quy luật về thiên nhiên trong cuộc sống nhân loại từ khi khai thiên lập địa cho đến bây giờ, đã trải qua bao nhiêu thế hệ để rồi ghi nhận cái sự biến thiên rồi đem cái quy luật ấy nói về quy luật sống của con người, “sống cuộc đời răng là nhục là vinh”, nhục - vinh, trong - đục tương ứng với nhau. Trong cái nhục này của con người mang tính cá nhân và có nỗi nhục mang tính cộng đồng, đó là nỗi nhục của sự mất nước. Để cảm được cái đó chúng ta phải trải đời mới biết được nỗi vinh, nỗi nhục. Khi có trí tuệ và đã từng trải thì mới chiêm nghiệm, đánh giá được quy luật của cuộc sống, mà con người sinh ra đã có vinh và có nhục như một cặp phạm trù vậy. Muốn chiến thắng, đạt được cái đỉnh của vinh, cần phải nếm trải nhiều khó khăn, gian khổ để được bước lên cái đài vinh quang của cuộc sống. Ở đây câu dân ca của tác giả có danh nhưng được thiết lập trên nền tảng ca dao, tục ngữ, dân ca Nghệ Tĩnh. Chất dân gian trong tác phẩm của ông đã được nâng lên trong cái thời hiện đại, được phát huy và thừa kế như là một mối giao duyên của thời ông sống với thế hệ 4.0 luôn mang tính thời sự. Công nghệ thông tin phát triển rất xa nhưng dù thế nào đi nữa thì muốn xây một ngôi nhà phải có nền móng vững chắc.
Ca từ của ông đã đạt đỉnh cho sự phát triển của ngôn từ, làm giàu thêm cho tiếng Việt, làm phong phú, đa dạng cho kho tàng văn hóa dân gian. Với phương thức thể hiện của ông là đặt ra một câu hỏi tu từ, tức là hỏi nhưng không phải hỏi. Hỏi mà đã là trả lời, hỏi mà là khẳng định. Những câu hát giàu hình ảnh: "Ai biết nước sông Lam răng là trong, là đục…. lên thác, xuống ghềnh. Nước non là nghĩa là tình". Nước non không chỉ đơn thuần là nước non mà còn biểu hiện cho giang sơn, Tổ quốc. Tác giả đã dùng nghệ thuật phiếm chỉ, tức đối tượng chung là “Ai ơi” chứ không phải “Người ơi” hay là một đối tượng cụ thể nào để không thu hẹp cái tư tưởng mà tác giả muốn gửi gắm. Đây hoàn toàn là sáng tạo của một cá thể, nhưng ngôn ngữ đã mang tầm văn hóa dân gian (Folklore).
Từ đó, câu ví đã bước ra khỏi đời sống của một vở diễn, mài dũa với nước thời gian để trở thành một viên ngọc sáng trong hàng nghìn viên ngọc tinh túy của văn hóa dân gian. “Ví đò đưa sông Lam” được chắt lọc qua hàng chục năm và rồi cứ thế, lặng lẽ hòa vào Ví Giặm Nghệ Tĩnh, tỏa sáng cho nền dân ca xứ Nghệ mà không biết rằng có một chủ nhân đã sáng tạo ra nó. Số phận của nó cũng như làn hát “Ví giận thương” lúc ban đầu. Mọi người đều say sưa hát nó, các nhạc sỹ, các nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian cứ hồn nhiên nghĩ đó là một làn điệu dân ca, cứ cảm, cứ dùng làm chất liệu sáng tác cho những tác phẩm của mình.
Trong ca khúc Tiếng hát sông Lam, nhạc sỹ Đinh Quang Hợp đã khéo léo đưa trọn vẹn “Ví đò đưa sông Lam” để làm câu mở đầu và trở thành ca khúc đi cùng năm tháng mà ca sỹ Song Thao đã thể hiện đầu tiên một cách nhập tâm và thăng hoa với từng chữ, từng lời. Năm 1968, Bác Hồ đã nghe “Tiếng hát sông Lam” còn dí dỏm nhắc nhở mọi người rằng tiếng Nghệ An gọi là “nác” chứ không phải “nước”. Hay như ca khúc “Trông cây lại nhớ đến người” của nhạc sỹ Đỗ Nhuận. Sau này qua thời gian tác phẩm đã được trả lại tên cho chủ nhân của nó. Hôm nay tôi đưa vấn đề này ra để muốn nói rằng: Hơn tất cả những gì mà ông đã có, với tác phẩm “Ví đò đưa sông Lam” thực sự đỉnh của đỉnh với những tác phẩm của ông. Nó đã ở một tầng cao văn hóa, xứng danh là ngọn núi cao nhất trong những tác phẩm của ông. Đấy là sự vĩ đại của Nguyễn Trung Phong. Ông không những khẳng định mình qua những vở diễn kinh điển, qua làn điệu “Giận thương” mà còn trong câu hát “Ví đò đưa” đã định hình trong vốn cổ dân ca Việt Nam. Người Nghệ sỹ không chỉ sáng tác ra cho người nghe mang tính chất giải trí mà cái sự thưởng thức ấy đã thấm vào trong máu để rồi chuyển hóa vào tác phẩm.
Đến bây giờ, cuộc sống dần đi vào ổn định, thời gian cho ta lắng lại, mọi tác phẩm VHNT dần được nhìn nhận ở một giá trị đích thực. Những tác phẩm của ông bị khuất sau lớp bụi thời gian của lịch sử đã dần được trả về cho ông. Những tác phẩm đó đã nằm lòng trong những người yêu mến dân ca trong cả nước, còn vượt ra khỏi biên giới của Tổ quốc đến với các bạn bè năm châu. Như làn điệu “Giận thương” đã được rất nhiều nghệ sỹ nước ngoài biểu diễn: Nhạc sư Hà Thiệu ở Trung Quốc trình diễn bằng đàn bầu; Nữ Nghệ sỹ Claire Sananikone (Đức) trình diễn bằng ghi ta với bản soạn củaGS Đặng Ngọc Long, hiệu trưởng trường Đại học Âm nhạc Berlin; Bản thân GS Đặng Ngọc Long cũng đã biểu diễn thành công bản này ở nhiều nơi trên thế giới. Riêng bốn câu ca của làn điệu “Ví đò đưa sông Lam” trong sáng tạo của Nguyễn Trung Phong nói riêng và trong sáng tạo văn học nghệ thuật nói chung thực sự là một đỉnh núi.
Và nhiệm vụ của chúng ta là hãy trả nó về với chủ nhân đích thực, nhà viết kịch Nguyễn Trung Phong. Nếu không, chúng ta có lỗi với tiền nhân lắm thay./.
Vinh, 04/2020.
tin tức liên quan
Videos
Bàn về “Học thật, thi thật, nhân tài thật” ( Kỳ 2)
Nghệ An: Nhiều hoạt động văn hóa sẽ được tổ chức nhân Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam và kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Phân tầng xã hội và di dộng xã hội ở Việt Nam hiện nay [kỳ cuối]
Những âm thanh vang vọng núi rừng Tương Dương
Hội nghị Sơ kết cụm thi đua 6 tỉnh Bắc Trung Bộ năm 2023
Thống kê truy cập
114559286

2303

2301

2604

226829

122920

114559286