Những góc nhìn Văn hoá

Khảo sát đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du (Bài soạn cho lớp 8A và B trường Phổ thông cấp III Phan Đình Phùng, Hà Tĩnh, niên khoá 1950-1951)

Thầy Trần Quốc Nghệ để lại không nhiều trước tác. May mắn sao, nhờ sự quý trọng và gìn giữ của học trò ( ở đây là nhà sử học Chương Thâu ) mà hôm nay, trên tay các bạn có bài khảo luận giá trị này. Về Truyện Kiều xưa nay đã có quá nhiều nghiên cứu và khảo luận. Nhưng đây là một bài khảo sát khiêm tốn của một giáo viên tâm huyết với học sinh, có nhiều suy nghĩ sâu sắc và độc đáo về Truyện Kiều soạn riêng để dạy cho lớp 8A trường Phan Đình phùng cách đây hơn nửa thế kỷ. Với góc độ đó, chúng tôi nghĩ bài khảo sát vẫn còn nguyên giá trị của nó. Vả lại, trong tình hình học văn và dạy văn trong nhà trường có nhiều vấn đề như hiện nay, di cảo của thầy Trần Quốc Nghệ, một giáo viên dạy văn từng để lại nhiều dấu ấn khó phai mờ trong nhiều thế hệ học sinh của thầy, chắc vẫn còn bổ ích cho việc tham khảo để dạy và hiểu Truyện Kiều bất hủ. Xin cám ơn và ghi nhận tấm lòng tình nghĩa thầy trò và công phu của nhà sử học Chương Thâu, cách đây 52 năm đã bỏ công chép lại ngay ngắn bản thảo cho thầy và giữ nó nguyên vẹn để có thể đưa đến cho chúng ta hôm nay. 

Mục lục

- Tiểu sử và thời đại Nguyễn Du
- Nguồn gốc Đoạn trường tân thanh
- Nội dung Đoạn trường tân thanh
- Tâm sự Nguyễn Du trong Đoạn trường tân thanh
- Tư tưởng Nguyễn Du trong Đoạn trường tân thanh
- Tâm lý các nhân vật trong Đoạn trường tân thanh
(Thúy Vân, Những kẻ bất nhân)
- Giác Duyên, Thúc Sinh, Từ Hải, Kim Trọng, Thúy Kiều)
- Xã hội Đoạn trường tân thanh
- Luân lý Đoạn trường tân thanh (nhóm công kích và nhóm ca tụng)
- Văn chương Đoạn trường tân thanh (ý kiến các nhà văn học, quan niệm văn chương của Nguyễn Du, bố cục Đoạn trường tân thanh văn tả cảnh, tả người, tả tình, văn triết lý, Nhạc điệu trong thơ Nguyễn Du)
- Tổng kết luận
- Nghệ thuật của Nguyễn Du
- Chúng ta nghiên cứu Đoạn trường tân thanh để làm gì?
Tiểu sử và Thời đại Nguyễn Du
Tiểu sử: Nguyễn Du (1765-1820) người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh là nơi đã may mắn kết tinh được sức chiến đấu kiên cố, lòng ham sống say sưa, khí tiết hiên ngang bất khuất, tài hoa lỗi lạc, hoạt động của dân tộc.
Nguyễn Du là con thứ bảy của Nguyễn Nghiễm nhị giáp Tiến sĩ, tước Xuân Quận công và của bà Trai thất Trần Thị Thân người làng Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh. Dòng họ Nguyễn Du không những nổi tiếng về khoa hoạn và còn lại chiếm bậc đàn anh trong văn giới.
Nguyễn Du tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn liệp hộ, sinh năm 1765 mất năm 1820, thọ 56 tuổi. Năm 19 tuổi đậu Tam trường. Vốn dòng trâm anh thế phiệt cho nên sớm lớn lên đã mang một ý niệm thờ vua thờ chúa, Nguyễn Du thực hành ý định ấy trong quân đội của vua Lê Chiêu Thống và làm đến chức Chánh Thư hiệu quân tỉnh Thái Nguyên và đã định chạy theo Tôn Sĩ Nghị và Lê Chiêu Thống sang Tàu nhưng không kịp, bèn về Thái Bình mộ quân đánh lại Tây Sơn đi ngược lại ý nguyện của dân gian và rút cục thất bại bị ở tù hai tháng. Sau khi Tây Sơn dứt Lê, Nguyễn Du đã nhiều lần lo khôi phục nhưng không thành đã bỏ về ở cố hương chơi bời săn bắn khắp 99 ngọn núi Hồng Sơn. Nhưng đến khi Gia Long thống nhất giang sơn Nguyễn Du bị triệu ra làm quan và bắt buộc phải phụng sự Tân Triều. Ban đầu bổ làm Tri huyện Phụ Dực (Thái Bình) rồi ít lâu thăng Tri phủ Thường Tín. Năm thứ 8 (1809) lại ra làm cai bạ Quảng Bình. Năm thứ 12 thăng Cần chánh điện học sĩ sung làm chánh sứ sang cống bên Tàu. Đến khi về, thăng Lệ bộ hứa Tham tri, năm Minh Mệnh nguyên niên (1820). Sắp đi sứ bên Tàu thì mất.
Nguyễn Du là người kiến thức rộng, tính tình khiêm cẩn, nhã nhặn, tiếp xử đạm bạc đơn sơ. Nguyễn Du chẳng những tinh thông về đạo Nho mà còn thông đạt cả đạo Lão, đạo Phật. Về tác phẩm của Nguyễn Du thì có:
Hán văn: Thanh Hiên tiền hậu tập, Bắc hành thi tập, Nam trung tạp ngâm, Lê Quý kỷ sự.
Việt văn: Chiêu hồn ca, Thác lời người trai phường nón, Sinh Tế Trường Lưu nhị nữ và nhất là Đoạn trường tân thanh.
Thời đại: Nguyễn Du sinh năm 1765 kể từ Lê Lợi đánh quân Minh dựng nước đã 300 năm. Sau 300 năm đó, chế độ phong kiến nước ta đã suy vi đến cực độ. Trong khi đó tiếp xúc với tư bản Âu Tây, xã hội trở nên phức tạp hơn nên chính quyền phong kiến tập trung tan rã ra từng mảnh. Những cuộc loạn liên tiếp xảy ra. Mạc diệt Lê, Lê chống Mạc, phân tranh Trịnh Nguyễn, ấy là chưa kể những cuộc khởi nghĩa của nông dân do Tây Sơn lãnh đạo . Nhất là, thiếu thời của Nguyễn Du, rối loạn ở Bắc Hà, Trịnh Sâm bỏ trưởng lập thứ, loạn kiêu binh và Tây Sơn hai lần ra Bắc. Nguyễn ánh sau này tuy thống nhất được quyền chính, nhưng chính quyền đó không gây dựng trên cơ sở chống ngoại xâm, lòng người chán nản ghét Tây Sơn nhưng vẫn không thành tâm quy phục triều Nguyễn.
Giai cấp Nho sĩ quý tộc với những tư tưởng của đạo Tống Nho đã chịu đau khổ để trông thấy những ý tưởng của họ... (mất vài chữ). Đến lúc Tây Sơn diệt Trịnh, họ chạy theo vua Lê Chiêu Thống và lại bước thêm một bước nữa vào đường phản nước phản dân. Tới khi nhà Nguyễn ra đời có những người như Nguyễn Du tuy làm quan họ Nguyễn mà vẫn không hết nhớ Lê. Từ đó sinh ra cái luẩn quẩn trong người không dứt khoát, cái phần bế tắc trong Truyện Kiều, Cung oán, Chinh phụ ngâm là bắt nguồn từ đó. Hơn thế nữa chế độ kinh tế lúc bấy giờ không được cải cách, nông dân đòi hỏi những kỹ thuật tiến bộ hơn để thoát khỏi những cảnh khổ sở như mất mùa, đại hạn...giai cấp lãnh đạo thì bất lực, bóc lột để củng cố chính quyền. Chính Nguyễn Du đã cảm thấy cái sâu sắc của xã hội đó mà vẽ ra xã hội Truyện Kiều.
ở đây chúng ta xét thời đại Nguyễn Du để tìm ra một phần chân lý vì sao Truyện Kiều phát sinh cũng như những tác phẩm khác trước nó cùng trong hoàn cảnh xã hội đó, chứ ta không chủ quan máy móc như ông Nguyễn Bách Khoa mà nói rằng Nguyễn Du bị giằng co giữa hai địa phương tính để giải quyết các mâu thuẫn trong con người. Theo ông Khoa, Nguyễn Du là con ông Nguyễn Nghiễm, người đã làm bài "Khổng Tử mộng chu công" muốn tôn Lê phá Trịnh. Mẹ ông là bà Trần Thị Thân con quan họ Trần người Bắc Ninh, nơi có những đồng lúa xanh, có những câu hát phong tình, có những phong tục tế nhị. Ông cho rằng, chính vì thế mà ta thấy một phần nào hình ảnh của cậu nho sinh Nguyễn Du ở trong vai Kim Trọng.
 Nguồn gốc Đoạn trường tân thanh
 Có hai giả thuyết
- Nguyễn Du phỏng theo một quyển tiểu thuyết Tàu là Ngu sở tân chí của Dư Hoài mà viết thành Đoạn trường tân thanh, nhưng trong Ngu sở tân chí chỉ có đến đoạn Kiều tự tử ở sông Tiền Đường. Nguyễn Du thêm vào đoạn sau.
- Nguyễn Du nhân xem quyển tiểu thuyết Tàu nhan đề Kim Vân Kiều truyện do tác giả Thanh Tâm Tài Nhân soạn ra về cuối thế kỷ thứ 16 hoặc đầu thế kỷ 17 mà cảm thông được lòng được cảnh trong truyện mà viết ra Đoạn trường tân thanh.
Cuốn Kim Vân Kiều truyện kể truyện một trang tuyệt thế giai nhân có tài có đức - Vương Thúy Kiều - đáng lý được hưởng cuộc đời an nhàn phú quý mà rồi gia biến xảy ra phải bán mình chuộc cha để hạnh phúc tan tành, tấm thân lưu lạc.
Nguyễn Du nhận thấy thân thế của nhân vật trong truyện giống với thân thế mình bèn dựa vào Kim Vân Kiều truyện mà phóng tác ra Đoạn trường tân thanh, chủ ý là đem tâm sự mình ký thác vào thi phẩm mong vơi được đôi phần nỗi u hoài đau đớn của riêng mình.
