CHÚ THÍCH CHO CHƯƠNG 3
1 Với giải thích này về thuật ngữ đầu sỏ, so cả cuối của các ct. 44 và 57 của chương 8.
2 So đặc biệt chú thích 48 của chương 10.
3 So cuối chương 7, đặc biệt ct. 25, và chương 10, đặc biệt ct. 69.
4 So Diogenes Laert., III, 1. - Về các mối quan hệ gia đình của Plato, và đặc biệt dòng dõi được cho là của gia đình bố ông từ vua Codrus, ‘và thậm chí từ Thần Poseidon’, xem G. Grote, Plato and other Companions of Socrates (ed. 1875), vol. I, 114. (Tuy vậy, xem nhận xét tương tự về gia đình Cristias, tức gia đình mẹ Plato, trong E. Meyer, Geschichte des Altertums, vol. V, 1922, p. 66). Plato nói về Codrus trong Symposium (208d): ‘Anh có cho rằng Alcestis, … hay Achilles, … hay Codrus của riêng anh có thể tìm đến cái chết - nhằm cứu vương triều cho các con của ông - giả như họ không kì vọng có được sự tưởng nhớ bất tử về đức hạnh của họ mà trong đó thực ra chúng ta nhớ tới họ?’ Plato ca ngợi gia đình Critias (tức gia đình mẹ ông) sớm trong Charmides (157e ff.) và muộn hơn trong Timaeus (20e), nơi gia đình truy nguyên về nhà cai trị (archōn) Athens là Dropides, bạn của Solon.
5 Hai trích dẫn có tính tự truyện tiếp theo là từ Seventh Letter [Lá Thư thứ Bảy] (325). Quyền tác giả của Plato với các Lá thư bịmột số học giả lỗi lạc nghi ngờ (có lẽ không có đủ căn cứ; tôi nghĩ cách giải quyết vấn đề này của Field rất thuyết phục; so ct. 57 của chương 10; mặt khác, ngay cả Seventh Letter có vẻ đối với tôi hơi đáng ngờ - nó lặp lại quá nhiều cái chúng ta biết từ Apology, và nói quá nhiều cái mà cơ hội đòi hỏi). Vì vậy tôi thận trọng đặt cơ sở cho diễn giải của tôi về chủ nghĩa Plato chủ yếu trên một số đối thoại nổi tiếng nhất; tuy nhiên, nhìn chung thống nhất với Letters. Để thuận tiện cho bạn đọc, một danh mục các đối thoại Platonic thường xuyên được nhắc đến trong văn bản có thể được liệt kê ở đây, theo thứ tự lịch sử có lẽ của chúng; so ct. 56 (8) của chương 10. Crito – Apology - Eutyphro; Protagoras – Meno - Gorgias; Cratylus - Menexenus - Phaedo; Republic; Parmenides - Theaetetus; Sophist - Statesman (hay Politicus) – Philebus; Timaeus – Critias; Laws.
6 (1) Rằng các diễn tiến lịch sử có thể có đặc tính chu kì không ở đâu được Plato phát biểu rất rõ ràng. Nó, tuy vậy, được ám chỉ ít nhất trong bốn đối thoại, cụ thể là trong Phaedo, trong Republic, trong Statesman (hay Politicus), và trong Laws. Ở tất cả các chỗ này, lí thuyết của Plato có lẽ có thể ám chỉ đến Năm Lớn của Heraclitus (so ct. 6 của chương 2). Có thể, tuy vậy, là sự ám chỉ không trực tiếp đến Heraclitus, mà đúng hơn đến Empedocles, mà lí thuyết của ông (so cả Aristotle, Met., 1000a25 f.) được Plato coi chỉ là một phiên bản ‘ôn hoà hơn’ của lí thuyết Heraclitean về sự thống nhất của mọi dòng chảy. Ông bày tỏ điều này ở một đoạn nổi tiếng của Sophist (242e f.). Theo đoạn này, và theo Aristotle (De Gen. Corr., B, 6., 334a6), có một chu kì lịch sử bao gồm một giai đoạn ở đó tình yêu ngự trị, và một giai đoạn trong đó xung đột của Heraclitus ngự trị; và Aristotle nói với chúng ta rằng, theo Empedocles, giai đoạn hiện thời ‘bây giờ là giai đoạn chế ngự của Xung đột, như trước đó là sự chế ngự của Tình yêu’. Sự khẳng định này rằng dòng chảy của thời kì vũ trụ riêng của chúng ta là một loại xung đột, và vì thế là xấu, là phù hợp sát cả với các lí thuyết của Plato lẫn với các kinh nghiệm của ông.
Độ dài của Năm Lớn, có lẽ, là chu kì thời gian sau đó tất cả các thiên thể trở lại cùng vị trí tương đối với nhau như chúng đã chiếm ở thời điểm mà từ đó chu kì được tính. (Điều này làm cho nó là bội số chung nhỏ nhất của các chu kì của ‘bảy hành tinh’).
(2) Đoạn trong Phaedo được nhắc tới ở (1) ám chỉ đầu tiên đến lí thuyết Heraclitean về thay đổi dẫn từ một trạng thái đến trạng thái đối lập của nó, hay từ một đối lập sang đối lập khác: ‘rằng cái trở thành nhỏ hơn một thời phải là lớn hơn ..’ (70e/71a). Rồi nó tiếp tục biểu lộ một qui luật tuần hoàn về phát triển: ‘Không phải có hai quá trình luôn diễn ra, từ một thái cực sang cái đối lập của nó, và lại quay lại ..?’ (loc. cit.). Và muộn hơn một chút (72a/b) lí lẽ được trình bày thế này: ‘Nếu giả như sự phát triển chỉ theo đường thẳng, và không có sự bù hay tuần hoàn trong tự nhiên, .. thì, cuối cùng, mọi sự vật sẽ có cùng tính chất .. và sẽ không có phát triển thêm nào’. Hình như xu hướng chung của Phaedo là lạc quan (và chứng tỏ sự tin tưởng hơn vào con người và lí trí con người) hơn xu hướng chung của các đối thoại muộn hơn, nhưng không có dẫn chiếu trực tiếp nào đến sự phát triển lịch sử.
