Diễn đàn

Trả lời Lê Mạnh Chiến về Nạn cống vải

Trên báo Đại biểu nhân dân số 13 (2492) ngày 13.1.2011, có bài Đôi điều về nạn cống vải của ông Lê Mạnh Chiến. Trước đây tôi có đọc một số bài viết của ông Lê Mạnh Chiến về nạn cống vải trên Thế giới mới và Văn nghệ tp Hồ Chí Minh.

Tôi rất quan tâm đến vấn đề ông nêu lên, nhưng tôi tự thấy không thể thảo luận những vấn đề học thuật khá sâu, đi vào phân tích, giám định, xử lý những cứ liệu trong thư tịch cổ của ta và Trung Quốc trên những báo không chuyên môn. Còn ĐBND là “Tiếng nói của Quốc hội, diễn đàn của đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân và cử tri”, có tòa soạn đặt ở Văn phòng Quốc hội 35 Ngô Quyền, thì tôi nghĩ rằng đây là một tờ báo chính trị xã hội của cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân và chắc phải nghiêm túc, thể hiện thái độ trách nhiệm cao trước công luận và cử tri, cung cấp những thông tin đáng tin cậy cho nhân dân.

Vì tôn trọng tờ báo mà tôi thấy có trách nhiệm trả lời hết sức vắn tắt đôi điều cần thiết để làm sáng tỏ đúng sai, phải trái trước “tiếng nói của Quốc hội”.

Tôi xin gạt bỏ tất cả những lời lẽ không lấy gì làm văn hóa, những chuyện xa xôi bên Nga, bên Hàn, cố lọc lấy những thông tin cần thiết trả lời để người đọc thấy được thực chất của vấn đề và kết quả nghiên cứu khoa học cho đến nay.

1. Ông Lê Mạnh Chiến coi tôi là “người đứng đầu giới sử học mấy chục năm nay”. Tôi xin trả lời ngay trong giới sử học không có ai là người đứng đầu cả và cũng không hề có chức danh đó. Còn chủ tịch Hội KHLSVN mà đại hội bầu thì chỉ đứng đầu Ban CH Hội, sau nhiệm kỳ bầu lại. Hội hoạt động theo tôn chỉ, mục đích được quy định rõ trong điều lệ do Chính phủ phê duyệt và chỉ chịu trách nhiệm về những hoạt động của Hội, không thể gán mọi ấn phẩm về lịch sử của các cơ quan, các tác giả vào trách nhiệm của Hội hay chủ tịch Ban CH hội. Tục ngữ có câu “giơ cao đánh sẽ”, còn ở đây tôi biết dụng ý “nâng cao” để quy tất cả trách nhiệm vào một người mang tính đại diện rồi “hạ gục” hay “làm mất mặt” cả giới sử học như một “ngón võ” trên “đấu trường”. Cách “tranh luận” đó thật xa lạ với hành xử văn hóa trên diễn đàn khoa học chân chính.

2. Về thuật ngữ “thời đại đồng thau”, ông cho rằng đưa ra thuật ngữ sai lầm này là “công trình tập thể, trong đó có đóng góp to lớn của các GS Trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê...”. Xin ông hãy dẫn chứng? Đây là thuật ngữ khảo cổ học do các nhà khảo cổ học đưa ra tương ứng với thuật ngữ “bronze age” trong tiếng Anh, từ những năm 1960. Tôi là một nhà sử học, không liên quan gì đến sự ra đời của thuật ngữ này. Đúng là thuật ngữ này được giới khảo cổ học sử dụng phố biến và khi khai thác các tư liệu khảo cổ học, người nghiên cứu thuộc các chuyên ngành khác, trong đó có tôi, cũng dùng theo. Tôi rất kinh ngạc, ông dựa vào đâu để cho rằng khi biên soạn Từ điển bách khoa VN, tôi đã “cương quyết đưa thuật ngữ sai trái này vào” và đã bị cố GS Nguyễn Văn Chiển ngăn cản. Sách TĐBKVN còn đó và trừ một ít nhà khoa học cao tuổi đã ra đi, phần lớn tác giả cùng ban biên soạn, ban biên tập còn đó, thế mà ông dám dựng lên chuyện bịa đặt 100% như thế. Ban biên soạn TĐBKVN có 36 tiểu ban với hàng trăm nhà khoa học trên các lĩnh vực khoa học và công nghệ, trong đó có tiểu ban khảo cổ học. Các tiểu ban chịu trách nhiệm về các mục từ trong phạm vi chuyên môn của mình.