Nội dung Đoạn trường tân thanh
(dàn mục mà thôi)
Phát đoạn: Tài mệnh tương đố (từ câu 1-6)
     Phần thứ nhất: Hội ngộ
- Gia đình Viên ngoại (7-38)
- Thúy Kiều gặp Kim Trọng (39-242)
- Kiều - Kim giao ước (243-568)
     Phần thứ hai: Lưu lạc
- Gia biến (569-776)
- Vào lầu xanh lần thứ nhất (777-1274)
- Lấy Thúc Sinh (1275-1704)
- Mắc tay Hoạn Thư (1705-1992)
- Vào lầu xanh lần thứ hai (1993-2164)
- Lấy Từ Hải (2165-2648)
- Hết nợ đoạn trường (2649-2736)
Phần thứ ba: Đoàn viên
- Kim Trọng trở lại vườn Thúy (2737-2856)
- Kim Trọng đi tìm Thúy Kiều (2857-2966)
- Sum họp một nhà (2967-3240)
Tổng kết: Thiện tâm thắng số (từ câu 3241-3254)

Tâm sự Nguyễn Du trong Đoạn trường tân thanh

Nguyễn Du xây dựng nên Truyện Kiều với cả một tâm hồn thi sĩ và gửi vào đó một tâm sự tượng trưng cho tư tưởng của giai cấp nho sĩ quý tộc thời Lê mạt Nguyễn sơ bằng một lời văn rất nhẹ nhàng, tình tứ, Truyện Kiều là truyện phổ biến khắp tất cả các từng lớp của dân tộc. Mối tâm sự đó giãi bày như thế nào?
Từ trước đến nay, bình luận Đoạn trường tân thanh hầu hết các nhà văn học nước ta cho rằng Nguyễn Du đã mượn nó để giãi bày tâm sự. Từ những bạn đồng thời với Nguyễn Du đến các học giả văn gia hiện đại đều xét như thế vì Kiều có tài sắc mà gặp mệnh bạc thì Nguyễn Du có tài trí mà phải long đong; Kiều vốn là trinh tiết mà phải ôm mối hận vì không trọn nghĩa với Kim Trọng thì Nguyễn Du vốn là trung thần mà phải uất ức vì không tránh khỏi thờ hai chúa. Ông Trần Trọng Kim đã viết: "Tiên sinh có ý tự ví mình như một người đàn bà bạc mệnh, vì thế bất đắc dĩ phải bán mình mà phụ nghĩa cô phu. Đã nói thất tiết thì thân nghìn vàng với thân bảy thước có khác gì nhau". Ông Đào Duy Anh trong Nguyễn Du văn học phổ cũng viết: "Lòng trung nghĩa cô đơn không thể vãn hồi được thời thế, ông đành phải ôm mối sầu uất".
Ông Nguyễn Bách Khoa đã chỉ trích cái quan điểm hẹp hòi của các bậc văn học trên như ông Đinh Gia Trinh. Theo ông Khoa, trong Truyện Kiều ta không những thấy tâm sự của tác giả mà còn nhận rõ cả cá tính của nhà thi sĩ nữa. Ông cho tâm sự là "cái phần sống hữu thức" của con người và cái cá tính là "cái phần tiềm thức gồm những ý tưởng, tính tình, nguyện vọng bị đè nén xuống cõi sâu thẳm, tối tăm của tâm hồn và ở ngoài sự kiểm soát của ý chí của thông minh". Ông viết: "Nguyễn Du viết Truyện Kiều là để tự giải thoát bằng cách tự thực hiện mình ở các vai trò".
Ta không như ông, cho tâm sự chỉ là phần sống hữu thức, và tất cả ý tưởng, tính tình, nguyện vọng là phần tiềm thức bị đè ép, vì những ý tưởng nguyện vọng cũng là tâm sự của ta và thường bị ý chí thông minh kiểm soát. Song ta cũng nhận như ông rằng quan điểm của các nhà văn học trên là hẹp: nói rằng Đoạn trường tân thanh phản chiếu niềm tâm sự của Nguyễn Du thì thực chưa đủ; nó còn tỏ rõ cái bản ngã chân thực của tác giả nữa. Như ta đã biết là văn chương phản ảnh tư tưởng cá nhân, giai cấp, xã hội; và các tác giả không chỉ ký thác tâm sự vào một nhân vật chính (Thúy Kiều) mà vào ít nhiều nhân vật khác nữa.
Đoạn trường tân thanh phản chiếu tâm sự của nhà thi sĩ là điều cần thiết không ai được quên trong khi bình luận về tác phẩm ấy. Vì thế không nên xét đến hành động riêng rẽ của Kiều trong truyện. Vậy không nên tách hẳn nàng ra mà phải xét nàng theo dụng ý tác giả, nghĩa là khi nào nàng cũng đau khổ, chán nản uất hận vì cuộc tình duyên tan vỡ của mình. Bởi vậy cho nên suốt trong cuộc đời trôi nổi của nàng, Kiều đành chịu nhẫn nhục trước số mệnh tàn ác, và thường phó mặc cho thân thế ra sao thì ra, đó là một kẻ bại trận đã quá đau đớn ê chề, đã tuyệt vọng lắm rồi.
Ta còn thấy tâm sự Nguyễn Du ở Từ Hải nữa. Tuy Từ là giặc hoặc là kẻ phản động nhưng chàng có khí phách anh hùng "Nghênh ngang một cõi biên thùy". Ta cũng đồng ý với hai ông Hoài Thanh và Đinh Gia Trinh nếu bỏ hết quan niệm chính trị và luân lý ta thấy hành trạng của Từ Hải có một vẻ đẹp đặc biệt và nhân vật này biểu dương cái mộng tung hoành phỉ chí của tác giả, cái mộng không thực hiện được nên đã khiến anh hùng phải bó tay. Cho đến cái chết của Từ cũng là một ý nguyện âm thầm của Nguyễn Du, vì cái chết ấy đã cho Từ giữ trọn chí khí, hơn là cuộc sống đớn hèn, nhẫn nhục "bó thân về với triều đình".
Sau cùng cuộc tái ngộ của Kiều với Kim cũng là một nguyện vọng - tuy hão huyền - của Nguyễn Du mong lại được thờ vua cũ. Kiều tái hợp Kim tự biết thân mình nhơ nhuốc không xứng với chàng nữa, nhưng tiết nghĩa của lòng nàng đã được người xưa hiểu rõ và tha thứ. Nguyễn Du cũng vậy, nếu may chi nhà Lê lại khôi phục, sự trung thành của ông sẽ được nhà vua hiểu thấu mà rộng lượng khoan dung.
Về cá tính của Nguyễn Du ta không cần phải chú trọng quá đến những chữ như chữ "khấp" là những biệt lệ v.v... trong thơ văn của thi sĩ ta không như ông Nguyễn Bách Khoa đã vin vào để kết luận trạng thái tật bệnh của tác giả Đoạn trường tân thanh, nhưng quả thực Nguyễn Du là một người đa tình đa cảm, một văn nhân ưa phong hoa tuyết nguyệt, có thể nói là một nho sĩ kiểu mẫu. Ông còn là một người có chí khí ngang tàng, có tính tình độc lập, nhưng không toại nguyện nên đành bó tay trước thời thế như ta đã biết khi xét tiểu sử đời ông.
Xét kỹ thì ta lại thấy không phải chỉ Thúy Kiều mới mang cái đa cảm đa tình của ông mà trong Kim Trọng, Từ Hải cũng có in dấu vết của cái đa tình, đa cảm ấy. Nếu tác giả không có cái ái tình mãnh liệt thì đâu đủ tả Kim Trọng tương tư, thương nhớ mãnh liệt đến như thế! Nếu tác giả không rung động vì cái đẹp thì đâu đã phác họa Từ Hải một đấng anh hùng hiên ngang yếu mềm trước nhan sắc của Thúy Kiều. Đặc biệt nhất là cái đa tình đa cảm của Kiều và Kim, nó đặc biệt như của chính tác giả vì nó đã làm cho tinh thần và thể chất phải u trầm.
Cũng vì đa tình đa cảm mà Nguyễn Du có lúc mất tính khảng khái mà trở nên yếu mềm khi gượng ra làm quan với triều Nguyễn thì chính nàng Kiều cũng nhu nhược như vậy. Khi xảy ra cơn gia biến phi thường nàng đã khóc lóc, bi ai, đành lỗi ước với người yêu, cũng như trong bước đường luân lạc đời nàng chỉ thấm đầy nước mắt. Nhưng cái bản tính kiêu hãnh, độc lập, anh hùng, tác giả Đoạn trường tân thanh vẫn còn giữ lấy và ta thấy nó trong sự xót xa đau đớn của Thúy Kiều, trong tấm lòng chung thủy của Kim Trọng, trong cái khí phách ngang tàng của Từ Hải.
Tóm lại người ta chỉ đi tìm tâm sự của Nguyễn Du trong Kiềulà nhân vật chính của Đoạn trường tân thanh đó là vì ai cũng hiểu quan niệm văn chương nước ta ngày xưa ưa lời tự sự, biểu tượng. Và tác giả đã chọn truyện của Thanh Tâm Tài nhân, ai cũng thấy rõ là vì Kiều chứ không phải vì những nhân vật khác. Chủ đích của tác giả trong Đoạn trường tân thanh là tác giả ký thác tâm sự mình vào cái mối hận của nàng Kiều. Ta thấy khi nàng gặp lại chàng Kim, mối uất hận nọ vẫn chưa tan vì nàng đã quá mỏi mệt, quá ê chề về tinh thần cũng như về thể phách. Song khi tả Kiều gặp Từ Hải, Nguyễn Du cũng nhân dịp ký thác vào nhân vật này những nguyện vọng không toại mãn, cũng như ông đã gửi một phần tình cảm của mình vào một nhân vật cũng khá quan trọng là chàng Kim vậy.
Tư tưởng Nguyễn Du trong Đoạn trường tân thanh
I. Ta thấy trong Đoạn trường tân thanh Thúy Kiều có tài sắc mà phải lưu lạc gian truân trong 15 năm trời. Theo tác giả, vì tài và mệnh không bao giờ đi đôi với nhau, "tài mệnh tương đố" và mọi sự trôi nổi điêu đứng của nàng đều do "tiền định" cả (thuyết Thiên Mệnh của Nho giáo) nhưng sau những bước đường luân lạc ấy, Kiều lại được hưởng hạnh phúc trong khoảng đời sau, từ khi tái ngộ với Kim Trọng. Ta thấy sự kiện ấy giống luật "Nhân Quả" trong "thuyết Nghiệp Báo" của đạo Phật. Cái nghiệp ta phải chịu kiếp này sẽ là nguyên nhân của nghiệp ta trong kiếp sau. Vậy muốn cho nhẹ kiếp sau thì trong kiếp này là phải giữ lòng thiện, phải làm điều nhân mới được.
Vì lẽ trên các nhà văn học ta xưa nay (phái Nam Phong, Trần Trọng Kim, Dương Quảng Hàm v.v...) cho rằng Nguyễn Du đã theo Triết lý đạo Phật để viết truyện Đoạn trường tân thanh: theo lẽ Tiền Định, mệnh của Kiều phải bạc vì nàng tài sắc có dư. Nhưng Kiều đã ăn ở có nhân nghĩa nên đã chữa được cái mệnh của mình trong sự đoàn viên với gia đình và Kim Trọng. Vì thế mở đầu Đoạn trường tân thanh tác giả đã viết: "Chữ tài, chữ mệnh, khéo là ghét nhau" và kết thúc bằng những câu: "Đã mang lấy nghiệp vào thân, cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa, thiện căn ở tại lòng ta,à chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài".