(3) Các dẫn chiếu như vậy, tuy nhiên, được đưa ra trong Republic nơi, ở Quyển VIII và IX, ta thấy một mô tả chi tiết về sự suy đồi lịch sử được xem xét ở đây trong chương 4. Mô tả này được giới thiệu bởi Câu Chuyện của Plato về Sự Suy đồi của Con Người và của Số, sẽ được thảo luận đầy đủ hơn ở đây trong các chương 5 và 8. Trong lần xuất bản The Republic of Plato của mình (1902, 1921), J. Adam đã gọi đúng câu chuyện này là ‘khung cảnh trong đó “Triết học về Lịch sử” của Plato được trình bày’ (vol. II, 210). Câu chuyện này không chứa bất cứ khẳng định rõ ràng nào về tính chất tuần hoàn của lịch sử, nhưng nó có vài lời ám chỉ khá bí ẩn mà, theo diễn giải lí thú nhưng không chắc chắn của Aristotle (và của Adam), có lẽ là các ám chỉ đến Năm Lớn Heraclitean, tức là đến sự phát triển có chu kì. (So ct. 6 của chương 2, và Adam, op. cit., vol. II, 303; nhận xét về Empedocles đưa ra ở đây, 303 f., cần sửa chữa; xem (1) ở ct. này, ở trên).
(4) Hơn nữa, có thần thoại trong Statesman (268e-274e). Theo thần thoại này, bản thân Chúa Trời lái thế giới trong một nửa chu kì của chu kì thế giới lớn. Khi ông buông ra, thì thế giới, cho đến lúc này vẫn tiến lên, bắt đầu lăn trở lại. Như thế chúng ta có hai nửa chu kì trong một chu kì đầy đủ, một chuyển động lên phía trước do Chúa Trời lái tạo thành giai đoạn tốt không có chiến tranh hay xung đột, và một chuyển động lùi khi Chúa Trời bỏ thế giới, đó là thời kì hỗn độn và xung đột tăng lên. Nó, tất nhiên, là thời kì mà chúng ta sống. Cuối cùng, sự vật trở nên tồi tệ đến mức Chúa Trời sẽ lại cầm lấy tay lái, và đảo ngược chuyển động, nhằm cứu thế giới khỏi sự phá huỷ hoàn toàn.
Thần thoại này rất giống với thần thoại của Empedocles được nhắc đến ở (1) trên đây, và có lẽ cả với Năm Lớn của Heraclitus. – Adam (op. cit., vol. II, 296 f.) cũng chỉ ra sự giống nhau với chuyện của Hesiod. *Một trong các điểm ám chỉ đến Hesiod là sự dẫn chiếu đến một Thời đại Hoàng kim của Cronos; và quan trọng để lưu ý rằng con người của thời đại này là những người sinh ra từ đất. Điều này xác lập một điểm giao tiếp với Thần thoại về Người Sinh ra từ Đất, và về các kim loại trong con người, cái đóng một vai trò trong Republic (414b ff. và 546e f.); vai trò này được thảo luận ở dưới trong chương 8. Thần thoại về Người Sinh ra từ Đất cũng được ám chỉ tới trong Symposium (191b); có lẽ là sự ám chỉ đến việc cho rằng những người Athens là ‘giống những con châu chấu’ – bản địa (so các ct. 32 (1)e của chương 4 và 11 (2) của chương 8).*
Tuy vậy, muộn hơn trong Statesman (302b ff.) khi sáu dạng chính thể bất hoàn hảo được xếp thứ tự theo mức độ không hoàn hảo của chúng, không còn thấy có dấu hiệu nào về lí thuyết tuần hoàn của lịch sử. Đúng hơn, sáu dạng, tất cả đều là các bản sao tha hoá của nhà nước hoàn hảo và tốt nhất (Statesman; 293d/e; 297c; 303b), hiện ra hết thảy như các bước trong quá trình tha hoá; tức là cả ở đây và trong Republic, khi đến các vấn đề lịch sử cụ thể hơn, Plato giới hạn mình vào phần của chu kì dẫn tới suy đồi.
* (5) Các nhận xét tương tự có giá trị cho Laws. Cái gì đó giống một lí thuyết tuần hoàn được phác hoạ ở Quyển III, 676b/c-677b, nơi Plato quay sang một phân tích chi tiết hơn về sự khởi đầu của một trong các chu kì; và ở 678e và 679c, sự khởi đầu này hoá ra là một Thời kì Hoàng kim, cho nên câu chuyện tiếp lại trở thành chuyện về sa đoạ. – Có thể nhắc đến là thuyết của Plato rằng các hành tinh là các thần, cùng với thuyết rằng các thần ảnh hưởng đến cuộc sống con người (và với lòng tin của ông rằng các lực vũ trụ hoạt động trong lịch sử), đóng một phần quan trọng trong suy xét chiêm tinh học của các nhà tân-Platonist. Cả ba thuyết đều có thể thấy trong Laws (xem, thí dụ, 821b-d và 899b; 899d-905d; 677a ff.). Chiêm tinh học, phải hiểu rõ, chia sẻ với chủ nghĩa lịch sử lòng tin vào một số phận xác định có thể tiên đoán được; và nó chia sẻ với vài phiên bản quan trọng của chủ nghĩa lịch sử (đặc biệt với chủ nghĩa Plato và chủ nghĩa Marx) lòng tin rằng, bất kể khả năng tiên đoán tương lai, chúng ta có ảnh hưởng nào đó lên nó, đặc biệt nếu chúng ta thật sự biết cái gì đang đến.*
(6) Ngoài các ám chỉ ít ỏi này ra, hầu như không có bất cứ gì để biểu lộ rằng Plato coi chu kì lên hay tiến tới là nghiêm túc. Song có nhiều nhận xét, ngoài mô tả chi tiết trong Republic và cái được trích ở (5), chứng tỏ rằng ông tin rất nghiêm túc vào chuyển động đi xuống, vào sự suy đồi của lịch sử. Chúng ta phải xét, đặc biệt, đến Timaeus, và Laws.