Trong T.I  có thuật ngữ “đồng thau” tương ứng với từ “brass” trong tiếng Anh hay “laiton” trong tiếng Pháp (TĐBKVN, T.I, tr. 876), do tiểu ban Hóa biên soạn. Tiểu ban Khảo cổ học lúc đầu biên soạn mục từ “thời đại đồng thau” tương ứng với thuật ngữ “bronze age”. Như vậy là có sự khác biệt về thuật ngữ giữa hai tiểu ban trong cùng một công trình. Chính GS Nguyễn Văn Chiển là người phát hiện ra vấn đề này và theo GS, nên dùng thuật ngữ “thời đại đồ đồng” tương ứng với “bronze age”. Tôi với tư cách Phó trưởng ban thứ nhất Ban biên soạn đã cùng GS Nguyễn Văn Chiển là Ủy viên Ban thường trực, mời đại diện tiểu ban Khảo cổ học lên làm việc và sau khi trao đổi, Tiểu ban đã chỉnh sửa lại thành mục từ “thời đại đồ đồng”, trong đó có ghi chú “trước đây trong ngành khảo cổ học VN quen gọi là thời đại đồng thau” (TĐBKVN, T.IV, tr.262). Theo tôi, tiểu ban Khảo cổ học chỉnh sửa lại như vậy là cần thiết để bảo đảm sự nhất quán trong bộ TĐBKVN và thêm ghi chú như vậy là thỏa đáng. Tuy nhiên, trong khi trao đổi, chúng tôi thấy cụm từ “thời đại đồ đồng” còn chung chung, chưa phân biệt được sự khác nhau giữa “đồng” (đồng nguyên chất hay đồng tự nhiên) và các hợp kim “bronze”, “brass” trong nghiên cứu khảo cổ học, nên cần tiếp tục nghiên cứu. Cho đến nay, trong các công trình khoa học hay bài viết về khảo cổ học vẫn có người dùng “đồ đồng”, có người dùng “đồng thau”. Tôi xin nói thêm, các thuật ngữ khoa học, nhất là về KHXH&NV, cho đến nay còn chưa được chuẩn hóa nên còn có sự khác biệt giữa các nhà khoa học và giữa các ngành. Trong Lời nói đầu của TĐBKVN tập IV có nhận xét: “Các thuật ngữ khoa học do các chuyên  ngành sử dụng chưa có sự thống nhất và chuẩn hóa mang tính quốc gia”. Công việc chuẩn hóa thuật ngữ khoa học không thể do một cá nhân quyết định mà cần được sự tham gia, đồng thuận trong giới chuyên môn và nên do một ủy ban hay hội đồng nhà nước nghiên cứu trình Quốc hội quyết định như nhiều quốc gia trên thế giới.

3. Về “nạn cống vải” thời thuộc Đường liên quan đến nguyên nhân cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan, ông Chiến đã viết nhiều bài và phê phán, thách đố cả giới sử học đủ điều với lời lẽ nào là “bịa đặt”, “xuyên tạc”, “tà thuật”, “đánh lừa độc giả”..., trong đó cũng quy trách nhiệm chủ yếu cho tôi. Tôi chỉ trả lời mấy điểm chính:

