Mỗi lần như thế tôi đều đến với những người thầy để tìm một lời lý giải, và duyên số đã đưa tôi đến với Giáo sư sử học, Nhà giáo nhân dân Đinh Xuân Lâm. Với chính cuộc đời của mình, với ngọn lửa của lòng đam mê khoa học, lòng yêu cuộc sống gửi gắm trong tâm sự: "Nếu như được sống hai lần thì lần thứ hai ấy tôi vẫn tiếp tục làm nghề dạy học", ông đã mở ra cho tôi biết bao điều về con người và sự nghiệp của ông.
GS. Đinh Xuân Lâm sinh ngày 4.2.1925 tại xã Sơn Tân, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh trong một gia đình quan lại phong kiến. Mảnh đất ông chào đời là nơi Hải Thượng Lãn Ông ở ẩn bốc thuốc cho dân, là nơi Đình nguyên Phan Đình Phùng cùng tướng quân Cao Thắng lập căn cứ Cần Vương đánh giặc Pháp. Năm 1925 cũng là thời điểm lịch sử đầy biến động với sự kiện Albert Sarraut khai thác thuộc địa lần thứ II, và sự ra đời của Tâm tâm xã rồi Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội... Từ 9 tháng tuổi, ông theo song thân ra sinh sống và trưởng thành ở Thanh Hoá, gắn bó với mảnh đất này như quê hương thứ hai của mình. Sau khi đỗ thành chung, ông học Trường Quốc học Huế và tốt nghiệp tú tài toàn phần ban Triết học văn chương. Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, ông là một trong những giáo sư Trung học đầu tiên của nước Việt Nam DCCH. Những lứa học sinh Đào Duy Từ, Lam Sơn, Tĩnh Gia ngày đó còn nhớ như in hình ảnh thầy Lâm trẻ trung, da trắng với vóc dáng thư sinh vừa tài hoa vừa... đào hoa bởi chính tài năng cùng gương mặt khôi ngô với đôi mắt nâu tình tứ của anh đã làm cho nhiều nữ sinh và cô giáo trẻ phải xiêu lòng.
Hoà bình lập lại (1954), chàng thanh niên Đinh Xuân Lâm được chuyển thẳng lên năm thứ 2 Đại học Sư phạm Văn khoa, đồng môn với Phan Huy Lê và Trần Quốc Vượng. Việc GS. Trần Văn Giàu (bấy giờ là Chủ nhiệm khoa) "bắt cóc" anh vào Khoa sử có lẽ là sự định sẵn của tiền duyên với chàng trai yêu văn chương nhưng hiểu rất rộng về lịch sử này. Những năm tháng sống hoà đồng cùng bạn bè, anh Lâm là một sinh viên - giáo viên hưởng lương nhưng vẫn ngày ngày cuốc bộ cùng mọi người từ Khu học xá Đông Dương cũ (nay là Trường Đại học Bách khoa Hà Nội) lên giảng đường 19 Lê Thánh Tông. Trong mắt bạn bè, anh là người bạn vong niên đầy tình nghĩa, sống đơn sơ nhưng hay vui chuyện và có lối nói hóm hỉnh, bông đùa mà trí tuệ. Trong số các bạn học, anh là người được thầy Trần Văn Giàu quý nhất. Không phụ lòng thầy, anh và Trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê đã đỗ "tam khôi" khoá đó (1956). Cả ba được giữ lại làm cán bộ giảng dạy tại Khoa Lịch sử Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Dưới sự dìu dắt của thầy Giàu, anh Lâm ở lại Bộ môn Lịch sử cận - hiện đại Việt Nam, phấn đấu không mệt mỏi để lần lượt góp tên vào các công trình: "Lịch sử Việt Nam 1897 - 1914" (1957), "Hoàng Hoa Thám và phong trào nông dân Yên Thế" (1958), "Lịch sử Việt Nam cận đại" (1959 - 1961)… và trở thành một trong những tên tuổi hàng đầu trong đội ngũ những người nghiên cứu lịch sử Việt Nam cận đại như ngày nay. Ông được phong học hàm Phó giáo sư năm 1980 và Giáo sư năm 1984, ngành Sử học.