(7) Trong Timaeus (42b f., 90e ff., và đặc biệt 91d f.; so cả Phaedrus, 248d f.), Plato mô tả cái có thể được gọi là nguồn gốc của các loài do tha hoá (so văn bản cho ct. 4 của chương 4, và ct. 11 của chương 11): Đàn ông tha hoá thành đàn bà, và muộn hơn thành các động vật thấp hơn.
(8) Trong Laws Quyển III (so cả Quyển IV, 713a ff.; xem tuy vậy ám chỉ ngắn đến chu kì được nhắc ở trên) ta có một lí thuyết khá tỉ mỉ về sự suy đồi lịch sử, phần lớn giống lí thuyết ở Republic. Xem cả chương tiếp, đặc biệt các ct. 3, 6, 7, 27, 31, và 44.
7 Một ý kiến tương tự về các mục đích chính trị của Plato được G. C. Field bày tỏ trong Plato and His Contemporaries (1930), p. 91: ‘Các mục đích chính của triết học của Plato có thể coi như nỗ lực để tái thiết lập các tiêu chuẩn của tư duy và tư cách cho một nền văn minh dường như trên bờ tan rã’. Xem cả ct. 3 của chương 6, và văn bản.
8 Tôi theo đa số những người cổ hơn và số đông những người đương thời có uy tín (như, G. C. Field, F. M. Cornford, A. K. Rogers) có lòng tin ngược với John Burnet và A. E. Taylor, rằng lí thuyết về các Hình thức hay Ý niệm là gần như hoàn toàn của Plato, chứ không phải của Socrates, bất chấp sự thực là Plato đặt nó vào miệng Socrates như người phát ngôn chính của ông. Mặc dù các đối thoại của Plato là nguồn loại một duy nhất của chúng ta về giáo huấn của Socrates, tôi tin, có thể phân biệt trong chúng giữa các đặc tính ‘Socratic’, tức là đúng về lịch sử, và các đặc tính ‘Platonic’ của người phát ngôn của Plato là ‘Socrates’. Cái gọi là Vấn đề Socratic được thảo luận ở các chương 6, 7, 8, và 10; so đặc biệt ct. 56 của chương 10.
9 Thuật ngữ ‘kĩ thuật xã hội’ được Roscoe Pound dùng đầu tiên, trong Introduction to the Philosophy of Law (1922, p. 99; *Bryan Magee nói với tôi bây giờ là ông bà Webb đã dùng nó chắc chắn trước 1922.*). Ông dùng nó với ý nghĩa ‘từng phần’. Nó được M. Eastman dùng theo nghĩa khác ở Marxism: is it Science? (1940). Tôi đọc sách của Eastman sau khi văn bản của cuốn sách này đã được viết; thuật ngữ ‘kĩ thuật xã hội’ của tôi, do đó, được dùng mà không có bất cứ ý ám chỉ nào đến thuật ngữ của Eastman. Ở chừng mực tôi có thể thấy, ông chủ trương cách tiếp cận mà tôi phê phán ở chương 9 dưới cái tên ‘kĩ thuật xã hội Không tưởng’; so ct. 1 ở chương đó. – Xem cả ct. 18 (3) ở chương 5. Có thể coi nhà quy hoạch thành phố Hippodamus xứ Miletus như kĩ sư xã hội đầu tiên . (So Politics của Aristotle 1276b22, và R. Eisler, Jesus Basileus, II, p. 754).
Từ ‘kĩ thuật xã hội’ được C. G. F. Simkin gợi ý cho tôi. – Tôi muốn làm rõ là trong thảo luận các vấn đề về phương pháp, nhấn mạnh chủ yếu của tôi là về thu được kinh nghiệm chế định thực tiễn. So chương 9, đặc biệt văn bản cho ct. 8 ở chương đó. Về phân tích chi tiết hơn về các vấn đề phương pháp liên quan đến kĩ thuật xã hội và công nghệ xã hội, xem Sự khốn cùng của Chủ nghĩa lịch sử (2nd ed., 1960) của tôi, phần III.
10 Đoạn trích là từ Sự khốn cùng của Chủ nghĩa lịch sử của tôi, p. 65. ‘Các kết quả không dự kiến của hoạt động con người’ được thảo luận đầy đủ hơn dưới đây, ở chương 14, xem đặc biệt ct. 11 và văn bản.
11 Tôi tin vào một thuyết nhị nguyên của các sự thực và các quyết định hay đòi hỏi (hay của ‘là’ và ‘nên’); nói cách khác, tôi tin vào tính không thể quy các quyết định hay đòi hỏi về các sự thực, dẫu cho chúng có thể, tất nhiên, được coi như các sự thực. Nhiều hơn về điểm này sẽ được nói ở các chương 5 (văn bản cho ct. 4-5), 22, và 24.
12 Bằng chứng ủng hộ diễn giải này về lí thuyết của Plato về nhà nước tốt nhất sẽ được đưa ra trong ba chương tiếp; giữa chừng, tôi có thể dẫn chiếu đến Statesman, 293d/e; 297c; Laws, 713b/c; 739d/e; Timaeus, 22d ff., đặc biệt 25e và 26d.
13 So tường thuật nổi tiếng của Aristotle, được trích một phần ở chương này (xem đặc biệt ct. 25 của chương này và văn bản).
14 Điều này được chứng tỏ trong Plato của Grote, vol. III, chú thích u ở p. 267 f.
15 Các trích dẫn là từ Timaeus, 50c/d và 51e-52b. Sự ví von mô tả các Hình thức hay Ý niệm như bố, và Không gian như mẹ, của các thứ cảm nhận được, là quan trọng và có các mối liên hệ sâu xa. So cả các ct. 17 và 19 ở chương này, và ct. 10 ở chương 10.