Cũng có người cho rằng triết lý đó hoàn toàn chịu ảnh hưởng của cả hai thuyết Thiên Mệnh của Nho giáo và Nghiệp Báo của Phật giáo. Và cả hai triết lý ấy đều được Nguyễn Du lần lượt phô diễn trong Đoạn trường tân thanh. Song theo ông Nguyễn Bách Khoa thì Nguyễn Du đã không chủ trương hẳn thuyết nào; đã hiểu lầm luật Nhân Quả, dù theo Nho giáo hay theo Phật giáo cũng vậy. Ông cho rằng tác giả đã thất bại khi cho Kiều thoát kiếp, bởi nàng ăn ở nhân đức nên được trời rút tên ra khỏi sổ Đoạn Trường. Vì theo ông, Kiều không hề có đủ nhân đức mà trái lại vì ốm yếu, nàng có “một căn tính dâm đãng, trầm uất, sầu muộn, hoảng hốt, liều lĩnh, sợ hãi, cộng với cái lý tưởng thấp hèn về sự sống do giáo dục gây nên, khiến nàng thành một kẻ hèn nhát, ích kỷ, vụ lợi, vụ nhàn, thèm giàu sang, không chung thủy, thiếu đức độ, nhân nghĩa". Thế thì theo luật Nhân Quả Kiều phải trầm luân nhiều hơn nữa, nhất là sau khi tự vẫn ở Tiền Đường. Do đó ông Khoa bảo rằng: "Nguyễn Du đã "cưỡng hiếp" luật Nhân Quả, là vì đứng trước sự đổ vỡ của cái khung sống an nhàn, tác giả cũng như các nho sĩ yếm thế chỉ còn biết tùy thời, chịu đựng số phận lúc nào cũng khao khát sự trở lại của cảnh sinh hoạt đã tàn tạ mất. Và trạng thái tâm lý ấy đã dẫn tác giả đến hai thái độ:
- Chán nản thì lấy sự đi tu làm phương tiện giải sầu (sinh hoạt cằn cỗi, xáo loạn dẫn đến tư tưởng nhát hèn và ủy mỵ).
- Hoài bãi tôn Lê để mong lấy lại địa vị cũ đã bị xâm đoạt (tâm lý tùy thời, ích kỷ). Ông thêm rằng: Nguyễn Du là một con bệnh thần kinh và "bệnh của ông thuộc về thứ bệnh không có sự tổn thương về khí quản".
II. Ta cũng thấy như ông Nguyễn Bách Khoa trong Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du không theo hẳn thuyết của Nho giáo trong thuyết của Phật giáo: Khi thì ông ngã về Phật giáo để cho Kiều chữa được cái nghiệp chướng của nàng (theo quan điểm Phật giáo ta không thấy nói đến Trời mà chỉ thấy 12 nhân duyên tức là 12 cái giây làm Nhân và Quả cho nhau để gây ra cái nghiệp của con người, luật Nhân Quả chi phối kiếp người trong sự luân hồi, người ta phải theo "đạo bát chính để sự biến đổi cái nghiệp báo của mình: Phật giáo do đó đã đặt vào quyền hạn của người một tự do ý chí và một năng lực tự cải biến". Lúc thì nghiêng về Nho giáo trong tư tưởng: "Người dù muốn thác trời nào có cho" (theo quan điểm Nho giáo không có ông Trời, nhưng có Lý thái cực làm ra luật Nhân Quả đó là lẽ Tiền Định).
Nhưng Nguyễn Du không thất bại khi cho Kiều tái hợp với Kim vì như ta sẽ thấy trong phần tâm lý các nhân vật, Kiều không phải là nhân vật tích lũy tất cả sự hèn nhát ích kỷ, vụ lợi v.v... cũng như tác giả chỉ là một kẻ bại trận còn ôm cái mộng được thờ nhà Lê khôi phục, nàng chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh, và trong tâm hồn nàng vẫn có giữ được tiết nghĩa.
Tóm lại, những trạng thái xúc cảm ở một thi sĩ chỉ là chuyện thường như Jean Jacques Rousseau, Baudelaire v.v... chứ không làm người ta ngạc nhiên như ông Nguyễn Bách Khoa khi ông vin vào một vài bài thơ nói đến ma quỷ của Nguyễn Du để dùng tư tưởng khám bệnh cho thi sĩ theo phương pháp diễn dịch: Nhiều văn nhân như Hoffman, Edgard Poở có nói đến quỷ quái, nhưng ta thấy đó là do tư tưởng đặc biệt chứ không phải là do một sự ảo giác chính thức như ông Nguyễn Bách Khoa quả quyết.
Sau cùng trong Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du vừa nghiên cứu về thuyết Thiên Mệnh của Nho giáo, vừa nghiêng về thuyết Nghiệp Báo của Phật giáo. Tư tưởng ông ủy mỵ và có tính cách tiêu cực một phần nào, song đó là kết quả tất nhiên của một người đa tình, đa cảm bị thất vọng lại chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng thời đại và hoàn cảnh của xã hội loạn lạc đó thôi.
Tâm lý các nhân vật trong Đoạn trường tân thanh
Quanh Thúy Kiều và Kim Trọng ta thấy có rất nhiều nhân vật: bên cạnh hai người là Thúy Vân, còn có những kẻ bất nhân đã gây đau khổ cho Kiều trong 15 năm luân lạc: Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh v.v... đối lập với một nhân vật tiêu biểu cho sự cứu vớt: Giác Duyên. Hai nhân vật khác được nhiều cảm tình của Thúy Kiều là Thúc Sinh và Từ Hải. Trừ hai nhân vật chính, tất cả các nhân vật sau này đều không có tâm lý sâu sắc.
Thúy Vân- Đó là một vai trò thụ động không có gì đặc sắc. Nàng là một thiếu nữ thùy mỵ, đoan trang có một vẻ đẹp phúc hậu, không đa sầu đa cảm, cũng không đa tình và chẳng bao giờ suy nghĩ sâu xa. Cuộc sống đối với nàng thật là giản dị, tuy nàng cũng có ở trong những tình cảnh éo le. Trong cơn "gia biến phi thường", vẫn hay rằng Kiều là chị cả, cần hy sinh đời mình để cứu cha, nhưng Vân cũng là con như Kiều thế mà không hề làm một việc gì có ích để giúp đỡ chị cả. Trước khi từ giã gia đình, Kiều khóc lóc suốt đêm mà Vân vẫn ngủ kỹ. Khi tỉnh giấc xuân mới có hỏi chị: "Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh?" Khi nghe chị kể nỗi niềm đau khổ của mình vẫn không hiểu được cái đau khổ ấy của chị mà tâm hồn vẫn bình tĩnh như không. Khi Vân nhận lời thay chị lấy chàng Kim, nàng cũng có thái độ dễ dàng như khi cùng cả nhà đón Kiều ở am Giác Duyên vậy. Tóm lại, Vân là một nhân vật chỉ có một cuộc sống nông cạn khô khan, không khiến ta chú ý nhiều lắm và có cảm tình đối với nàng được.
Những kẻ bất nhân- Kiều đã gặp hoặc những phường bạo tàn gian ác như: Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Khuyển Ưng, Bạc Bà, Bạc Hạnh. Chúng là những nhân vật bày ra để gây đau khổ cho Kiều chẳng khác những tay sai của Thần Bạc Mệnh vậy. Nếu ta hiểu tâm lý là đời sống phức tạp bên trong thì cả bọn này đều không có tâm lý: người ta thường cho chúng chỉ là những phương tiện sáng tạo nhân vật mà thôi, hoặc những nhân vật hiểm độc giảo quyệt như Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến. Những kẻ này hoặc để giữ lấy hạnh phúc của mình, hoặc để thi hành phận sự đều đã lợi dụng hoàn cảnh hèn yếu cùng lòng thực thà tin người của Kiều để lừa gạt nàng làm cho nàng đã đau khổ lại càng đau khổ thêm. Hoạn Thư là một người đàn bà tinh khôn nham hiểm, ghen một cách kín đáo làm cho kẻ tình địch phải khốn đốn với những mưu kế hiểm sâu. Hồ Tôn Hiến là một viên tướng thiếu tư cách trong cử chỉ, hành động, nếu không muốn nói là một người hèn nhát.
Giác Duyên - Đây là nhân vật độc nhất mang sự an ủi cứu vớt lại cho Kiều. Độc nhất vì đối với một người đã có mệnh bạch như Kiều thì tuy nàng phải gặp kẻ bất nhân, một người phúc đức hiện ra trong đời nàng cũng đã đủ lắm rồi. Kẻ thiện này chỉ cho nàng nương thân một thời gian để rồi nàng lại bị những biến cố khác dồn dập xảy đến khiến cho đời nàng phải nhiều lượt lênh đênh. Kẻ thiện này cũng là một phương tiện bầy ra để chấm dứt bước đường đau khổ của nàng và giúp cho nàng tái ngộ với gia đình cùng người yêu cũ. Về phần tâm lý không có gì đặc sắc hơn các nhân vật trên.
Thúc Sinh Từ Hải - Đó là hai nhân vật đã được cảm tình của Thúy Kiều. Họ được cảm tình của nàng là lẽ dĩ nhiên vì nàng ở Thanh lâu thì ắt có cảm tình với những người cứu mình ra thoát mà không cần phải xét xem họ có đức tính gì, có tâm hồn ra sao.
Thúc Sinh là một kẻ ăn chơi, hiếu sắc mà lại hèn nhát. Vì hiếu sắc: "nghìn vàng đổ một trận cười như không". Vì hèn nhát nên chàng sợ vợ, không dám hé răng che chở, bênh vực cho Kiều mà chỉ biết khóc lóc thở than. Khi lẻn ra Quan Âm các thăm nàng bị vợ cả biết được thì chàng lại khuyên nàng: "Liệu mà cao chạy xa bay, ái ân ta có ngần này mà thôi".
Từ Hải thì vùng vẫy ngang tàng, tỏ ra là một anh hùng khí tiết, nhưng kẻ anh hùng cũng đã yếu mềm trước sắc đẹp; chàng yêu Kiều tuy không quá đắm đuối nhưng cũng khá dễ dàng: "Thiếp danh đưa đến lầu hồng, Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa". Và giữa lúc thắng trận, chàng cũng đã nghe nàng dễ dãi như thế: "Nghe lời Kiều nói mặn mà, Thế công Từ mới đổi ra thế hàng".
Hai nhân vật còn lại là Kim Trọng và Thúy Kiều.