Tiếp xúc với GS. Đinh Xuân Lâm, tôi bị cuốn hút bởi vầng trán cao, đôi mắt sáng, mái tóc bạc và nụ cười nhẹ nhõm đến an như không thể tách rời tính cách dễ gần, cởi mở, phong cách bình dị, lối sống mộc mạc, chan hoà, nhân ái trong con người của ông. Bạn bè, đồng nghiệp và học trò luôn tìm được trong sự phóng khoáng, bộc trực của ông (cái chất con người Nghệ Tĩnh - di sản văn hoá xứ Nghệ) một niềm cảm thông, chia sẻ và tin tưởng. GS. Trần Quốc Vượng - người "bạn vàng" (Ami Jaune - như ông gọi) đã rất "nhạy" khi nhận ra trong hành trang tri thức và thế ứng xử của GS. Đinh Xuân Lâm "nét tinh tế và nghi thức của văn hoá Huế (...), sự trong sáng, thanh tao, lãng mạn... của văn hoá Pháp" đã tạo nên nét tính cách "hiền lành (...), nhìn sự đời trôi chảy khá thản nhiên, ít ưu tư, có vẻ không chắc, không sâu, không sắc (...) nhưng chín chắn hơn mà không đến nỗi rụt rè, thanh thản hơn mà không phù phiếm, ít tham vọng hơn mà không phải không làm việc hết mình cho một kỳ vọng hay lý tưởng nào đó" mang dáng dấp của người quân tử sửa mình theo đạo Trung dung. Có thể nói ngay từ khởi điểm sự nghiệp sử học, cuộc đời ông đã gắn chặt với sự nghiệp trồng người và dù trong hoàn cảnh khó khăn cuộc sống đạm bạc, đêm đêm cặm cụi bên ngọn đèn dầu hạt đỗ, đạp xe xuyên đêm từ Đại Từ (Bắc Thái) về Hà Nội thời kháng chiến hay khi đất nước đã im tiếng súng, ông đều coi sự nghiệp nghiên cứu và trồng người là một. Đối với ông, nghề giáo là một nghề cao quý bởi nó là nghề đào tạo lớp trẻ, người dạy luôn phải tự đào tạo, tự phấn đấu vươn lên, kết hợp giảng dạy và nghiên cứu, hơn nữa đây là một nghề mang lại nhiều niềm vui cho cho người dạy. Năm 1988, khi được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân - danh hiệu cao quý nhất của ngành giáo dục - ông đã tâm sự với những học trò đến chúc mừng mình bằng những lời thấm thía: "Huân chương vô giá, đối với tôi, đó chính là thế hệ các anh và những thế hệ sau các anh mà tôi đã góp phần đào tạo, những thế hệ đã và đang đóng góp lao động có ích cho xã hội ở nhiều lĩnh vực". Trong buổi lễ hôm đó có người đã khóc trước niềm vui và tấm lòng của người thầy mẫu mực và đáng kính.
Khi bước vào nghề làm sử (những năm cuối thập kỷ 50 của thế kỷ trước), GS. Đinh Xuân Lâm đã định hướng và thành công trong nghiên cứu về phong trào dân tộc cuối thế kỷ XIX, những đặc điểm của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương..., trong khi đội ngũ các nhà sử học lúc đó tuy chưa nhiều nhưng có không ít người đã nổi danh như: Đào Duy Anh, Trần Văn Giàu, Văn Tân, Hoa Bằng... Ông là một người luôn tự vận động không mệt mỏi khẳng định "bản lĩnh sử gia" có dũng khí vượt qua mọi khó khăn về tài liệu, phương pháp cũng như yêu cầu về khả năng và trình độ để đi sâu vào công tác chuyên môn. Dù là sự kiện lịch sử hay nhân vật ở "tầm cỡ" nào đều mang lại hứng thú nghiên cứu cho ông. Có nghiên cứu sinh khi được ông gợi mở về những tên đất, tên người… mờ nhạt trôi đi trong lịch sử mới nhận ra sự vu khoát trong luận văn của mình khi đề cập những điều "đao to, búa lớn" mà chưa nhìn ra vấn đề từ những chi tiết tưởng như nhỏ nhất. GS. Đinh Xuân Lâm là người uyên bác, đọc nhiều nhưng không thích lối lập luận "đại ngôn" với những thuật ngữ cầu kỳ. Ông vẫn giản dị thế, bình dị thế mà cần mẫn, năng nhặt cho chặt bị vốn kiến thức sâu rộng của mình. Đọc những công trình của ông, ta thấy ngòi bút sử học cũng giống như tính cách của ông: luôn đĩnh đạc, chắc chắn, tự tin với những kiến giải, tranh luận nhẹ nhàng, hóm hỉnh mà không kém phần sắc sảo khi cần bộc lộ quan điểm cá nhân. Chắc hẳn ông đã trăn trở rất nhiều bên trang viết bởi giai đoạn lịch sử Việt Nam cận đại mà ông chuyên tâm nghiên cứu là một bước chuyển lịch sử không hề đơn giản. Ông nghiêm túc với bản thân khi cần thay đổi cách nhìn và có khi phủ định chính mình như ông từng khẳng định: "Số người yêu nước theo cách của Phan Thanh Giản ở Việt Nam thế kỷ XIX không phải là ít, trong triều đình cũng như ngoài địa phương" hay khi ông đánh giá Lưu Vĩnh Phúc, Nguyễn Trường Tộ... bằng cái nhìn biện chứng của một nhà khoa học mác xít. Đó chính là tinh thần trách nhiệm, dám đặt lại vấn đề với những sự kiện và nhân vật phức tạp mà cao hơn là ý thức về những trang viết của chính mình.