(1) Nó giống thần thoại về hỗn độn của Hesiod, lỗ toác (không gian; chỗ chứa) tương ứng với mẹ, và Thần Eros tương ứng với cha hay Ý niệm. Hỗn độn (chaos) là căn nguyên, và vấn đề giải thích nhân quả (chaos = nguyên nhân) một thời gian dài vẫn là nguyên nhân của khởi đầu (archē) hay sinh đẻ hay phát sinh ra.
(2) Mẹ hay không gian tương ứng với vô hạn hay bao la của Anaximander và các Pythagorean. Ý niệm, là giống đực, vì thế phải tương ứng với xác định (hay có giới hạn) của các Pythagorean. Vì có giới hạn, trái với vô hạn, đàn ông, trái với đàn bà, sáng, trái với tối, tốt, trái với xấu, tất cả đều thuộc về cùng bên của bảng Pythagorean về các đối lập. (So Metaphysics của Aristotle. 986a22 f.). Vì thế chúng ta cũng có thể kì vọng để thấy các Ý niệm liên kết với ánh sáng và điều thiện (So cuối ct. 32 ở chương 8)
(3) Các Ý niệm là các ranh giới hay giới hạn, chúng là xác định, trái với Không gian vô hạn, và đóng hay in (so ct. 17 (2) ở chương này) bản thân chúng, giống như các con dấu cao su, hoặc hay hơn, giống các khuôn, lên Không gian (cái không chỉ là không gian mà đồng thời là vật liệu chưa có hình thù của Anaximander - chất liệu chưa có đặc tính), như thế tạo ra các thứ cảm nhận được. *J. D. Mabbott đã vui lòng lưu ý tôi về sự thực là các Hình thức hay Ý niệm, theo Plato, không đóng hay in bản thân chúng lên Không gian mà, đúng hơn, được Demiurge đóng hay in lên nó. Các dấu vết của lí thuyết rằng các Hình thức là ‘căn nguyên cả của sự tồn tại và của sự sinh ra (hay của sự đến)’ đã có thể thấy rồi trong Phaedo (100d), như Aristotle chỉ ra (ở Metaphysics 1080a2).*
(4) Do hệ quả của hành động sinh, Không gian, tức chỗ chứa, bắt đầu đau đẻ, để đưa mọi thứ vào chuyển động, trong một dòng chảy Heraclitean hay Empedoclean cái thực sự là phổ quát tới chừng mức mà chuyển động hay dòng chảy mở rộng ra thậm chí cho cả khung khổ, tức là bản thân không gian (vô hạn) nữa. (Về ý tưởng Heraclitean muộn về chỗ chứa, so Cratylus, 412d.).
(5) Mô tả này cũng gợi lại ‘Con đường Ý kiến Hão huyền’ của Parmenides, trong đó thế giới kinh nghiệm và thay đổi do sự pha trộn của hai đối lập tạo ra, sáng (hay nóng hay lửa) và tối (hay lạnh hay đất). Rõ là các Hình thức hay Ý niệm của Plato sẽ tương ứng với cái trước, và không gian hay cái vô hạn với cái sau; đặc biệt nếu chúng ta lưu ý đến không gian thuần tuý của Plato khá thân thuộc với vật chất bất định.
(6) Sự đối lập giữa xác định và bất định có vẻ cũng tương ứng, đặc biệt sau khám phá ra tính vô tỉ của căn bậc hai của 2, với sự đối lập của có lí [hữu tỉ] và phi lí [vô tỉ]. Song vì Parmenides đồng nhất có lí với sự tồn tại, điều này có thể dẫn tới một diễn giải không gian hay phi lí như không-tồn tại. Nói cách khác, bảng các đối lập Pythagorean phải được mở rộng để bao trùm tính có lí, trái với tính phi lí, và tồn tại, trái với không tồn tại. (Điều này thống nhất với Metaphysics, 1004b27, nơi Aristotle nói là ‘mọi trái ngược có thể quy về tồn tại hay không tồn tại’; 1072a31, nơi một bên của bảng –bên tồn tại- được mô tả như đối tượng của tư duy (hợp lí); và 1093b13, nơi luỹ thừa của các số nào đó – có lẽ đối lập với căn của chúng - được đưa vào bên này. Điều này giải thích thêm nhận xét của Aristotle ở Metaphysics, 986b27; và nó có lẽ không cần có, như F. M. Cornford đã làm trong bài báo xuất sắc “Parmenides’ Two Ways” Class. Quart., XVII, 1933, p. 108 của ông, rằng Parmenides, đoạn 8, 53/54, ‘đã bị Aristotle và Theophrastus diễn giải lầm’; vì nếu mở rộng bảng các đối lập theo cách này, thì diễn giải rất thuyết phục của Cornford về đoạn mấu chốt của đoạn 8 trở nên tương hợp với nhận xét của Aristotle).
(7) Cornford đã giải thích (op. cit., 100) là có ba con đường ở Parmenides, con đường Chân lí, con đường Không-tồn tại, và con đường Ra vẻ (hay, nếu tôi có thể gọi nó như vậy, ý kiến hão huyền). Ông cho thấy (101) là chúng tương ứng với ba lĩnh vực được thảo luận ở Republic, thế giới thực tế và duy lí hoàn hảo của các Ý niệm, thế giới hoàn toàn hư ảo, và thế giới ý kiến (dựa trên cảm nhận của các thứ thay đổi). Ông cũng chứng tỏ (102) rằng trong Sophist, Plato sửa đổi lập trường của mình. Đối với điều này có thể đưa thêm vài lời bình từ quan điểm của các đoạn trong Timaeus mà ct. này gắn vào.