Kim Trọng - Đó là một thư sinh hào hoa phong nhã, đa cảm đa tình, chàng có thái độ và hành vi đặc biệt hơn những nhân vật kể trên. Vì cái đa tình ấy mà mới gặp Kiều, chàng đã rung động niềm yêu. Chàng tương tư tìm cách thuê nhà ở cạnh vườn Thúy để được dịp gặp nàng. Tình yêu của chàng đối với Kiều thật là đằm thắm sâu xa và chàng giữ nó mãi trong tâm hồn một cách tha thiết. Niềm tương tư, nỗi nhớ thương, lòng chung thủy của chàng đã chứng tỏ cái tình yêu kia. Lấy Thúy Vân chàng chỉ theo lời dặn hữu lý của Kiều nhất là khi chàng không thể làm khác được. Tuy thế có bao giờ chàng quên Kiều, và trong mười mấy năm trời chàng vẫn dò la tìm kiếm, mối tình chẳng phút nào nguôi: "Nỗi nàng nhớ đến bao giờ. Tuôn châu đòi trận vò tơ trăm vòng". Một người không chung thủy, không giữ mãi mối tình đắm thắm ban đầu làm gì có thể: "Có khi vắng vẻ thư phòng, Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa"; làm gì nghe thấy: "Bẻ bài rầu rĩ tiếng thơ, Trầm bay nhạt khói, gió đưa lay rèm. Dường như bên nóc bên thềm, Tiếng Kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng". Đó là: "Bởi lòng tạc đá ghi vàng, Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây".
Kim Trọng là một người tình chung thủy lại độ lượng cho nên lúc tái ngộ không những chàng không nghĩ đến những nhơ nhuốc mà Kiều đã chịu, chàng còn muốn an ủi nàng bằng cách nối lại duyên xưa. Có người cũng như Kiều trách chàng lúc đó sao còn làm nàng tủi nhục. Nhưng theo Kim ý muốn của chàng chỉ là để hàn gắn vết thương lòng của người yêu mà thôi. Vì thế cho nên khi nghe Kiều biện bạch chàng bằng lòng xem nàng như bạn mà không nài ép nữa.
Thúy Kiều – Kiều là một người rất đa sầu, đa cảm, và người ta có thể bảo trạng thái ấy có cội rễ sinh lý. Nàng khóc luôn cả trong những trường hợp mà ai cũng thấy là vô lý. Nghe Vương Quan thuật đời Đạm Tiên nàng "sùi sụt, vắn dài" và "mê mẩn" tâm thần, về nhà mộng thấy Đạm Tiên thức dậy nàng cũng khóc than thảm thiết. Sau lúc bán mình nàng lại còn rỏ nước mắt nhiều bận nữa.
Sự đa cảm ấy khiến Kiều rất dễ sầu bi, yếm thế, trong sự luân lạc đã đành mà trước cuộc đời ấy nàng cũng đã có thái độ bi quan: khóc than trước mộ một người không quen biết, rầu rĩ khi nghĩ đến tương lai...
Sự sầu muộn ấy lại khiến nàng luôn luôn sợ hãi, đoán trước rằng mình sẽ mắc thêm tai họa. Cả trong những phút vui bên Kim Trọng, nghĩ đến lời thầy tướng đoán nàng sẽ bạc mệnh, nàng cũng lo âu về những sự bất trắc chưa xảy ra. Vì thế nên tâm thần Kiều bao giờ cũng hoảng hốt, bối rối, chứa đầy mộng mị. Sự hoảng sợ cứ tăng dần, từ lời thầy tướng đoán mệnh nàng sẽ bạc đến việc gặp một người xấu số rồi về nhà mộng thấy người ấy cho hay rằng, nàng cũng cùng “một hội một thuyền đâu xa”. Lúc nào Kiều cũng ngỡ thần bạc mệnh sắp đến giày vò mình, hành hạ mình và nỗi hoảng hốt kia đã biến thành một ám ảnh làm cho nàng nhắm mắt theo đời bạc mệnh khi xảy ra cơn "gia biến phi thường" tin rằng không tài nào cưỡng lại được.
Nhiều nhà phê bình như ông Đào Duy Anh, cho rằng Kiều đã cân nhắc trước khi bán mình.
Duyên hội ngộ đức cù lao
Chữ tình chữ hiếu bên nào nặng hơn?
nghĩa là cho Kiều là một người thông minh bao giờ cũng xử sự hợp lý: trong cơn gia biến nàng đã biết giữ trọn đạo hiếu. Nhưng ta thấy quan điểm ấy quá giản tiện. Chính Kiều hành động mù quáng chứ không sáng suốt như thế đâu. Nàng không hề so sánh, suy tính kỹ lưỡng, cân nhắc tất cả mọi phương tiện trước khi đi tới cách giải quyết cuối cùng là bán mình để chuộc cha. Nói khác, nàng không theo lý trí, bởi vì ở đây không có sự xung đột chính thức giữa lý trí và tình cảm như ở các nhân vật của kịch gia Corneille chẳng hạn - mà nàng đã bị tình cảm sôi nổi hoang mang đẩy vào con đường bạc mệnh cho nên nàng không đắn đo suy nghĩ sâu xa theo tâm lý tự nhiên của một người đa cảm, ủy mị như nàng.
Ông Nguyễn Bách Khoa, khi xét đến tâm lý của nhân vật trong Đoạn trường tân thanh cho rằng cũng như tất cả các nhân vật khác, Kiều đã tỏ rõ sự suy nhược, hèn nhát trong mọi hành động. Riêng Kiều là nhân vật chính ông cho rằng: sự sầu bi hoảng hốt khiến nàng có một tâm lý sầu bi, tùy thời, ích kỷ hèn nhát cũng do bệnh tật mà ra. Đó là bệnh ủy hoàng gây nên bởi sự phong lưu, không hoạt động, làm cho thân hình gầy yếu, phủ tạng ốm o, bởi sự ăn ngon mặc đẹp, sinh khí bế tắc "Tác động nội bộ cơ thể và thần kinh làm ra tính ưa mơ mộng, thích tưởng tượng, thèm những cảm giác lạ và nhất là tính dâm dục", lại thêm sự luyện tập âm nhạc, thứ nghệ thuật đã đã làm "ốm thêm bộ thần kinh đã ốm" Kiều thành ra buồn nản, lo sợ, hoảng hốt, dễ khóc, dâm đãng, trâng tráo."... bệnh ủy hoàng sinh ra chứng ưu uất (hystérie) khiến người vui buồn quá độ "luôn luôn hứng tình, chỉ khao khát những vỗ về của người đàn ông". Nguyên nhân hai bệnh trên là do: "một phần ở phủ tạng suy nhược của nàng không đủ sức chịu đựng sự nẩy nở mãnh liệt của cơ quan sinh dục, một phần ở sức đè nén của cái luân lý Nho giáo đối với sức phát tiết của tính dâm đãng của nàng”.
Rồi do đó, ông Nguyễn Bách Khoa kết án tâm lý cùng hành trạng của Kiều. Ông cho Kiều là hèn nhát, vì trốn với Sở Khanh, sợ đòn Tú Bà mà phải nói "Tấm lòng trinh bạch từ nay xin chừa", ăn cắp chuông khánh đi trốn, báo oán, gẩy đàn dưới trướng Hồ Tôn Hiến, đã sống nhơ nhuốc với bao nhiêu người khi gặp Kim Trọng lại còn nói: "Chữ Trinh còn một chút này". Theo ông thì như thế là mỉa mai quá lắm, vô liêm sỉ quá lắm!
Chúng ta thấy ông Nguyễn Bách Khoa đã vượt ra ngoài phạm vi phê bình văn học để khoác áo y sĩ một cách khá buồn cười. Như chúng ta đã biết khi nghiên cứu tâm lý một nhân vật trong văn chương ta không được đi quá địa hạt tâm lý mà bước vào phạm vi sinh lý như khi khám một bệnh nhân có thịt xương. Đó là một nhân vật do trí tưởng tượng tạo nên thì có đi xa quá người ta cũng chỉ bảo: Hành động của nhân vật có cội rễ sinh lý hoặc có tính cách tật bệnh mà thôi. Mà dù ta có quyền đi sâu vào địa hạt sinh lý để xét một nhân vật văn chương đi nữa thì ta cần phải theo đúng phương pháp cần thiết áp dụng trong địa hạt ấy. ở đây ông Nguyễn Bách Khoa không thận trọng như thế nên lập luận của ông không đứng vững được, vì y học là một khoa học thực nghiệm chứ không phải là một khoa học thuần lý. Ông Nguyễn Bách Khoa đã theo phương pháp một khoa học thuần lý, nghĩa đã suy diễn ra bệnh của Kiều, chứ không hề thực nghiệm bệnh ấy, vì làm thế nào mà thực nghiệm trên một nhân vật tưởng tượng? Dù Kiều có thực ta cũng không thấy kể rõ bệnh trạng của nàng. Vả lại, Kiều của xã hội Trung Hoa xưa nay của Thanh Tâm Tài nhân cũng đều không phải là nàng Kiều của Nguyễn Du - cho nên ta phải xét tâm lý Kiều trong Đoạn trường tân thanh mới được.
Do đó, lối kết án tâm lý và hành trạng Kiều của ông Nguyễn Bách Khoa đã sai lầm như thế: Trong khi mỉa mai, chê bai, mạt sát Kiều (cùng các nhân vật khác) ông đã không giữ thái độ khách quan của khoa học như ông đã tuyên bố trong tác phẩm của ông, mà đã theo tình cảm cùng thiên kiến ông đã có sẵn trước khi cầm bút lập luận: ghét lối sống đài các, so sánh con nhà phong lưu với người nhà quê căn cứ vào thành kiến cổ xưa: "gia trung hữu cầm nữ tử tắc dâm" để kết tội cầm, kỳ, thi, họa, cố tìm, bới móc sự hèn nhát trong mọi hành động của Kiều...
Xét kỹ thì ta thấy rằng Kiều trốn theo Sở Khanh vì lòng quá tin người của nàng đã bị đánh lừa và nàng xin chừa tấm lòng trinh bạch vì nàng bị một xã hội bất công áp bức. Ta không thấy lời Kiều hèn nhát mà nó chỉ bao hàm một sự hèn nhát mỉa mai.
Còn lấy chuông khánh của Quan Âm các thì như đã nói trên đó là một hành động của nàng lúc tâm thần rối loạn không còn biết suy nghĩ đắn đo như một tâm hồn yên tĩnh: trong khi tứ cố vô thân, lại bị giày vò đau đớn muốn trốn thì nàng phải mang theo cái thứ đó để hộ mình. Hành động của nàng mù quáng (như trường hợp bán mình) vì ở đây trí óc nàng hoàn toàn bị chi phối bởi sự đau đớn quá độ. Nó có tính cách xúc động do bản năng sinh tồn mà ra. Vì thế mà ông Đinh Gia Trinh cho hành động không có "màu luân lý".
Đến việc Kiều báo ân báo oán thì cũng là chuyện thường, vì ta nhận thấy Kiều sống theo tình cảm hơn là theo lý trí, nhất là khi nàng đã quá đau khổ và dù sao nàng cũng vẫn chỉ là một người đàn bà. Việc nàng phải tùy thời (như việc đánh đàn hầu Hồ Tôn Hiến) cũng vậy: nó không tỏ ra nàng hèn nhát mà chỉ chứng thêm rằng nàng là một kẻ yếu đuối, bại trận bị giày vò điêu đứng nhiều quá mà thôi.
