Theo truyền thuyết, sở dĩ cha ông (Niihara Toshizo) đặt tên ông là Long Chi Giới (giữa loài rồng) vì ông sinh vào giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Nhâm thìn.
Lúc còn thơ, ông được đem giao cho người bác (Akutagawa Shodo) không con nuôi dưỡng. Mới học lớp Ba, Ryunosuke đã tìm được tập phác thảo của Tokutomi Roka, nhan đề Shizen to Jinsei (Tự nhiên tô nhân sinh – Thiên nhiên và con người). Ông đọc say mê và từ đó có lòng ham thích văn chương. Ông được giới thiệu vào trường trung học ở Tokyo không phải qua thi tuyển, rồi tốt nghiệp hạng danh dự và vào Đại học Hoàng gia Đông Kinh (Tokyo). Tại đây, ông học văn chương Anh, tốt nghiệp năm 1916. Ông đã khước từ chức giáo sư tại Đại học Hoàng gia Cửu Châu (Kyushu). Cửa nhà ông luôn luôn treo bảng cáo bệnh để tạ khách, vì ông muốn dành nhiều thời gian đọc sách.
Năm 1914, ông đăng truyện ngắn đầu tiên trên tạp chí Shinshicho, nhưng không được chú ý lắm. Năm sau (1915), ông đăng hai truyện ngắn trên tạp chí Teikoku Bungaku, mà truyện thứ hai nhan đề Rashomon (Lã Sinh Môn) nổi tiếng gần như gắn liền với tên tuổi ông (truyện này còn được quay thành phim). Tháng 5-1917 ông xuất bản tập truyện đầu tay, nhan đề chung cho cả tập là Rashomon.
Tác phẩm:
Truyện Sợi tơ nhện được đăng trên một tạp chí dành riêng cho thanh niên. Năm 1930, Glenn W. Shaw chọn trong 200 truyện của A. Ryunosuke, tuyển lấy 11 truyện và cố dịch sát nguyên tác, rồi giao cho nhà xuất bản Hokuseido ấn hành với nhan đề Tales grotesque and curious (Truyện truyền kỳ). Sợi tơ nhện (The spider’s thread) là truyện thứ sáu trong tập này, được kể bằng giọng văn giản dị, nhưng bố cục rất có chủ ý. Truyện thể hiện một trong những triết lý căn bản của đạo Phật là Nghiệp (Karma): Con người gieo nhân nào thì gặt quả đó; con người đã tạo Nghiệp thì không trốn tránh được sự báo ứng. Trong “Thư gửi tín hữu Galát” (6: 7-8-9), Thánh tông đồ Phaolô cũng viết: “… ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy.([1])
Kết thúc truyện Sợi tơ nhện là một bi kịch: Phật dù quyền năng tối thượng và từ bi vô cùng cũng chỉ có thể ngậm ngùi cảm thương chứ không thể cứu được kẻ đang phải trả Nghiệp! Không hiểu rốt ráo Phật giáo, người ta sẽ tưởng lầm rằng tác giả Ryunosuke dám “chê” đứcPhật. Nhưng đây chính là luật Công bình của vũ trụ. Luật này Lão Tử gọi là Đạo, và đã để lại một câu nổi tiếng trong Đạo đức kinh (chương 5): Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu. Thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu. (Trời đất không có lòng nhân, coi bách tính như chó rơm. Thánh nhân không có lòng nhân, coi bách tính như chó rơm.) Liên hệ tới nỗi bất nhân ấy, Khổng Tử nói thẳng tuột: Hoạch tội ư Thiên, vô sở đảo dã. (Mắc tội với Trời thì không thể cúng vái ai để giải tội được.)
Nói tóm lại, đã tạo Nghiệp thì tất yếu (inevitably) phải trả Nghiệp. Đó là lý do người có tôn giáo đều sợ làm ác, đều lo làm lành. Trái lại, kẻ thế gian quyền uy và thế lực ngất trời nếu không tin vào luật Nghiệp báo Nhân quả (causality), thì họ sẵn sàng “nhúng chàm” vì biết rằng luật đời không bao giờ chạm được vạt áo của họ, và họ có thể kiêu ngạo thốt rằng “La loi, c’est moi! -- Luật pháp là ta!)
Huệ Khải
I.
Hôm ấy đức Phật một mình nhẹ gót bên bờ ao sen ở cõi Niết bàn.
Những đóa sen rộ nở trong ao, tất cả đều trắng ngần như châu ngọc, và ở tâm hoa cánh nhụy vàng không ngừng tỏa hương thơm bát ngát khung trời.