3.1. Ông đã dẫn ra 7 cuốn sách và bài trên ĐBND bổ sung thêm cuốn Lịch sử Hà Tĩnh, T.I rồi quy trách nhiệm chính cho tôi. Trong 8 cuốn sách đó, tôi có tên trong 2 cuốn: Lịch sử VN, T.I (Nxb ĐH&THCN, 1983) và Lịch sử Hà Tĩnh, T.I (Nxb CTQG, 2000). Trong cuốn thứ nhất, tôi là người chủ trì (không phải chủ biên) và tác giả từng chương được ghi rõ trong sách, tôi không viết về thời Bắc thuộc và khởi nghĩa Mai Thúc Loan. Trong cuốn thứ hai, tôi không phải là chủ biên mà là một thành viên biên soạn được phân công viết các chương từ thế kỷ XV đến XIX. Điều này, trong Ban biên soạn ai cũng biết và tôi đã viết rõ trong Lịch sử và văn hóa VN, tiếp cận bộ phận (2007, tr. 564). Tôi không phủ nhận trách nhiệm liên đới trong một công trình chung, nhưng ông Chiến quy kết “là người “cao giá” nhất trong số tám nhà sử học viết Lịch sử Hà Tĩnh tập I, ông Phan Huy Lê không thể chối bỏ trách nhiệm trong vụ sáng tác sử liệu này” thì thật là áp đặt vô căn cứ. Như vậy là trước cuộc hội thảo về “Mai Thúc Loan với khởi nghĩa Hoan Châu” ngày 8 và 9 tháng 11 năm 2008, tôi chưa hề viết một bài báo hay một chương nào trong bất cứ cuốn sách nào về nạn cống vải. Thế mà ông Chiến cố tình quy kết trách nhiệm cho tôi, vậy trung thực ở đâu và mục tiêu là gì, xin để mọi người phán xét.

3.2. Giới sử học, trong đó có tôi, không muốn tranh luận với ông trên các báo không chuyên môn nhưng không hề né tránh vấn đề khoa học ông đã nêu lên trước công luận. Cụ thể là ngày 8 và 9.11.2008, Viện sử học và Đại học Vinh đã phối hợp tổ chức một cuộc Hội thảo khoa học mang tiêu đề “Mai Thúc Loan với khởi nghĩa Hoan Châu” tại thành phố Vinh. Ban tổ chức nhận được hơn 30 báo cáo và số người tham gia hội thảo đến trên 100 người, trong đó có nhiều nhà sử học đến từ các viện, các trường đại học ở trung ương và địa phương. Sau hai ngày làm việc, nghe báo cáo và thảo luận về hầu như tất cả các vấn đề liên quan đến cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan, trong đó có chế độ cống vải trong thời Bắc thuộc nói chung và thời khởi nghĩa họ Mai nói riêng. Hội thảo thấy còn nhiều vấn đề cần tiếp tục thu thập và xác minh tư liệu, nhưng đã thống nhất được nhiều vấn đề cơ bản, nâng hiểu biết về cuộc khởi nghĩa Hoan Châu lên một trình độ mới so với trước. Một kỷ yếu tạm thời đã in, phát trong hội thảo và sau khi biên tập, ban tổ chức đã xuất bản thành sách mang tên Kỷ yếu hội thảo khoa học toàn quốc: Mai Thúc Loan với khởi nghĩa Hoan Châu do Nxb KHXH in, nộp lưu chiểu tháng 3.2010.

Về các truyền thuyết đi phu cống quả vải, bản Tổng kết hội thảo nhận định và đánh giá: “Trong các truyền thuyết về Mai Thúc Loan có truyền thuyết đi phu cống vải và từ dạng truyền khẩu đã đi vào hát chầu văn, vào thơ, khá phố biến ở vùng Nghệ Tĩnh nhất là vùng Nam Đàn. Đó là một bộ phận trong kho tàng truyền thuyết dân gian mà giá trị của nó cần được nhìn nhận và đánh giá theo tiêu chí của thể loại văn học dân gian. Những truyền thuyết đó ít nhiều có xuất phát từ lịch sử và phản ánh những khía cạnh khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp, thực tế lịch sử đã qua được lưu giữ hay ảnh xạ qua ký ức của nhiều thế hệ. Nhưng coi truyền thuyết như lịch sử là một sai lầm về nhận thức và phương pháp luận sử học. Một số tác giả khi biên soạn sách giáo khoa hay lịch sử địa phương, lịch sử dân tộc, không nghiên cứu, đối chiếu với các sử liệu đáng tin cậy, đem các truyền thuyết Mai Thúc Loan đi phu cống vải vào lịch sử là sai lầm” (Kỷ yếu, Tổng kết, tr. 226).