(8) Sự khác biệt chính giữa các Hình thức hay Ý niệm của Republic và của Timaeus là ở cái trước, các Hình thức (và cả Thần; so Rep., 380d) được hoá đá, ấy là nói vậy, còn ở tác phẩm sau, chúng được phong thần. Ở tác phẩm trước, chúng giống với Cái Một Parmenidean (so chú thích của Adam cho Rep., 380d8, 31) hơn nhiều so với tác phẩm sau. Sự phát triển này dẫn đến Laws, nơi các Ý niệm phần lớn được thay bằng các linh hồn. Sự khác biệt quyết định là các Ý niệm ngày càng trở nên các khởi điểm của chuyển động và căn nguyên của sinh thành, hay như Timaeus diễn đạt, thành cha của các thứ chuyển động. Sự tương phản lớn nhất có lẽ là giữa Phaedo, 79e: ‘Linh hồn giống vô hạn với không thay đổi; ngay cả kẻ ngu nhất không phủ nhận điều đó’ (so cả Rep., 585c, 609b f.), và Laws, 895e/896a (so Phaedrus, 245 ff.): ‘Cái gì là định nghĩa của cái có tên là “linh hồn”? Ta có thể hình dung định nghĩa nào khác với .. “Sự chuyển động chuyển dịch bản thân nó”?’ Sự quá độ giữa hai lập trường này, có lẽ, được tạo ra bởi Sophist (đưa ra Hình thức hay Ý niệm về bản thân chuyển động) và bởi Timaeus, 35a, tác phẩm mô tả các Hình thức ‘siêu phàm và không thay đổi’ và các thể xác thay đổi và đồi bại. Điều này dường như giải thích vì sao, ở Laws (so 894d/e), chuyển động của linh hồn được nói là ‘thứ nhất về nguồn gốc và năng lực’ và vì sao linh hồn được mô tả (966e) như ‘cái cổ và siêu phàm nhất của các thứ mà chuyển động của chúng là một nguồn luôn tuôn chảy của sự tồn tại thực’. (Vì, theo Plato, tất cả các thứ sống đều có linh hồn, có thể cho rằng ông thừa nhận sự hiện diện của một nguyên lí chí ít một phần hình thức trong các thứ; một quan điểm rất gần với chủ nghĩa Aristotle, đặc biệt trong sự hiện diện của lòng tin thô sơ và rộng rãi rằng tất cả mọi thứ đều sống). (So cả ct. 7 ở chương 4).
(9) Trong sự phát triển này về tư duy của Plato, một sự phát triển mà động lực của nó là để giải thích thế giới thay đổi với sự giúp đỡ của các Ý niệm, tức là làm cho sự gián đoạn giữa thế giới lí trí và thế giới ý kiến chí ít có thể hiểu được, dù cho nó không được khắc phục, Sophist có vẻ đóng một vai trò quyết định. Ngoài việc tạo chỗ, như Cornford nói đến (op. cit., 102), cho đa số Ý niệm, nó trình bày chúng, theo một lí lẽ chống lại lập trường riêng trước kia của Plato (248a ff.): (a) như các nguyên nhân tích cực, có thể tương tác, thí dụ, với tâm trí; (b) như không thay đổi bất chấp rằng, mặc dù bây giờ là một Ý niệm về chuyển động trong đó tất cả các thứ chuyển động tham gia vào và không nghỉ; (c) như có khả năng hoà trộn với nhau. Nó đưa ra thêm ‘Không-tồn tại’, được đồng nhất trong Timaeus với Không gian (so Cornford, Plato’s Theory of Knowledge, 1935, ct. cho 247), và như thế làm cho nó có khả năng đối với các Ý niệm để hoà trộn với nó (so cả Philolaus, đoạn 2, 3, 5, Diels5), và để tạo ra thế giới trong dòng chảy với lập trường trung gian đặc trưng của nó giữa sự tồn tại của các Ý niệm và sự không-tồn tại của Không gian hay vật chất.
(10) Cuối cùng, tôi muốn bảo vệ luận điểm của tôi trong văn bản rằng các Ý niệm không chỉ ở ngoài không gian, mà cũng ngoài thời gian, mặc dù chúng giao tiếp với thế giới ở khởi điểm của thời gian. Điều này, tôi tin, làm cho dễ hơn để hiểu làm sao chúng hành động mà không trong chuyển động; vì mọi chuyển động hay dòng chảy là trong không gian và thời gian. Tôi tin, Plato giả sử là thời gian có một khởi điểm. Tôi nghĩ đây là diễn giải trực tiếp nhất của Laws, 721c: ‘loài người là sinh đôi với mọi thời gian’, xét đến nhiều dấu hiệu là Plato tin con người được tạo ra như một trong các loài vật đầu tiên. (Về điểm này, tôi hơi bất đồng với Cornford, Plato’s Cosmology, p. 145 và 26 ff.)
(11) Tóm lại, các Ý niệm là có trước và tốt hơn các bản sao thay đổi và suy đồi của chúng, và bản thân chúng không thay đổi. (Xem cả ct. 3 ở chương 4).
16 So ct. 4 ở chương này.
17 (1) Vai trò của các thần trong Timaeus là giống với vai trò được mô tả trong văn bản. Hệt như các Ý niệm in ra các thứ, các thần cũng tạo ra các thể xác của con người. Chỉ có linh hồn người được bản thân Demiurge tạo ra, ông cũng tạo ra thế giới và các thần. (Về ám chỉ khác rằng các thần là các giáo trưởng, xem Laws, 713c/d). Con người, các con yếu đuối, thoái hoá của các thần, rồi sẽ nhất thiết thoái hoá nữa; so ct. 6 (7) ở chương này, và 37-41 ở chương 5.
(2) Trong một đoạn lí thú của Laws (681b; so cả ct. 32 (1,a) ở chương 4) chúng ta thấy một ám chỉ khác đến sự song song giữa quan hệ Ý niệm-các thứ và quan hệ cha mẹ-con cái. Trong đoạn này, nguồn gốc của luật được giải thích bằng ảnh hưởng của truyền thống, và đặc biệt hơn, bằng truyền một trật tự cứng nhắc từ cha mẹ sang con cái; và nhận xét sau được đưa ra: ‘Và họ (cha mẹ) có thể chắc chắn để in dấu kiểu suy nghĩ riêng của họ lên các con của họ, và lên các con của các con của họ.’