Sau hết, tại sao khi tái ngộ Kim nài ép, Kiều lại nói: "Chữ trinh còn một chút này?" Đó là vì nàng nghĩ kết duyên với Kim thì thân phải trong sạch, nay phải nhơ nhuốc thì không được lấy chàng vì thế nên nàng nói: "Không cầm cho vững lại giày cho tan". Vậy ta không nên hiểu chữ Trinh theo nghĩa thông thường mà phải theo ý Kiều lúc đó mới được.
Giá trị xã hội của Đoạn trường tân thanh
Trên kia chúng ta đã có lần bàn tới thân thế, thời đại Nguyễn Du, ít nhiều chúng ta đã biết được cái xã hội phong kiến thối nát lúc đó. Và trên đây, phân tích qua tâm lý các nhân vật, chúng ta cũng đã biết được những nhân vật điển hình của xã hội Đoạn trường tân thanh.
ở đây chúng ta chỉ nêu lại vài nét, thêm vào ở cái lớp người thống trị cũng như để cho rõ thêm cái màu sắc thối tha ấy:
- Những lớp người thống trị
Ba ông quan: Một ông bội ước, một ông ăn hối lộ, một ông xử kiện bằng thơ, và một lũ sai nha đầu trâu mặt ngựa đại diện cho chính quyền phong kiến với cái xu thế đổ vỡ của nó.
- Những nhà chứa
Tú Bà, Mã Giám Sinh, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Sở Khanh, cả cái xã hội ghê tởm nhơ nhớp được vạch ra với những nét rất sắc.
Những mụ trùm thô kệch:
Thoắt trông nhờn nhợt màu da
Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao.
Những ông mưu sĩ:
Nghĩ rằng cũng mạch thư hương
Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh.
Đã lừa Thúy Kiều bằng một tin Tích Việt lại có cả tôn giáo riêng với những phong tục lễ bái rất là lạ lùng:
Giữa thì hương án hẳn hoi
Trên treo một tượng trắng đuôi lông mày
Lầu xanh quen thói xưa nay
Nghề này thì lấy ông này tiên sư...
Trong xã hội đó ta đã thấy những nạn nhân Mã Kiều, Thúy Kiều, Đạm Tiên... đã gởi vào Truyện Kiều những tiếng than khóc, tiếng kêu rên đòi quyền sống.
Giá trị luân lý của Đoạn trường tân thanh
Khi xét về luân lý Đoạn trường tân thanh các nhà văn học nước ta trước nay đã có nhiều ý kiến rất phức tạp, nhưng đại khái ta có thể chia ra làm hai nhóm:
1. Nhóm công kích, buộc tội
a) Trước hết ta thấy có cụ Ngô Đức Kế đã kết tội nền luân lý phô bày trong tác phẩm của Nguyễn Du. Theo cụ, Đoạn trường tân thanh tả tính tình lẳng lơ của một cô gái, những chuyện lừa dối, những cảnh tượng trụy lạc, ô uế nơi thanh lâu...; Tóm lại cụ kết luận truyện ấy rất có hại cho trí óc người đọc nhất là cho thanh niên, có thể làm bại hoại phong tục, và cụ đã dùng danh từ "dâm thư" để chỉ nó.
b) Tiếp đến cụ Huỳnh Thúc Kháng cũng gửi một ý kiến như cụ Ngô. Cụ cho Đoạn trường tân thanh là một chuyện về luân lý vì các nhân vật trong đó đều thiếu tư cách (lẳng lơ, lừa gạt v.v...) cái xã hội tả trong đó là một xã hội mục nát.
c) Với một luận điệu riêng, để kết luận quyển sách phê bình Đoạn trường tân thanh, ông Nguyễn Bách Khoa đã cho rằng: "Truyện Kiều là kết tinh của ba yếu tố suy đồi: một sinh hoạt cằn cỗi và xáo loạn, một tư tưởng nhát hèn và ủy mỵ, một tâm lý tùy thời và ích kỷ". Tóm lại nó là "kết tinh của những cái suy nhược trong cốt tính Việt Nam” vì lẽ như ta đã thấy, ông cho các nhân vật trong đó nhất là Kiều đều tỏ rõ những hành động ích kỷ hèn nhát.
2. Nhóm tán thưởng ca tụng
a) Trước tiên ta thấy những bạn đồng nghiệp của Nguyễn Du hoặc sống trong thế kỷ thứ 19 đều tán thưởng Đoạn trường tân thanh về mặt luân lý. Đôi lúc không khen hẳn song phần đông đều có giọng bênh vực đối với những kẻ bảo nó là một tác phẩm có hại cho phong hóa: Mộng Liên đường chủ nhân, Phong Tuyết chủ nhân, Phạm Quý Thích v.v...
b) Gần đây nền luân lý của Đoạn trường tân thanh lại được các văn nhân như Phan Kế Bính, Nguyễn Khắc Hiếu, Chu Mạnh Trinh, Phạm Quỳnh, phái Nam Phong v.v... trực tiếp ca tụng trong những bài bình luận viết rất công phu: theo họ Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du vẽ lại đời gian truân của một người con gái Hiếu Tình giữ vẹn khiến ta không ngăn được lòng thương xót kẻ bạc mệnh và sự thương xót ấy khiến ta hành động nhân đạo hơn, thanh cao hơn. Phạm Quỳnh đã đi đến chỗ quả quyết rằng:
"Truyện Kiều còn nước ta còn".
c) Theo ông Trần Trọng Kim thì truyện ấy lại đáng ca tụng về đường luân lý lắm nữa: một người con gái biết bỏ mình giữ đạo Hiếu trong lúc lưu lạc lại giữ được tiết nghĩa như Kiều thì ở thời nào, nước nào người ta cũng phải kính phục. Ông khen Kiều đã biết lấy "Hiếu làm Trinh”; biết nhân nghĩa, tuy nàng có nặng về đàng tình ái nhưng đã là người thì ai có thể thoát khỏi cái nợ ấy được. Ông kết luận: "Ta nay sẽ xem truyện Thúy Kiều không phải chỉ vì văn hay ý sâu mà thôi nhưng lại vì những điều nhân lễ nghĩa trí tín nữa. Thật là quyển sách rất có luân lý, rất thanh nhã vậy”.
Song ta xét lý luận các nhà học giả trên cũng chưa được đầy đủ lắm.
d) Về các nhân vật ta đã phân tích tâm lý và ta đã thấy những nhân vật chính không hẳn là những kẻ hèn nhát ích kỷ, xấu xa mà chỉ là những kẻ đáng thương, những nạn nhân của một chế độ xã hội bất công trong đó cá nhân không được che chở cứu vớt.
f) Còn bảo rằng nàng Kiều đã giấu cha mẹ mà yêu Kim Trọng thì đó là theo tục lễ xưa: "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" hay "nam nữ thụ thụ bất thân". Nhưng xét kỹ thì ta thấy nàng Kiều tuy thề thốt với Kim Trọng vì đã trót yêu, nàng vẫn giữ được trong sạch.
Dù khi lá thắm chỉ hồng
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.
Chính Kim cũng theo ý đó.
Chút chi gắn bó một hai,
Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh.
và ta đã chẳng thấy Kiều khuyên răn Kim khi chàng có ý lả lơi:
Đã cho vào bậc bố kinh
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu
Ra tuồng trên bộc trong dâu
Thì con người ấy ai cầu làm chi".
đó sao?
Vả lại không nên nghiêm khắc như nền luân lý cổ hủ. Người ta nhận thấy rằng nam nữ cũng có thể được chọn lựa theo ý mình, miễn là phải có sự ưng thuận của cha mẹ trước khi kết hôn. Hơn nữa khi tái ngộ tuy Kim Trọng nài ép Kiều cũng nhất định xin đối với nhau như bè bạn để được đền đáp người yêu bằng tấm lòng trong sạch mà nàng gọi là "một chút Trinh" còn lại. Đấy là ta chưa kể những lời nói chí khí của Kiều:
Đến điều sống đục sao bằng thác trong
và sự chung thủy của tâm hồn nàng đối với Kim Trọng trong suốt 15 năm luân lạc.
g) Sau hết, để trả lời các câu buộc tội những cảnh ô uế mà tác giả đã tả ra trong truyện ta có thể dẫn nhiều tác phẩm nhất là của "phái tả thực" từ hơn một thế kỷ nay như các tác phẩm của Trọng Lang, Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Đình Lạp... trong đó người ta còn nêu ra biết bao mục đích là vạch cho độc giả thấy rõ bộ mặt thực của xã hội. Huống gì trong Đoạn trường tân thanh tác giả chỉ phác qua những cảnh ấy bằng những lời văn đơn sơ, bóng bẩy, cốt người đọc có một ý niệm về mỗi cảnh tượng mà thôi!
Văn chương Đoạn trường tân thanh
1. ý kiến các nhà văn học
Phần nhiều các nhà phê bình văn học Việt Nam đều đồng ý cho Đoạn trường tân thanh là một tác phẩm bằng văn vần có giá trị vào bậc nhất về phương diện văn chương (Trừ Nguyễn Bách Khoa ta sẽ nói sau) ta đã biết Phạm Quỳnh có viết câu: "Truyện Kiều còn nước ta còn" chính phần lớn cũng vì phương diện đó. Theo Đào Duy Anh, Truyện Kiều là một tác phẩm rất quý giá trong văn học Việt Nam về hình thức cũng như về nội dung. Và muốn thưởng thức cùng trình bày cái hay trong tác phẩm ấy người ta phải mất rất nhiều thì giờ và công phu chứ không phải chỉ xét sơ lược mà được. Hoài Thanh (1942) cũng bảo: cái hay cái đẹp của Đoạn trường tân thanh chúng ta khó mà thâu nhận được hết. Muốn hiểu cái hay cái đẹp của văn chương trong đó, không phải đọc to các câu thơ lên, ngâm nga ở cửa miệng mà trái lại phải im hơi lặng tiếng bước vào, nghĩa là phải lặng lẽ đặt hết tâm hồn vào đấy mới được... Vậy ta thử xét văn chương Đoạn trường tân thanh theo một thứ tự rất giản dị xem ý kiến của hầu hết các nhà văn học nước ta có thật đúng không và để tìm địa vị tác phẩm ấy trên văn đàn nước nhà. Trong công việc này ta sẽ không xét một cách hỗn độn mà mơ hồ như Trần Trọng Kim hoặc một cách phiền phức và không được tự nhiên như Đào Duy Anh nghĩa là chia ra từng cách đặt câu, dùng chữ, phân câu v.v... vì có nhiều câu có nhiều cú pháp, giống nhau nhưng hình ảnh do mỗi chữ gợi nên hoặc phép mỹ từ dùng trong đó khác nhau cho nên hiệu lực cũng cách biệt nhau xa lắm.