Về chế độ cống quả vải thời Bắc thuộc, hội nghị xác nhận: “Căn cứ vào ghi chép của Kê Hàm trong Nam phương thảo mộc trạng thì năm 111 TCN, Hán Vũ đế sau khi chiếm Nam Việt, đã sai đem cây vải từ Giao Chỉ về trồng, nhưng thất bại nên bắt cống nạp hàng năm (tuế cống). Giao Chỉ ở đây là quận Giao Chỉ ở miền bắc nước ta, chứ không thể là bộ Giao Chỉ bao gồm cả miền Lĩnh Nam (nam Trung Quốc) vì đơn vị này thành lập sau đó, vào năm 106 TCN (Tiền Hán thư, Q.6). Hơn nữa, Cổ kim sử loại văn tùng (Q.25) còn cho biết đến thời Tam quốc, vua Ngụy Văn đế (220-226) hạ chiếu bắt Giao Chỉ và Cửu Chân hàng năm phải cống nạp quả lệ chi (vải) và long nhãn (nhãn). Từ những cứ liệu đó, có thể xác định chế độ cống vải đã từng tồn tại ở nước ta, bắt đầu từ thời Tây Hán và ít nhất cho đến đầu thời Tam Quốc vẫn còn. Còn cách thức bảo quản và vận chuyển như thế nào, sử sách không ghi chép và chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu. (Kỷ yếu, Tổng kết, tr. 226-227). Xin lưu ý kinh đô nhà Tây Hán và nhà Đường đều ở Tràng An. 

Về chế độ cống quả vải thời Đường, hội nghị kết luận: “Nhưng đến thời Đường, theo Tân Đường thư (Q.43 thượng), Tư trị thông giám (Q.250), Thông giám tổng loại (Q.6) thì vải cống lấy từ Lĩnh Nam, chủ yếu từ Nam Hải, và vận chuyển khẩn cấp bằng ngựa trạm. Sau đó nhà Đường cho ngâm vải vào nước muối hay mật để bảo quản. Đến đời vua Đường Ý Tông (860-874) thì có lệnh đình chỉ chế độ tiến vải (Đường đại chiếu lệnh tập, Q. 86). Như vậy vào thời nhà Đường, chế độ cống vải không còn thi hành ở nước ta nữa và dĩ nhiên, không thể dựa vào truyền thuyết để cho rằng Mai Thúc Loan đã từng đi phu cống vải và cũng không thể coi chế độ lao dịch cống vải là nguyên nhân, dù là nguyên nhân trực tiếp, của cuộc khởi nghĩa. Truyền thuyết này có thể phản ánh chế độ lao dịch hà khắc của thời Bắc thuộc nói chung” (Kỷ yếu, Tổng kết, tr. 227).  

Về chế độ cống vải, thái độ của giới sử học, ít nhất là tập thể những nhà sử học tham gia hội thảo ở Vinh rất rõ ràng. Nội dung quan trọng bậc nhất của hội thảo này là xác định năm mở đầu cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan là năm 713 và năm kết thúc là năm 722, chứ không phải cuộc khởi nghĩa bùng nổ rồi thất bại trong năm 722. Đây là một thành tựu lớn nhất của hội thảo và là một thành tựu quan trọng của sử học VN nói chung. Với thành tựu này, khởi nghĩa Mai Thúc Loan trước đây thường chỉ được coi là một cuộc khởi nghĩa địa phương giới hạn trong năm 722 thì nay được nhìn nhận là một cuộc khởi nghĩa quy mô lớn, có vị trí và ý nghĩa trọng đại trong cuộc đấu tranh giải phóng đất nước thời Bắc thuộc. Sau khi nổi dậy ở Hoan Châu (Nghệ Tĩnh), nghĩa quân đã tiến ra Bắc, chiếm lĩnh phủ thành, giải phóng cả nước và xây dựng, bảo vệ chính quyền độc lập Mai Hắc Đế trong gần 10 năm. Đây là một trong bốn cuộc khởi nghĩa lớn nhất thời chống Bắc thuộc trước khi thành lập chính quyền của họ Khúc: khởi nghĩa Hai Bà Trưng, khởi nghĩa Lý Bý, khởi nghĩa Mai Thúc Loan, khởi nghĩa Phùng Hưng.