Ở cõi Niết bàn bấy giờ là buổi sáng.
Giờ đây đức Phật đứng yên lặng bên bờ ao, và qua một khoảng hở giữa đám lá che phủ mặt nước, Ngài chợt nhìn thấy cảnh quan ở dưới.
Bởi lẽ Địa ngục nằm ngay bên dưới ao sen của cõi Niết bàn, con sông Tam đồ [[2]] và ngọn núi Đao [[3]] có thể nhìn thấy rõ qua làn nước trong suốt như pha lê, như qua ống viễn kính.
Rồi đức Phật nhìn thấy một người tên Kandata, đang quằn quại cùng các tội nhân khác ở tận cùng Địa ngục.
Gã Kandata này là tướng cướp, xưa kia đã làm nhiều điều ác, sát sinh hại mạng và phóng hỏa đốt nhà, tuy nhiên y được ghi công đức một việc thiện. Có lần trên đường xuyên qua rừng sâu, y chú ý tới một con nhện bé nhỏ đang bò dọc theo vệ đường.
Giở chân lên thật lẹ làng, y sắp sửa dẫm chết con vật thì bất chợt nghĩ rằng: “Thôi đừng, nhỏ nhít như nó cũng có linh hồn; giết bừa nó đi thì thật xấu hổ.” Và y đã tha chết cho con nhện.
Khi nhìn xuống cõi Địa ngục, đức Phật nhớ lại cái cách Kandata tha mạng con nhện. Và đức Phật nghĩ rằng, nếu có thể được, để báo đền cho việc thiện ấy, Ngài muốn đưa y thoát ra khỏi Địa ngục. May sao, lúc nhìn quanh, Ngài bắt gặp một con nhện của cõi Niết bàn đang giăng sợi tơ như bạc xinh đẹp trên đám lá sen ánh một màu thanh bình yên ả.
Đức Phật nhẹ nhàng nâng lấy sợi tơ nhện trên tay. Và Ngài thả cho sợi tơ buông thẳng xuống tận cùng Địa ngục xa tít bên dưới, xuyên qua khoảng trống giữa những đóa sen trắng ngần như ngọc.
II.
Kandata đang ngụp lặn cùng các tội nhân khác trong ao Máu [3[4]]
ở nơi tận cùng Địa ngục.
Khắp chốn tối đen như mực, và thỉnh thoảng khi thoáng có gì hiện lên trong chỗ tối om ấy, hóa ra lại là ánh chớp lập loè của đầu mũi gươm, mũi kiếm trên ngọn núi Đao rợn người, thế nên hãi hùng khôn xiết. Hơn nữa, sự im lìm mộ địa đang ngự trị khắp nơi, và cái duy nhất thỉnh thoảng còn có thể nghe thấy là tiếng thở dài yếu ớt của các tội nhân.
Ấy bởi vì tội nhân khi xuống đến chốn này đều đã kiệt lực do muôn vạn cực hình của cõi Địa ngục và họ không còn hơi sức nào để kêu gào.
Thế nên, dù là tướng cướp dữ dằn chăng nữa, Kandata cũng ngạt thở vì máu, chẳng thể làm gì khác hơn là giãy giụa trong ao Máu như một con nhái đang giãy chết.
Nhưng thời cơ của y đã đến. Một hôm khi tình cờ ngẩng đầu lên nhìn vòm trời bên trên ao Máu, Kandata trông thấy từ trên cao, mãi tận các tầng trời thăm thẳm, thòng xuống chỗ y một sợi tơ nhệntrắng như bạc, lấp loáng lờ mờ trong bóng tối âm u tịch mịch dường như thể nó cũng sợ bị người ta bắt gặp.
Nhìn thấy sợi tơ, y vỗ tay vui mừng. Nếu bám vào sợi tơ này mà leo lên đến tận chỗ nó xuất phát thì chắc chắn y có thể thoát khỏi Địa ngục.
Và hơn thế nữa, nếu mọi sự suôn sẻ, thậm chí y còn có thể vào được cõi Niết bàn. Vậy thì y sẽ không bao giờ bị xô lên núi Đao hay đắm chìm trong ao Máu.
Ngay khi trong đầu nảy ra những ý nghĩ này, y nắm chặt lấy sợi tơ bằng cả hai tay và bắt đầu dốc toàn lực leo riết lên.
Vốn là tướng cướp, y quá đỗi thành thạo với những việc leo trèo như thế.