18 So ct. 49, đặc biệt (3), ở chương 8.
19 So Timaeus, 31a. Thuật ngữ mà tôi đã dịch một cách tự do là ‘sự vật cấp trên là nguyên mẫu của chúng’ là một thuật ngữ thường xuyên được Aristotle dùng với ý nghĩa ‘phổ quát’ hay ‘thuật ngữ chung’. Nó có nghĩa là ‘một thứ chung’ hay ‘trội hơn’ hay ‘bao trùm’; và tôi nghi rằng ban đầu nó có nghĩa là ‘bao hàm’ hay ‘bao trùm’ theo nghĩa trong đó một cái khuôn bao hàm hay bao trùm cái nó đúc ra.
20 So Republic, 597c. Xem cả 596a (và ct. thứ hai của Adam với 596a5): ‘Vì chúng ta quen, anh sẽ nhớ, quy định một Hình thức hay Ý niệm - mỗi cái cho một nhóm gồm nhiều thứ mà chúng ta dùng cùng một cái tên’.
21 Có vô số đoạn trong Plato; tôi chỉ nhắc tới Phaedo (thí dụ, 79a), Republic, 544a, Theaetetus (152d/e, 179d/e), Timaeus (28b/c, 29c/d, 51d f.). Aristotle nhắc đến trong Metaphysics, 987a32; 999a25-999b10; 1010a6-15; 1078b15; xem cả các ct. 23 và 25 ở chương này.
22 Parmenides dạy, như Burnet diễn đạt (Early Greek Philosophy 2, 208), rằng ‘cái là … có hạn, hình cầu, bất động, hữu hình’, tức là thế giới là quả cầu hoàn toàn, một cái toàn thể không có bất cứ các phần nào, và rằng ‘không có cái gì cả ngoài nó’. Tôi trích dẫn Burnet vì (a) mô tả của ông là tuyệt vời và (b) nó phá huỷ diễn giải riêng của ông (E. G. P., 208-11) về cái Parmenides gọi là ‘Ý kiến của những Con Người’ (hay Con đường của Ý kiến Hão huyền). Vì Burnet gạt bỏ ở đây tất cả diễn giải của Aristotle, Theophrastus, Simplicius, Gomperz, và Meyer, như ‘sai niên đại’ hay ‘lỗi thời rành rành’, v.v. Bây giờ diễn giải bị Burnet gạt bỏ thực tế là cùng như diễn giải kiến nghị trong văn bản; cụ thể là, Parmenides tin vào một thế giới thực tại đằng sau thế giới bề ngoài. Một chủ nghĩa nhị nguyên như vậy, có thể cho phép mô tả của Parmenides về thế giới bề ngoài để đòi hỏi chí ít một loại thoả đáng nào đó, bị Burnet loại bỏ như lỗi thời một cách vô vọng. Tôi gợi ý, tuy vậy, rằng nếu giả như Parmenides chỉ tin duy nhất vào thế giới bất động của ông, và không hề vào thế giới thay đổi, thì ông thực sự phải điên (như Empedocles ám chỉ). Song thực ra đã có dấu hiệu về một chủ nghĩa nhị nguyên tương tự rồi ở Xenophanes, đoạn 23-6, nếu tương phản với đoạn 34 (đặc biệt với ‘Nhưng tất cả đều có thể có ý kiến lạ lùng của họ’), để khó có thể nói về một sự lỗi thời.- Như ngụ ý ở ct. 15 (6-7), tôi theo diễn giải của Cornford về Parmenides. (Xem cả ct. 41 ở chương 10).
23 So Metaphysics của Aristotle, 1078b23; trích dẫn tiếp là từ: op. cit., 1078b19.
24 So sánh có giá trị này là do G. C. Field, Plato and His Contemporaries, 211.
25 Trích dẫn trước là từ Aristotle, Metaphysics, 1078b15; tiếp theo từ op. cit., 987b7.
26 Trong phân tích của Aristotle (trong Metaphysics, 987a30-b18) về các lí dẽ dẫn đến lí thuyết về các Ý niệm (so cả ct. 56 (6) ở chương 10), ta có thể phân biệt các bước sau: (a) dòng chảy Heraclitus, (b) không thể có tri thức thật về các thứ luôn thay đổi, (c) ảnh hưởng của bản chất đạo đức Socrates, (d) các Ý niệm như các đối tượng của tri thức thật, (e) ảnh hưởng của các nhà Pythagorean, (f) cái ‘toán học’ như các đối tượng trung gian. -( tôi đã không nhắc tới (e) và (f) trong văn bản, nơi thay vào đó tôi đã nhắc tới (g) ảnh hưởng Parmenidian).
Có thể đáng để cho thấy các bước này có thể được nhận diện ra sao trong tác phẩm riêng của Plato, nơi ông trình bày lí thuyết của mình; đặc biệt trong Phaedo và trong Republic, trong Theaetetus và trong Sophist, và trong Timaeus.
(1) Trong Phaedo, chúng ta thấy các dấu hiệu của mọi điểm cho đến và bao gồm (e). Trong 65a-66a, các bước (d) và (c) là nổi bật, với một ám chỉ đến (b). Ở 70e bước (a), xuất hiện lí thuyết của Heraclitus, kết hợp với một yếu tố của chủ nghĩa Pythagoras (e). Điều này dẫn đến 74a ff., và đến một tuyên bố về bước (d). 99-100 là một cách tiếp cận đến (d) qua (c), v.v. Về (a) đến (d), so cả Cratylus, 439c ff.