Với sức viết bền bỉ, dẻo dai và khả năng cộng tác, làm việc theo nhóm hiếm có của mình, GS. Đinh Xuân Lâm đã viết và đứng tên hơn 370 bài báo, 7 đề tài nghiên cứu khoa học và 90 đầu sách. Ông đặc biệt có duyên với loại sách giáo khoa phổ thông, sách công cụ, từ điển... Gần đây nhất, bộ sách "Đại cương lịch sử Việt Nam" do ông tham gia chủ biên đã trở thành giáo trình chuẩn của sinh viên khoa sử các trường đại học và cao đẳng. Qua giọng nói và từng trang viết của ông, môn sử không hề khô khan như nhiều người vẫn nghĩ. Là một cán bộ có nhiều kinh nghiệm sư phạm, phong cách điềm đạm, khúc triết và khá hùng biện cùng thái độ khiêm nhường, cởi mở, thoải mái, ông đã mang lại sức sống cho các giờ giảng và nhen lên trong lòng các thế hệ học trò tình yêu đối với môn học, với cội nguồn và truyền thống dân tộc. Có người chỉ nghe thầy giảng một chuyên đề "Đặc điểm của chủ nghĩa thực dân Pháp tại Đông Dương" mà đã giải mã được sự lớn lao của ông trong danh hiệu "tứ trụ triều đình" do các thế hệ học trò, đồng nghiệp dành cho ông và ba người bạn đồng khoa. Cũng những tư liệu ấy, con số ấy, sự kiện ấy, nhân vật ấy nhưng dưới ngòi bút của ông tất cả dường như sống động và cuốn hút hơn với một văn phong nhẹ nhàng mà vững chãi. Có lẽ chất văn đã thấm sâu trong tâm hồn ông từ thời niên thiếu và vô hình làm nên một dòng chảy hợp với dòng sử học của "cây cột cái, cây đại thụ" Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội một thời. Trước khi trở thành sinh viên ngành Sử ông đã từng tốt nghiệp tú tài ban Triết học văn chương và đã từng dạy văn ở các trường trung học. Những người sống trong ngôi biệt thự xanh ở thủ đô Tana (Mađagatxca) hẳn sẽ không quên hình ảnh người thầy giáo Việt Nam - Đinh Xuân Lâm - lặng ngắm mặt trời lên mỗi khi bình minh đẹp và yên tĩnh với sự thiết tha của một tâm hồn nghệ sĩ đa cảm. Giáo viên Trường Đại học Sư phạm Tana còn mãi tấm tắc về khả năng nói tiếng Pháp tuyệt vời đầy âm sắc cũng như giọng đọc trầm bổng thiết tha của thầy khi thầy đọc những vần thơ trữ tình, những áng văn bay bổng của Lamartine, A. France, Chateaubriand... trên đất bạn. Những trang viết của thầy về các nhà thơ - sĩ phu yêu nước như Nguyễn Quang Bích (tác giả "Ngư phong thi tập"), Nguyễn Xuân Ôn (tác giả "Ngọc Đường thi văn tập")... khiến người nghiên cứu văn học chuyên nghiệp không khỏi ngỡ ngàng trước cái nhìn tinh tế và sắc sảo đến thế, cả trong văn chương và sử học. Nhận định của thầy về Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... không chỉ có ý nghĩa với sử học mà còn có tính gợi mở, định hướng cho người làm văn học sử về giai đoạn phức tạp và đầy biến động này. Chính sự nhạy cảm và uyên bác trong lĩnh vực Văn học, Sử học đã nâng thầy lên địa vị của một trong số ít chuyên gia hàng đầu về lịch sử Việt Nam cận đại - như đánh giá của các học giả trong và ngoài nước.