2. Quan niệm văn chương của Nguyễn Du
Ta đã rõ rằng các nhà văn Việt Nam xưa thường không vụ tả thực mà chỉ chú trọng vào việc phụng sự một lý tưởng (nêu những gương đạo lý, ký thác tâm sự v.v...) cho nên văn chương xưa như ta đã nói trong phần tiểu sử tác giả là lối tự sự biểu tượng. Các nhân vật hành động theo ý nguyện của tác giả nên tâm lý thường đơn sơ và do đó văn chương không chú trọng vào những chi tiết tỉ mỉ của mỗi hành động ấy mà chỉ để diễn tả những nét khái quát trong mỗi nhân vật có thể tiêu biểu cho tâm lý chung một hạng người hay một giai cấp trong xã hội mà thôi. Bởi một lý do ấy, cảnh và tình diễn tả trong các tác phẩm xưa đều có tính cách biểu tượng thường chỉ được phác qua trong vài nét chính - có khi hoàn toàn lý tưởng. Đó là lối tả điển hình: mỗi cảnh mỗi tình hay là mỗi nhân vật đều là những kiểu mẫu của một loại cảnh, một thứ tình hay của một hạng người và đó cũng là trường hợp của văn chương Đoạn trường tân thanh. Điều mà Nguyễn Du phụng sự trong văn phẩm ấy không phải là một lý tưởng cao siêu. Ta thấy ông dùng văn chương để giãi bày tâm sự, niềm tâm sự u ẩn của kẻ thất thời. Vậy xét văn chương Đoạn trường tân thanh không phải là xét ở chỗ nó có đi sát và sâu vào thực tế không hoặc nó có phụng sự đại đa số quần chúng không hoặc nó có thổi vào tâm hồn luồng khoan khoái mới nhờ những câu thơ hùng tráng không mà đúng hơn là ở chỗ nó có phản chiếu rõ ràng cái tâm sự (tức là cái tâm sự mà có cả nguyện vọng) của tác giả không? Nó có rung cảm người đọc như ý muốn của tác giả không? Làm trái lại ta sẽ thành ra quá nghiên cứu tường tận căn bệnh của mình hoặc bắt người ấy dùng những tiếng cười ròn rã để biểu lộ những đau đớn chính mình đã cảm thấy.
3. Bố cục Đoạn trường tân thanh
Trước hết về bố cục câu chuyện ta thấy không có gì đặc sắc nghĩa là tác giả chỉ theo lối làm văn xưa của Tàu và Ta tức là lối "khai, thừa, chuyển, hợp". Khai thì nói rộng ra càng rộng càng hay rồi dần dần mới thu hẹp lại mà vào đề, đến cuối cùng thì tóm lại đại ý toàn chuyện: vì thế đoạn vào đề và kết luận bao giờ cũng dùng để trình bày những tư tưởng luân lý. Vậy sự khéo léo của Nguyễn Du trong cách dàn câu chuyện không phải ở cái khuôn khổ cũ kỹ ấy mà ở chỗ ông đã biết cách chuyển tiếp các đoạn văn ăn nhịp vào nhau rất chặt chẽ và không có chỗ nào mất tự nhiên hoặc quá đột ngột. Giả sử muốn từ đoạn nhà họ Vương vừa đi mừng thọ về giữa lúc Kiều đang buồn vì Kim phải về hộ tang chú sang đoạn Vương ông mắc nạn, tác giả viết:
"Hàn huyên chưa kịp dã dề
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao".
Thật là gọn ghẽ mà tự nhiên cũng như mấy câu chuyển tiếp từ đoạn Kiều bị Bạc Hạnh bán về Châu Thai đang chán ngán cho thân phận mình sao không thoát khỏi số đoạn trường sang đoạn nàng ngẫu nhiên được gặp Từ Hải:
Biết thân chẳng chạy khỏi trời
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh
Lần thâu gió mát trăng thanh
Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi...
Cho đến những đoạn liên lạc giữa hai phần khác nhau của câu chuyện, tác giả chỉ dùng đôi câu mà cũng đầy đủ và tự nhiên, chẳng hạn, khi đã thuật xong bước đường gian truân của Kiều, tác giả kể lại chuyện Kim Trọng với những câu chuyện giản dị:
Nạn xưa trút sạch lầu lầu
Duyên xưa ai dễ biết đâu chốn này
Nỗi nàng tai nạn đã đầy
Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương.
Phi những tay lão luyện trong làng văn thật ít có người chuyển tiếp được khéo như thế.
4. Văn tả cảnh
Vì tính cách đơn sơ nói trong phần quan niệm văn chương của tác giả, những cảnh do Nguyễn Du tả thường không phải là những cảnh đặc biệt riêng của một nơi nào hay của một thời đại nào. Đó là những cảnh ta có thể đem đặt vào bất cứ nước nào hoặc một đời nào nếu chúng có chừng ấy yếu tố. Nói một cách khác, đó là những bức tranh không lệ thuộc vào không gian và thời gian, chúng có tích cách độc lập và nhiều khi lý tưởng nữa. Chẳng hạn cảnh đẹp của mùa xuân:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
hoặc của mùa thu:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non khơi bóng vàng.
Thật là những cảnh đẹp, đẹp trong lý tưởng mà một người Việt Nam hay một người Nhật Bản đều có thể tưởng tượng ra những cảnh như thế trên nước mình như một người Trung Hoa.
Những chữ dùng để phác vẻ đẹp "non rợn, trắng điểm, long lanh, in, xây, khơi" đều là những chữ diễn tả những cái khái quát nhất. Những cảnh khái quát và có tính cách lý tưởng ấy lại có giá trị hơn nữa ở những chỗ tác giả thêm vào để thi vị hóa câu chuyện:
Dưới dòng nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Có những cảnh khác cũng vẫn "xinh xinh" như thế, song đã nhuốm một màu sắc khác hoặc thê lương, hoặc bi đát bởi những chữ trùng nhau mà tác giả có dụng ý lặp lại.
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Sè sè nắm đất bên đường
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
hoặc bởi những từ ngữ đầy hình ảnh hay những tiếng tượng thanh chọn lọc:
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời
 
Sập sè én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày
Cuối tường gai gốc mọc đầy...
hay:
Nhà tranh vách đất tả tơi
Loan treo rèm nát trúc cài phên thưa.
Cũng có những cảnh rộn ràng hoặc oai nghi nhờ những chữ hay những câu rộn ràng và thích hợp:
Đùng đùng gió dục mây vần
Một xe trong cõi hồng trần như bay
hoặc:
Hỏa bài tiên lộ ruổi mau
Nam đình nghe tiếng trống chầu đại doanh
Kéo cờ lũy phát súng thành
Từ Công ra ngựa thân nghênh cửa ngoài.
hay là:
Dưới cờ gươm tuốt nắp ra
Xem đó cảnh tả trong Đoạn trường tân thanh thường rất đơn sơ nhưng đã cho người đọc có một hình ảnh về mỗi lúc hoặc mỗi nơi trong toàn thể câu chuyện. Tuy mỗi người sẽ hình dung một cách nhưng không phải các cảnh tượng vì thế mà không được trí tuệ của độc giả ghi nhận rõ ràng, nhất là những cảnh mà tác giả dù muốn cũng không thể tả dài, song chính vì vậy mà cái mơ hồ lại đổi ra cái rõ rệt.
Vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh
hoặc:
Bạc phau cầu giá đem rầm ngàn mây...
Vi lô san sát hơi may....
5. Văn tả người
Đến tả nhân vật, Nguyễn Du cũng theo một lối ấy, mỗi nhân vật ông tả là tiêu biểu cho một hạng người trong cái xã hội ngày xưa; vì thế nên ông không chú trọng vào những đặc điểm của mỗi nhân vật, những nét riêng có thể giúp ta phân biệt người này với kẻ kia: người đọc không thể nào hình dung được rõ ràng mỗi bộ mặt, mỗi hành vi cử chỉ dù trí tưởng tượng dồi dào phong phú đến đâu. ấy là vì tác giả chỉ phác lại những nét rất khái quát có thể tiêu biểu cho những tính cách chung của một hạng người do thói quen hoặc thành kiến giữ lấy mà thôi. Cho nên nhiều khi ta hình dung được một hạng người không phải vì hình ảnh do những câu thơ của tác giả mang lại cho ta - vì nó mơ hồ quá không đủ để giúp ta tưởng tượng - mà chính vì tác giả đã gắng công tìm ra những từ ngữ có thể gợi nên những nét khái quát kia. Ta hãy nghe tác giả tả Mã Giám Sinh:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Tú Bà:
Nhác trông nhờn nhợt màu da
Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao!
Ta biết ngay không phải là hạng người lương thiện, đó là dụng ý của tác giả trong những chữ: "nhẵn nhụi, bảnh bao, nhờn nhợt, ăn gì..."
Cái dụng ý trong từ ngữ ấy của tác giả cũng được bộc lộ rõ trong đoạn tả chị em Kiều:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành.
Đấy là chưa kể sự dụng công của tác giả trong các chữ: ghen, hờn đối lại thua, nhường để nhấn mạnh vào sự phân biệt giữa hai vẻ đẹp. Cũng như trong đoạn tả Kim:
Phong tư tài mạo tuyệt vời
Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa.
Cho đến Từ Hải, nhân vật tượng trưng cái khí phách của tác giả và vì thế mà ta thấy tác giả có một giọng văn phóng túng hơn, "đắc chí" hơn cũng không được tả rõ hơn là bao:
Râu hùm, hàm én, mày ngài
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao
Mà có thể bảo rằng nếu quả Từ Hải có dung nhan giống hệt thế thì chàng khó có thể mà chiếm được cảm tình của ta lúc ban đầu. Cái lối tả nhân vật đó của Nguyễn Du càng được biểu lộ rõ trong hai câu tả Đạm Tiên mà Kiều gặp trong mộng:
Sương in mặt tuyết pha thân
Sen vàng lãng đãng như gần như xa.
Thật dù gắng sức ta cũng chỉ có thể hình dung ra một cái bóng chập chờn.
6. Văn tả tình
Văn Đoạn trường tân thanh phần nhiều chứa chan tình cảm. Đó là một điều dĩ nhiên. Nếu ta đã biết rằng Nguyễn Du là một người đa cảm, đa tình lại viết tập ấy để ký thác tâm sự u ẩn của mình vào các nhân vật chính là những tâm hồn cũng phong phú như ông, cho nên văn tả tình của ông thường réo rắt nhất là ở những đoạn Kiều phải trải qua muôn nghìn cay đắng hay Kiều phải đau khổ vì cách biệt người yêu.
Nỗi lòng của Kiều ở trong những cảnh đau đớn bao giờ cũng "ngổn ngang trăm mối" nhưng ở mỗi nơi tác giả tả một cách khác nhau.
Kiều khi ở lầu Ngưng Bích:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng
Khi phải theo lời Tú Ba ra tiếp khách:
Nỗi lòng đòi đoạn xa gần
Chẳng vò mà rối chẳng dần mà đau.