Trong Republic, tất nhiên Quyển VI là tương ứng sát với tường thuật của Aristotle. (a) ở đầu Quyển VI, 485a/b (so 527a/b), dẫn chiếu đến dòng chảy Heraclitean (và tương phản với thế giới không thay đổi của các Hình thức). Plato nói ở đó về ‘một thực tại tồn tại mãi mãi và được miễn khỏi sinh thành và thoái hoá’. (So các ct. 2 (2) và 3 ở chương 4 và ct. 33 ở chương 8, và văn bản). Các bước (b), (d) và đặc biệt (f) đóng một vai trò khá hiển nhiên trong Sự Ví von nổi tiếng về Đường (Rep., 509c-511e; so các ct. của Adam, và phụ lục của ông cho Quyển VII); ảnh hưởng đạo đức của Socrates, tức là bước (c), tất nhiên được ám chỉ suốt Republic. Nó đóng một vai trò quan trọng bên trong Sự Ví Von về Đường và đặc biệt ngay trước, tức là ở 508b ff., nơi vai trò của cái tốt được nhấn mạnh; xem đặc biệt 508b/c: ‘Đây là cái tôi kiên định đối với con của cái tốt. Cái mà cái tốt sinh ra giống như chính nó là, trong thế giới có thể nhận thức được, liên quan đến lí trí (và các đối tượng của nó) theo cùng cách như, trong thế giới hữu hình’, con của mặt trời, ‘liên quan đến cảnh (và các đối tượng của nó)’. Bước (e) bao hàm trong (f), nhưng nó được trình bày đầy đủ hơn ở Quyển VII, trong Curriculum nổi tiếng (so đặc biệt 523a-527c), mà phần lớn dựa vào Sự Ví Von về Đường ở Quyển VI.
(2) Ở Theaetetus, (a) và (b) được đề cập bao quát; (c) được nhắc tới ở 174b và 175c. Ở Sophist, tất cả các bước, kể cả (g), được nói đến, chỉ có (e) và (f) bị bỏ quên; xem đặc biệt 247a (bước (c)); 249c (bước (b)); 253d/e (bước (d)). Ở Philebus, ta thấy dấu hiệu của mọi bước trừ có lẽ bước (f); các bước (a) đến (d) đặc biệt được nhấn mạnh ở 59a-c.
(3) Ở Timaeus, tất cả các bước Aristotle nói đến đều biểu lộ, với ngoại lệ có lẽ của (c), bước chỉ được ám chỉ gián tiếp trong dẫn nhập nhắc lại nội dung của Republic, và ở 29d. Bước (e), có thể nói, được ám chỉ ở mọi nơi, vì ‘Timaeus’ là một triết gia ‘phương tây’ và bị chủ nghĩa Pythagoras ảnh hưởng mạnh. Các bước khác xuất hiện hai lần ở dạng hầu như hoàn toàn tương tự như tường thuật của Aristotle; đầu tiên ngắn gọn ở 28a -29d, và muộn hơn chi tiết hơn, ở 48e-55c. Ngay sau (a), tức là diễn tả Heraclitean (49a ff.; so Cornford, Plato’s Cosmology, 178) về thế giới thay đổi, lí lẽ (b) (51c-e) được nêu ra rằng nếu ta đúng trong phân biệt giữa lí trí (hay tri thức thật) và ý kiến đơn thuần, ta phải thừa nhận sự tồn tại của các Hình thức không thể thay đổi được; tiếp theo các điều này được đưa ra (ở 51e f.) phù hợp với bước (d). Dòng chảy Heraclitean sau đó lại xuất hiện (như không gian đau đẻ), nhưng lần này được giải thích, như hệ quả của hành động sinh. Và như bước tiếp theo (f) xuất hiện, ở 53c. (Tôi cho là ‘các đường thẳng và mặt phẳng và khối’ do Aristotle nhắc tới trong Metaphysics, 992b13, dẫn chiếu đến 53c ff.).
(4) Có vẻ là sự tương tự này giữa Timaeus và tường thuật của Aristotle cho đến nay đã không đã không được nhấn mạnh đủ; chí ít, nó không được G. C. Field dùng trong phân tích xuất sắc và thuyết phục của ông về tường thuật của Aristotle (Plato and His Contemporaries, 202 ff.). Nhưng nó đã có thể củng cố lí lẽ của Field (các lí lẽ, tuy vậy, hầu như không cần phải củng cố, vì chúng thực tế là thuyết phục) chống lại các quan điểm của Burnet và Taylor cho rằng Lí thuyết về các Ý niệm là Socratic (so ct. 56 ở chương 10). Vì trong Timaeus, Plato không để Socrates nói ra lí thuyết này, một sự thực theo các nguyên tắc của Burnet và Taylor phải chứng minh rằng nó không phải là lí thuyết của Socrates. (Họ bỏ qua suy diễn này bằng cách cho rằng ‘Timaeus’ là một Pythagorean, và rằng ông trình bày không phải triết học của Plato mà của riêng ông. Nhưng Aristotle đích thân biết Plato suốt hai mươi năm và phải có khả năng phán xét các vấn đề này; và ông viết Metaphysics của mình ở thời điểm khi các thành viên của Viện Hàn Lâm đã có thể phủ nhận trình bày của ông về chủ nghĩa Plato).
(5) Burnet viết, trong Greek Philosophy, I, 155 (so cả p. xliv của Phaedo biên tập của ông, 1911): ‘lí thuyết về các hình thức theo nghĩa mà nó được duy trì trong Phaedo và Republic là hoàn toàn thiếu cái chúng ta có thể coi một cách công bằng là Platonic một cách rõ ràng nhất trong các đối thoại, cụ thể là các đối thoại nơi Socrates không còn là người phát ngôn chính. Theo nghĩa đó, nó thậm chí không bao giờ được nhắc tới trong bất kể đối thoại nào muộn hơn Parmenides .. với ngoại lệ duy nhất của Timaeus (51c), nơi người phát ngôn là một nhà Pythagorean’. Song nếu nó được duy trì ở Timaeus theo nghĩa mà nó được duy trì ở Republic, thì nó chắc chắn cũng được duy trì trong Sophist, 257d/e; và trong Statesman, 269c/d; 286a; 297b/c, và c/d; 301a và e; 302e; và 303b; và trong Philebus, 150a f., và 59a-d; và trong Laws, 713, 739d/e, 962c f., 963c ff., và quan trọng nhất, 965 c (so Philebus, 16d), 965d, và 966a; xem cả ct. tiếp. (Burnet tin vào tính xác thực của Letters [các bức thư], đặc biệt là Seventh [bức thứ bảy]; nhưng lí thuyết về các Ý niệm được duy trì tại đó ở 342a ff.; xem cả ct. 56 (5, d) ở chương 10).