Nhưng Địa ngục cách Niết bàn hàng hà sa số dặm và có nỗ lực như y thì cũng không dễ gì thoát ra được. Sau khi leo được một lúc, cuối cùng y kiệt sức và không thể nhích thêm được lấy một phân.
Thế là, vì chẳng thể làm được gì khác hơn, y dừng lại dưỡng sức và đu mình vào sợi tơ, nhìn xuống, nhìn xuống tận bên dưới. Ngạc nhiên biết bao, nhờ y đã leo tận lực, ao Máu nơi y từng lặn hụp trong đó bấy giờ đã khuất chìm tận bên dưới trong bóng tối hun hút. Và ngọn núi Đao rợn người thì lấp loáng lờ mờ bên dưới y. Nếu cứ leo lên với tốc độ này, y có thể ra khỏi Địa ngục dễ dàng hơn y tưởng.
Xoắn bàn tay vào sợi tơ nhện, Kandata cười ha hả và bằng cái giọng mà y chưa hề thốt lên trong ngần ấy năm, kể từ khi xuống Địa ngục cho tới nay, y hét to: “Thành công rồi! Thành công rồi!”
Nhưng bỗng dưng y chú ý thấy rằng ở bên dưới sợi tơ nhện cơ man tội nhân khác cũng đang hăm hở leo lên theo sau y. Họ nhích lên, nhích lên, giống hệt như một đàn kiến diễu hành.
Mục kích cảnh tượng này, Kandata chỉ biết chớp chớp mắt một lúc, miệng há hốc ra một cách ngốc nghếch trong nỗi thảng thốt kinh hãi.
Sợi tơ nhện mỏng manh dường ấy, tưởng đâu chỉ với riêng một mình y thôi cũng phải đứt phựt rồi, cớ sao nó chịu đựng nổi sức nặng của cả ngần ấy thân hình kia chứ?
Nếu sợi tơ đứt phựt giữa lưng trời, thì kể cả chính y, sau bao công lao khó nhọc mới leo tới được chỗ này, y cũng sẽ phải cắm lộn đầu rơi ngược xuống Địa ngục trở lại. Nếu xảy ra sự việc như thế thì khiếp đảm quá.
Nhưng trong thời gian đó hàng trăm hàng ngàn tội nhân vẫn đang giãy giụa thoát ra khỏi ao Máu tối tăm và đang tận lực leo lên thành hàng trên sợi tơ mỏng manh lấp loáng. Nếu y không mau lẹ có hành động gì, sợi tơ chắc chắn sẽ phải đứt lìa, rớt xuống. Bởi thế, Kandata hét toáng lên:
“Nè lũ tội nhân chúng bay! Sợi tơ này là của tao. Ai cho phép chúng mày leo lên đây? Xuống đi! Xuống đi!”
Ngay đúng lúc ấy, sợi tơ nhện cho tới bấy giờ vẫn chưa có dấu hiệu gì là sẽ đứt, thình lình phựt lìa ngay tại chỗ Kandata đang đeo bám vào.
Thế là y vô phương cứu rồi. Chẳng kịp kêu lấy một tiếng nào, y cắm lộn đầu lao vút xuống rơi vào bóng tối, người y quay tít như cái bông vụ.
Sau đó, chỉ còn sợi tơ nhện của cõi Niết bàn, mỏng manh và lấp lánh, lơ lửng treo giữa khung trời chẳng ánh trăng sao.
III.
Đứng trên bờ ao sen của cõi Niết bàn, đức Phật chăm chú theo dõi mọi sự diễn ra, và khi Kandata như một hòn đá chìm lỉm xuống đáy ao Máu, Ngài lại thong thả bước đi với nét buồn buồn trên khuôn mặt.
Hẳn nhiên trái tim lạnh lùng của Kandata không sao cứu được y thoát khỏi Địa ngục, và y đã nhận lấy sự trừng phạt đích đáng mà rơi trở xuống chốn đọa đày. Ánh mắt đức Phật bộc lộ nỗi xót thương, nhưng trong ao kia những đóa sen trắng ngần của cõi Niết bàn chẳng hề quan tâm chi những việc như thế cả.
Những đoá sen trắng ngần như châu ngọc đang đung đưa mơn man đôi bàn chân Phật. Khi hoa lắt lay qua lại, từ những cánh nhị vàng ở tâm hoa, hương thơm ngào ngạt không ngừng tràn ngập khung trời.
Ở cõi Niết bàn bấy giờ là gần trưa.
Huệ Khải dịch
Dịch & Giới thiệu: HUỆ KHẢI (Bà Chiểu, 21-5-1993)