Khi Từ Hải để Kiều ở lại một mình ra đi lập sự nghiệp:
Tấm lòng cố quốc tha hương
Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời.
Đặc biệt nhất là những điệp ngữ có hiệu lực gây nên những cảm tưởng sầu muộn vì phải lại những cảnh không bao giờ thay đổi.
Song sa vò võ phương trời
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng.
Sự đau khổ của Kiều trong mười mấy năm trời luân lạc đã làm cho nàng nhiều khi cảm thấy số phận quá tàn ác và câu văn tả tâm trạng Kiều lúc đó cũng nhuốm đầy uất ức.
Đã cho lấy chữ hồng nhan
Làm cho cho hại cho tàn cho cân!
Chữ "cho" tác giả lặp đi lặp lại 5 lần khiến cho ta có cảm tưởng đó là lời của một kẻ thốt lên mà vẫn nghiến chặt răng lại, để nén nỗi uất ức của mình.
Khi đã quá đau khổ, ê chề người ta thường sinh ra chán ngán và trong bước đường cùng chỉ biết đánh liều với số phận mà thôi, đó là tâm trạng Kiều mà tác giả vẽ lại trong những câu thơ rất chua chát:
Phận bèo bao quản nước sa
Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.
hay
Biết thân chạy chẳng khỏi trời
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.
hoặc
Tẻ vui cũng một kiếp người
Hồng nhan cũng phải ở đời mãi ru!
Song không phải chỉ những đoạn văn biểu diễn tâm trạng các nhân vật mới là những đoạn tả tình. Điều đáng chú ý là phần nhiều các cảnh Nguyễn Du tả cũng có nhuốm tình của các nhân vật. Nói cách khác Nguyễn Du thường tả cảnh qua tâm tình người trong truyện. Chẳng hạn cảnh dọc đường mà Kiều thấy khi bị đưa đến Lam Trung:
Vi lô san sát hơi may
Một trời thu để riêng ai một người
Dặm khuya ngắt tạnh mù khơi
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông.
Cảnh Thúc Sinh chia biệt cùng Kiều:
Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
Dặm hồng bụi cuốn chinh an
Trông vời đã khuất mấy ngàn rêu xanh.
và:
Vừng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
Cảnh Kim Trọng chưa tìm thấy Kiều:
Có khi vắng vẻ thư phòng
Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa
Bẻ bài rầu rĩ tiếng tơ
Trầm bay nhạt khó gió đưa bay rèm
Dường như trên ngói bên thềm
Tiếng Kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng.
Tóm lại đối với Nguyễn Du, cảnh nào cũng có hồn nghĩa là cảnh nào cũng phản chiếu cái tâm sự của người ngắm nó hay đối trước nó như tác giả đã viết:
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
7. Văn Triết lý
Như trên kia đã nói, lối làm văn xưa là lối "khai, thừa, chuyển, hợp" cho nên trong truyện thường có pha lẫn luân lý hoặc triết lý và phần nhiều là ở hai đoạn nhập đề và kết luận. Đoạn trường tân thanh cũng vậy. Mở đầu tác giả khảo luận về "tài mệnh tương đố" mà theo tác giả đó là một công lệ hay đúng hơn một định luật chi phối đời sống của con người:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Riêng về phụ nữ điều đó lại càng rõ rệt. Hình như tạo hóa hay ghen ghét những kẻ có tài sắc khiến cho họ không tránh khỏi cái mệnh bạc để giữ lấy cái "thăng bằng".
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
ý tứ không có gì lạ. Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Hoa tiên, Mai đình mộng ký và hầu hết các tiểu thuyết xưa đều mở đầu với những tư tưởng tương tự. Song điều đặc biệt là văn của Nguyễn Du tự nhiên và rất trôi chảy có thể nói là tác giả đã viết một hơi mà không phải tốn công đẽo gọt quá. Nhờ sự tự nhiên đó mà văn triết lý của tác giả đã thoát khỏi tính cách khô khan thông thường của loại văn ấy. Sáu câu trên dẫn độc giả đi một thôi mà không phải dừng lại nửa chừng một cách miễn cưỡng. Cái tính cách giản dị, tự nhiên đó lại càng được biểu lộ rõ trong đoạn kết. Tuy ở đây tác giả đã dùng đến 12 câu để diễn tả thêm một đôi ý mới (khác đoạn mở đầu) mà thôi; nhưng 12 câu ấy cũng đi liền nhau vì một sự liên lạc rất chặt chẽ với nhau và có thể bảo rằng, các ý đã ăn khớp với nhau một cách liên tục:
Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
..................................................................
Thiện tâm ở tại lòng ta
Chữ tâm xưa mới bằng ba chữ tài.
Thực rõ ra lời kết luận tự nhiên của một người vừa kể xong một câu chuyện có chủ đề. Chúng ta đã biết mục đích của Nguyễn Du trong Đoạn trường tân thanh cho nên không ngạc nhiên về lời kết luận lại có đủ cả tài, mệnh, tâm. Cái khéo của Nguyễn Du là ở chỗ biết điều khiển câu văn để tránh cho người đọc không phải miễn cưỡng chịu đựng những lối nghị luận nhạt nhẽo và không thấy trong đó một chút gì cưỡng áp.
8. Nhạc điệu trong thơ Nguyễn Du
Phần nhiều các nhà bình luận khi nói đến âm điệu của thơ Nguyễn Du, đều cho rằng hầu hết các câu thơ trong Đoạn trường tân thanh đều du dương, réo rắt hoặc mạnh mẽ oai hùng thích hợp với cảnh tình trong truyện. Trần Trọng Kim bảo rằng: "Cái âm điệu của thơ Nguyễn Du rất dễ cảm người, cho nên không những chỉ có các bậc trí thức mới tán thưởng các vần thơ ấy mà đến các người thường: vú em, anh bếp v... cũng đều ham thích thường ngâm nga luôn, tuy nhiều đoạn họ chẳng hiểu gì cả, ấy chỉ vì cái âm điệu tuyệt hay của câu thơ trong Đoạn trường tân thanh mà họ thích".
Hoài Thanh thì cho rằng Đoạn trường tân thanh hấp dẫn người ta phần nhiều do ở nội dung, mà theo ông nội dung là gồm các tiết tấu âm điệu của câu thơ, cũng như cách bố cục câu đối (Tao Đàn 41) Hoài Thanh đã lầm lẫn trong việc phân biệt nội dung và hình thức của một áng văn (tuy hai phần đó thường hỗn hợp với nhau, thâm nhập vào nhau ta sẽ nói thêm ở phần kết luận) và rút lại cũng đồng ý với các học giả trên.
Trái lại Nguyễn Bách Khoa (Văn chương Truyện Kiều) chohình thức Đoạn trường tân thanh quả thực phù hợp với nội dung mà nội dung có tính cách hoàn toàn ủy mị, và hình thức cũng có tính cách ấy. Nói một cách khác, lối thơ lục bát là lối thơ ẻo lả, yếu mềm (âm bằng nhiều hơn âm trắc; âm bằng yếu, âm trắc mạnh) nên sự thích hợp cho sự biểu hiện những tình cảm hèn nhược và ốm yếu.
Ta không có thiên kiến tuyệt đối ca tụng toàn thể văn chương Đoạn trường tân thanh về phương diện nhạc điệu như những nhà văn học trên, nhưng ta cũng không đồng ý hẳn với ông Nguyễn Bách Khoa: thể lục bát không phải là một thể thơ có âm điệu hoàn toàn mạnh mẽ, điều đó không ai phủ nhận, nhưng có phải bao giờ nó cũng chỉ có thể diễn tả những cái yếu mềm không? Có phải bao giờ âm bằng cũng yếu và âm trắc cũng mạnh cả không? Ta thấy lập luận ấy thật hồ đồ và người ta sẽ thấy sự hồ đồ ấy nếu xét những tượng thanh biểu diễn những thanh âm vang dội như: đùng đùng, ầm ầm (trầm bình thanh) hoặc những từ ngữ biểu diễn sự ồn ào náo nhiệt như: vang trời (phù và trầm bình thanh), rầm rập, vang dậy v.v... Đằng khắc có những từ ngữ gồm cả bằng lẫn trắc dùng để biểu diễn những trường hợp trái lại chẳng hạn: khe khẽ, dìu dịu, im phắc, lặng tờ...
Ta hãy đọc:
Đùng đùng gió dục mây vần
Một xe trong cõi hồng trần như bay.
hoặc:
Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.
Rõ ràng những chữ diễn tả sự ồn ào hay sự mạnh mẽ trong mấy câu thơ trên đều là những chữ thuộc âm bằng cả: đùng đùng (trầm bình thanh) vần (trầm bình thanh) bay (phù bình thanh) bất bình (phù nhập thanh cộng với trầm bình thanh) sấm vang (phù khứ thanh công trầm bình thanh).
Ta chỉ có thể bảo rằng toàn thể lối thơ lục bát gây nên một âm điệu phần nhiều êm dịu và ít khi thực mạnh mẽ, ấy cũng vì phần lớn cái âm điệu không thay đổi của thể thơ ấy. Nhưng không phải chỉ lối thơ lục bát mới có âm điệu bằng phẳng ấy mà hầu hết các thể thơ văn vần cũ của ta đều thế cả: song thất lục bát, hát nói, vè... cùng các thể mượn của Tàu như ngụ ngôn, thất ngôn, Đường luật, cổ phong... đó là tính chất chung của văn vần á Đông. Vậy là không nên độc đoán và giản dị cho rằng hình thức tập Đoạn trường tân thanh đã gây nên những cảm tưởng buồn rầu, ủy mị vì thể thơ lục bát quá yếu mềm. Trái lại ta phải thấy cái tài của Nguyễn Du ở chỗ vẫn đứng ở trong cái khuôn khổ chật hẹp và tầm thường của thể thơ đặc biệt nôm ấy mà đã biết vận dụng hết cả những kỹ xảo để làm cho câu thơ nhịp đúng theo những biến đổi của cảnh, tình trong truyện. Cứ so sánh những đoạn khác nhau như:
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai
hoặc:
Dưới dòng nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
với:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
....
.... xanh xanh
hoặc với:
Hỏa bài tiên lộ ruổi mau
Nam đình nghe động trống chầu đại doanh
Kéo cờ lũy phát súng thành......
hay với những câu đã dẫn trên kia thì đủ rõ.
Tổng kết luận
Nghệ thuật của Nguyễn Du
1. Như trên ta đã xét thấy nội dung và hình thức Đoạn trường tân thanh phù hợp với nhau để gây nên một hiệu lực khá rõ rệt: nội dung phần nhiều kết tích những tình cảm, tư tưởng bi thống nhưng cũng gồm có một ý tưởng hùng tráng, bộc lộ một phần nào với bản năng phóng khoáng và cái cá tính ngang tàng của tác giả; hình thức cũng đi theo đúng nhịp ấy, phần lớn gợi lên những cảm tưởng lâm ly hoặc êm dịu nhờ những âm điệu thánh thót du dương song cũng có khi xúc động những tấm lòng quảng đại, những ý chí bất khuất.