Đã có nhiều lúc tôi băn khoăn tự hỏi: "Không rõ sức mạnh nào đã nâng đỡ GS. Đinh Xuân Lâm trong suốt bao năm tháng qua mà giờ đây trong mắt học trò, đồng nghiệp ông vẫn là "cỗ máy cái" của Bộ môn Lịch sử Việt Nam cận - hiện đại?" Ông cười, một nụ cười sảng khoái như không, và đằng sau đôi mắt tinh anh của ông chứa đựng sự thanh thản như ông từng tâm sự: "Cả đời tôi, suốt những năm qua, dù trải bao kỷ niệm buồn vui nhưng không có điều gì khiến tôi phải băn khoăn, ân hận". Với sức viết khoẻ đến kỳ lạ, ông không hề biết đến nghỉ ngơi dù đã qua tuổi bát tuần, và với mọi người ông luôn là một pho từ điển sống. Những lứa học trò khi thầy còn dạy trung học có người nay đã nổi danh như các giáo sư Vũ Tuyên Hoàng, Hà Minh Đức, Nguyễn Văn Hồng, Mã Giang Lân... GS. Đinh Xuân Lâm quan tâm đặc biệt tới học trò, một sự quan tâm không điều kiện, tất cả vì sự tiến bộ của lớp trẻ. Từ trong giọng nói đôn hậu của thầy, học trò nhận thấy sự gần gũi của một người anh, người cha và người ông đáng kính. Trên từng bước đi của họ, thầy luôn dõi theo với một tấm lòng bao dung, nhân hậu mà nghiêm khắc. Bao thế hệ trưởng thành từ Khoa Lịch sử, Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN) vẫn còn nhớ mãi những trang bản thảo khoá luận, luận văn rồi luận án được thầy ân cần, tỉ mỉ chữa và góp ý bằng một nét chữ chân phương, to, rõ ràng đến từng dấu chấm, dấu phẩy. Chính họ, phần nào đã trưởng thành từ nét bút ấy và không bao giờ quên những lời nhắc nhở, động viên, khích lệ của thầy, để luôn tâm niệm, phấn đấu sao cho xứng đáng với thầy, xứng đáng với sự quan tâm dìu dắt của thầy. GS. Vũ Dương Ninh cũng đã từng vật lộn với những dòng chữ đỏ của thầy để sửa dần cái sai, viết dần cho đúng khi soạn những bài giảng đầu tiên trong đời dạy học của mình và ông đã nghiệm ra rằng: "Điều may mắn nhất đối với mỗi người là được học thầy giáo giỏi và quả thực thầy Đinh Xuân Lâm là một trong những người thầy đã đem lại cho tôi điều may mắn đó".
Với những đóng góp to lớn đó trong sự nghiệp nghiên cứu và giảng dạy, GS. Đinh Xuân Lâm đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Lao động hạng Ba và hạng Nhất, Huy chương Vì thế hệ trẻ... Năm 1990, GS. Đinh Xuân Lâm nghỉ hưu, nhưng từ đó đến nay ông vẫn tiếp tục công việc của mình với độ chín của một nhà khoa học đầu ngành. Thời gian rảnh rỗi, ông đi thăm bè bạn và học trò như thuở trước và giúp đỡ các tỉnh soạn địa chí địa phương. Con người ông là thế, ân tình, ân nghĩa từ trong cách nghĩ đến việc làm. Sự lớn lao của ông không chỉ ở trong tảng nền tri thức mà còn toát lên từ tình cảm, nhân cách làm người. Ông vẫn là cây lớn sừng sững xanh tươi và là tấm gương phấn đấu không ngừng cho lớp trẻ noi theo. Đến đâu, về đâu ông cũng tìm được hơi ấm gia đình từ những đứa con tinh thần mà ông đào tạo, dẫn dắt. Những năm gần đây ông dành nhiều tâm sức cho các công trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh, về các vấn đề lịch sử - kinh tế - văn hoá không chỉ của thế kỷ XIX mà cả 3 thập niên đầu của thế kỷ XX. Khi các học trò và cũng là đồng nghiệp của ông, đề nghị thầy dành thời gian cho một tập đại thành về những vấn đề cơ bản của lịch sử Việt Nam cận - hiện đại, ông đã nhìn bằng cái nhìn rộng lượng mà háo hức, động viên tất cả mọi người: "Việc đó chúng ta đã bàn từ lâu rồi phải không? Tôi nghĩ đã đến lúc rồi đó"./.
Nguồn:100 Years-VietNamNationalUniversity,HaNoi