Hội thảo cũng đã thông qua kiến nghị gửi đến các cơ quan có trách nhiệm về khoa học và giáo dục, nhất là về biên soạn sách giáo khoa và lịch sử, trong đó kiến nghị thứ nhất như sau:

“a. Các cơ quan có trách nhiệm về biên soạn sách giáo khoa, về biên soạn lịch sử cần đính chính lại các sai lầm trước đây về khởi nghĩa Mai Thúc Loan như cho rằng cuộc khởi nghĩa bùng nổ và thất bại trong năm 722, về truyền thuyết đi phu cống vải, đồng thời cần viết lại cuộc khởi nghĩa Hoan Châu (713-722) với quy mô to lớn, thắng lợi oanh liệt và ý nghĩa lịch sử trọng đại mà những tư liệu mới sưu tầm và xác minh đã cho phép khẳng định” (Kỷ yếu, Tổng kết, tr. 228).

Chế độ cống quả vải trong thời Bắc thuộc nói chung và thời thuộc Đường nói riêng, đã được một hội thảo khoa học của giới sử học giải quyết như thế từ tháng 11 năm 2008 và Kỷ yếu đã được xuất bản vào tháng 3 năm 2010.

 4. Nhận thức lịch sử là một quá trình tiến dần tới chân lý, càng ngày càng tiếp cận sự thật lịch sử một cách khách quan và xác thực hơn. Trên con đường vạn dặm đó, mỗi nhà sử học, mỗi thế hệ sử gia có những tìm tòi, khám phá đóng góp vào sự phát triển chung và lúc này lúc khác, người này người khác, khó tránh khỏi những sai lầm, hạn chế. Trước một thành tựu, một bước tiến của nhận thức sử học được coi là công lao nhiều người, mỗi người tự nhìn vào đó để khắc phục những sai lầm và vui mừng về phần cống hiến của mình. Dĩ nhiên qua sự sàng lọc của thời gian và công luận, một số phát hiện, một số công trình có giá trị sẽ được nhìn nhận và tôn vinh bằng những giải thưởng khoa học. Đấy là chuyện khác, còn trong nghiên cứu và tranh luận, không nên vội vàng tự khẳng định mình rồi ồn ào thách thức, phê phán mọi người, đòi hỏi phải công nhận thành tựu của mình. Đó là động cơ và thái độ xa lạ với lao động khoa học chân chính và phẩm chất của nhà khoa học thực sự. Trong kết quả xác định lại quy mô và ý nghĩa lịch sử lớn lao của khởi nghĩa Mai Thúc Loan, dĩ nhiên có đóng góp của những nhà khoa học cụ thể qua báo cáo và thảo luận của họ mà ai cũng biết, nhưng trong bản Tổng kết được hội nghị thông qua không nêu tên tuổi cá nhân và cũng không có nhà khoa học nào đòi hỏi phải được vinh danh. Có lẽ ông Lê Mạnh Chiến, nếu muốn tham gia nghiên cứu, thảo luận những vấn đề lịch sử, cũng có thể nhìn vào kết luận của hội thảo và dễ nhận thấy phần đóng góp của ông và cả phần chưa đúng, chưa thỏa đáng của ông. Tôi cần nói thêm, tuy hội thảo đã đi đến một số kết luận được mọi người nhất trí, nhưng bên cạnh còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu tiếp và ngay cả kết luận đạt được đến lúc nào đó, với những tư liệu mới phát hiện hay với trình độ tiếp cận mới, cũng có thể đưa ra thảo luận để xác nhận, bổ sung thêm hay nhận thức lại. Trong khoa học không bao giờ có kết luận cuối cùng và mọi vấn đề luôn luôn để mở cho sự khám phá mới, nhận thức mới cao hơn. Trong khoa học, tranh luận, đối thoại, hội thảo rất cần thiết và cần được coi là một phương thức, một động lực của sự phát triển khoa học. Nhưng tranh luận, dù có thể bút chiến gay gắt, pha chút tiêu ớt không sao, chỉ có ý nghĩa và phát huy giá trị khi được tiến hành trong môi trường văn hóa với động cơ vì chân lý, thái độ khách quan, trung thực và tôn trọng nhau.

Nguồn: Đại biểu nhân dân

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114511420

Hôm nay

283

Hôm qua

2336

Tuần này

21794

Tháng này

218293

Tháng qua

121356

Tất cả

114511420