27 So Laws, 895d-e. Tôi không tán thành ct. của England (trong lần xuất bản Laws của ông, vol. II, 472) rằng ‘từ “bản chất” sẽ không giúp chúng ta’. Đúng, nếu chúng ta hiểu ‘essence’ như phần cảm nhận được quan trọng nào đó [tinh chất] của sự vật cảm nhận được (cái có thể được tinh chế và tạo ra bằng sự chưng cất nào đó), thì từ ‘essence’ có thể dẫn đến lầm lạc. Nhưng từ ‘essenctial: bản chất’ được dùng rộng rãi theo cách tương ứng quả thực rất tốt với cái ta muốn bày tỏ ở đây; cái gì đó đối lập với khía cạnh phụ hay không quan trọng hay kinh nghiệm thay đổi của sự vật, bất luận nó được hình dung như ở trong sự vật đó, hay trong một thế giới siêu hình của các Ý niệm.
Tôi dùng từ ‘bản chất luận’ đối lập với ‘thuyết duy danh’, để tránh, và thay, từ dễ gây lầm lẫn ‘thuyết duy thực’, ở nơi nó đối lập (không với ‘thuyết duy tâm’ mà) với ‘thuyết duy danh’. Xem cả ct. 26 ff. ở chương 11, và văn bản, và đặc biệt ct. 28).
Về việc Plato áp dụng phương pháp bản chất luận, thí dụ, như được nói tới trong văn bản, đối với lí thuyết về linh hồn, xem Laws, 895e f., được trích ở ct. 15 (8) ở chương này, và chương 5, đặc biệt ct. 23. Xem cả, thí dụ, Meno, 86d/e, và Symposium, 199c/d.
28 Về lí thuyết giải thích nhân quả, so The Logic of Scientific Discovery của tôi, đặc biệt mục 12, các p. 59 ff. Xem cả ct. 6 ở chương 25 ở dưới.
29 Lí thuyết ngôn ngữ nêu ở đây là lí thuyết về Ngữ nghĩa học, được A. Tarski và R. Carnap trình bày. So Carnap, Introduction to Semantics, 1942, và ct. 23 cho chương 8.
30 Lí thuyết rằng trong khi các khoa học vật lí dựa vào thuyết duy danh phương pháp luận, các khoa học xã hội phải chấp nhận phương pháp bản chất luận (duy thực), được K. Polanyi làm rõ cho tôi (năm 1925); ông chỉ ra, khi đó, là một cuộc cải cách phương pháp luận của các khoa học xã hội có thể được hình dung đạt được bằng bỏ lí thuyết này đi. – Lí thuyết được hầu hết các nhà xã hội học cho là đúng, đặc biệt J. S. Mill (thí dụ, Logic, VI, Ch. VI, 2; xem cả các trình bày lịch sử chủ nghĩa của ông, thí dụ, ở VI, ch. X, 2, đoạn văn cuối: ‘Vấn đề căn bản .. của khoa học xã hội là tìm ra các qui luật theo đó bất cứ trạng thái nào của xã hội tạo ra trạng thái kế tiếp nó ..’, K. Marx (xem ở dưới); M. Weber (so thí dụ, định nghĩa của ông ở đầu Methodische Grundlagen der Soziologie, trong Wirtschaft und Gesellschaft, I, và trong Ges. Aufsaetze zur Wissenschaftslehre). G. Simmel, A. Vierkandt, R. M. MacIver, và nhiều người nữa. - Diễn đạt triết học của tất cả các xu hướng này là ‘Hiện tượng học’ của E. Husserl, một tái sinh có hệ thống của bản chất luận phương pháp luận của Plato và Aristotle. (Xem cả ch. 11, đặc biệt ct. 44).
Cái đối lập, thái độ duy danh trong xã hội học, có thể được trình bày, tôi nghĩ, chỉ như một lí thuyết kĩ thuật về các thể chế xã hội.
Ở văn cảnh này, tôi có thể nói tôi đã lần vết chủ nghĩa lịch sử đến Plato và Heraclitus ra sao. Khi phân tích chủ nghĩa lịch sử, tôi thấy tôi cần cái bây giờ được gọi là bản chất luận phương pháp; tức là tôi thấy các lí lẽ điển hình ủng hộ bản chất luận gắn bó với chủ nghĩa lịch sử (so Sự khốn cùng của chủ nghĩa lịch sử của tôi). Điều này dẫn tôi xem xét lịch sử bản chất luận. Tôi bị ấn tượng bởi sự tương tự giữa tường thuật của Aristotle và phân tích ban đầu tôi tiến hành mà không có bất cứ dẫn chiếu nào đến chủ nghĩa Plato. Bằng cách này, tôi nhớ đến vai trò của cả Heraclitus và Plato trong sự phát triển này.
31 Plato To-day (1937) của R. H. S. Crossman là cuốn sách đầu tiên (ngoài Plato của G. Grote) tôi thấy có chứa diễn giải chính trị của Plato mà một phần giống với của tôi. Xem cả các ct. 2-3 ở chương 6, và văn bản. *Kể từ đó tôi thấy các quan điểm tương tự của Plato đã được các tác giả khác nhau bày tỏ. C. M. Bowra (Ancient Greek Literature, 1933) có lẽ là đầu tiên; phê phán Plato ngắn song tỉ mỉ của ông (p. 186-90) cũng công bằng như sâu sắc. Những người khác là W. Fite (The Platonic Legend, 134); B. Farrington (Science and Politics in the Ancient World, 1939); A. D. Winspear ( The Genesis of Plato’s Thought, 1940); và H. Kelsen (Platonic Justice, 1933; bây giờ trong What is Justice?, 1957, và Platonic Love, trong The American Imago, vol. 3, 1942).**
(*): Tập 1 của sách Xã hội mở và những kẻ thù của nó
Người dịch: Nguyễn Quang A