Song ta cũng không nên - mà thực ra, thường cũng rất khó phân biệt một cách ráo riết nội dung với hình thức và tách rời hẳn chúng ra: hình thức không chỉ gồm những từ ngữ, cú pháp âm điệu... mà còn cả cách bố cục nghĩa là cách tổ chức nội bộ của áng văn nữa. Một hình thức có giá trị thật không phải chỉ do những lời đẹp đẽ bóng bẩy, cách hành văn có phương pháp, âm điệu du dương trầm hùng... mà còn do những đoạn câu đối có phân lượng nhất định trong bài. Trái lại, nội dung không chỉ gồm có những tư tưởng, tình cảm, ý thức biểu hiện trong áng văn, hay là những thực tế khách quan mà nhà văn đã chọn lựa và phô diễn theo những quan niệm riêng của họ. Nhưng thực tế không phản ánh của thế giới khách quan mà thực ra phải di qua ý thức nghệ thuật là vũ trụ quan nhân sinh của tác giả.
Vì thế trong khi xét văn chương Đoạn trường tân thanh chúng ta đã chỉ lần lượt xét tất cả những yếu tố tham dự vào việc kiến tạo nên nó mà không độc đoán chỉ định hai phần biệt lập: hình thức và nội dung.
2. Trong khi xét văn chương "Đoạn trường tân thanh" ta bảo rằng những nhân vật, cảnh, tình, trong lối tả cảnh, tả tình, tả người của Nguyễn Du có tính cách điển hình, lối tả đó đặt văn bản trên sự sáng tạo những cảnh tình và nhất là những nhân vật có thể tiêu biểu cho cả loại cảnh ở một nơi, một thứ tình ở một người, một đẳng cấp trong một xã hội. Có khi người ta dùng danh từ phổ biến để chỉ định những cảnh tình như thế và cả những nhân vật chỉ biểu hiện những tính chất chung cho loài người chứ không phải cho một xã hội nhất định nào đó. Một nhân vật điển hình theo quan niệm trên bao giờ cũng tổng hợp và thể hiện những nét đặc sắc của xã hội về tập tục, khuynh hướng hành động, ham muốn tín ngưỡng... Chính văn nghệ càng thiên về lối tả thực với thái độ khách quan của khoa học thì lại càng chú trọng về sự sáng tạo những nhân vật điển hình tức là các hình tượng đầy đủ và linh động của một đoàn thể và muốn cho linh động thì nhân vật điển hình cần có những đặc sắc của cá tính. Tóm lại nhân vật điển hình còn có những nét biểu hiện đặc sắc của cá tính mà lại là đại biểu của một nhân quần nhất định, nghĩa là phải được đặt trên một bối cảnh lịch sử.
Dù giới thuyết thế nào lối mô tả của Nguyễn Du nhất là mô tả nhân vật cũng nhắm đến lối "điển hình hóa" để biểu hiện những tính cách chung cho một đoàn thể một giai cấp trong cái xã hội á Đông xưa. Đó là những "đoàn thể tính": Kim Trọng đa tình như những kẻ đa tình trong muôn thuở, trong sự tương tư, lòng chung thủy của chàng chỉ có thể của một nho sĩ phương Đông xưa mà thôi; Từ Hải có cái khí phách hiên ngang của những kẻ anh hùng cá nhân trong nhân loại nhưng chàng cũng lại đa tình, sự đa tình đã khiến chàng vẫn xem thường âm mưu quỷ kế; đến Thúy Kiều thì lại càng rõ rệt: sự ủy mỵ, nhu nhược của nàng là do nền luân lý của xã hội xưa gây nên, nó đã khiến nàng phải điêu đứng nhục nhã rất nhiều.
3. Sau cùng, những điều nhận xét của ta về Đoạn trường tân thanh có cho ta thấy rõ các quan niệm của tác giả về nghệ thuật không?
ở đây ta không phải trở lại vấn đề: "Nghệ thuật vị Nghệ thuật" hay "Nghệ thuật vị Nhân sinh" đã gây nên nhiều cuộc tranh biện rất sôi nổi ở Pháp vào khoảng thế kỷ trước, và ôn hòa hơn, ở ta cách đây hơn 10 năm (1939-41). Vì nếu hiểu nghệ thuật vị nghệ thuật mà thôi: viết để mà viết, hát mà hát, vẽ để mà vẽ, tuyệt nhiên không có mục đích một lợi ích, một ý nghĩa gì hết thì thiệt khó mà thực hiện được quan niệm ấy. Nói một cách khác, người ta không thể nào thoát được thực tế mà không còn giữ lấy một ảo ảnh. Còn nếu quan niệm kia chỉ là để gạt bỏ luân lý và tư tưởng của một xã hội hay của một thời đại đã làm cho nghệ sĩ bất bình muốn tìm một nguồn an ủi ở ngoài sự thực thì cũng có thể chấp nhận được (như thái độ của Théophile Gautier - 1811-1872 - chống lại nền tư tưởng và nền luân lý thị dân ở Pháp). Sự thực thì nghệ thuật, xây đắp và phát triển trên nền móng của sự sinh hoạt xã hội và văn học sử thế giới đã chứng nhận điều dó. Vậy muốn hiểu và phê phán một nghệ sĩ ta không thể đặt họ ra ngoài những điều kiện sinh hoạt của Nguyễn Du, ta phải đặt tác phẩm của ông vào giai tầng xã hội về thời đại của ông vậy.
Như thế thì người ta có thể bảo rằng, trong Đoạn trường tân thanh Nguyễn Du đã có một quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh nói theo nghĩa thích đáng của từ ngữ ấy, ta đã rõ tác giả gửi hết tâm sự của quyển truyện để đi đến những tư tưởng luân lý và triết lý đã an ủi và làm mê say tâm hồn ông. Thúy Kiều mặc dầu đau đớn khổ nhục trong bước đường gian truân vẫn tin rằng hiếu phải được trọng hơn tình; Kim Trọng đã kết duyên với Thúy Vân song vẫn cho rằng mình có bổn phận thủy chung với người bạc mệnh; Từ Hải ngang tàng biết bao mà rồi cũng nghe theo cái lý “tùy thời" của Kiều đến nỗi phải chôn vùi tấm thân ngang dọc một cách rất đáng tiếc. Và tác giả đã đi tới cái kết luận: phải giữ lấy thiện tâm chứ không nên tự phụ tự mãn về tài.
Tóm lại, tác phẩm của Tố Như "vị Nhân sinh" hơn "vị Nghệ thuật" và ta có thể nói rằng đó là tính cách chung của thi ca Việt Nam từ trước tới nay.
Chúng ta nghiên cứu Đoạn trường tân thanh để làm gì?
Văn chương bao giờ cũng gắn liền với cuộc sống, nó biểu hiện cái phần sâu nhất trong sự sống của một lớp người, cho nên người xem văn, cái điều quan trọng nhất vẫn là cách sống, đúng hơn, cách thưởng thức. Thế thì cái nhìn, cái nghĩ, cái sống của người đó dầu muốn, dầu không, bao giờ cũng bao hàm một thái độ, cái thái độ đó chính là lập trường.
Đoạn trường tân thanh là một tác phẩm văn chương tuyệt bút từ xưa tới nay. Trải qua hơn trăm năm nay Đoạn trường tân thanh được truyền tụng khắp từ nơi đô thành rộn rã cho chí chốn hẻo lánh thôn quê, từ lầu cao gác tía của bọn vua chúa cho đến tận công việc vất vả của người bình dân Việt Nam.
Lớp người thống trị: vua quan, những nhà nho phóng khoáng có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi phong kiến ích kỷ, họ vịnh Kiều, ngâm Kiều, say sưa văn chương, tư tưởng của Đoạn trường tân thanh đã kéo dài thêm cuộc sống tàn nhẫn, nhơ nhớp của họ, đó là cái thú ăn không ngồi rồi của họ đồng thời để dùng Đoạn trường tân thanh làm một lợi khí bảo vệ trật tự phong kiến cho họ.
Người bình dân thuộc Kiều, thích Kiều cũng chỉ vì văn Đoạn trường tân thanh viết theo điệu lục bát, một cái điệu chính bình dân đã sáng tạo ra và vì thế vẫn diễn tả được một cái gì rất sâu trong nhịp tình, nhịp ý nói chung là nhịp sống của người nông dân đất Việt. Họ thích Đoạn trường tân thanh cũng như mọi người và ít nhiều họ đã bắt gặp mình trong đó, bắt gặp mình trong những lời buồn thương trong những lời oán thán trong thân thế trầm luân của Thúy Kiều, trong giấc mơ của Từ Hải, trong cái vị ngao ngán chán chường của quyển truyện... Những tình những cảnh trong đời Thúy Kiều cũng là những tình những cảnh trong đời họ... Nói rộng ra người bình dân thấy cuộc sống diễn ra muôn hình vạn trạng trong lòng Truyện Kiều cũng như trong thực tế chua cay của đời họ mà nhờ lời ông Hoài Thanh (1949): "Truyện Kiều là cả một thế giới".
Còn thái độ của chúng ta hiện nay? - Chúng ta nghiên cứu Đoạn trường tân thanh, định lại giá trị của nó để mang một quan niệm mới về con người kháng chiến. Ngoài ra chúng ta lại còn học được những cái hay trong văn chương Đoạn trường tân thanh, cách dùng chữ, ngắt câu, tiết tấu, âm điệu nhịp nhàng, kỹ thuật hành văn của tác giả để trau dồi thêm vào cái vốn văn học của chúng ta nữa.
Nói đến văn chương, phương tiện dùng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng, cảnh, tình... chúng ta không quên phải thận trọng phân tích chi ly rành rọt.
Trước hết, chúng ta sẽ gạt cái phần tư tưởng bạc nhược nó xui con người ta cúi đầu khuất phục trước những cái vô nghĩa của cuộc đời. Tư tưởng "Thiên Mệnh" của nhà Nho:
Cho hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Tư tưởng "Nghiệp Báo" của nhà Phật với cái giải pháp chữ Tâm:
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Chúng ta cũng gạt nốt cái buồn của Nguyễn Du không những ý buồn, tình buồn, cả đến âm thanh hay đúng hơn cách xếp đặt âm thanh cũng buồn - những cái buồn vô cớ, buồn đến bi quan, tiêu cực của đời Kiều...
Giá trị Đoạn trường tân thanh về phương diện văn chương đành là không thể chối cãi. Về kỹ thuật, ngôn ngữ chúng ta học tập được ở Nguyễn Du rất nhiều, nhưng cái khó nhất để phân tích trừ bỏ cái buồn vô ích trong văn chương Đoạn trường tân thanh thật là khó và chúng ta phải thận trọng. ở điểm này chúng ta cần vận dụng những tình cảm lãng mạng của con người mới Việt Nam để chiến thắng những ốm o tật bệnh còn vướng nhiều trong tâm trí chúng ta hiện tại. Chúng ta phải hiểu được cái nguy hiểm của cái buồn cũ, cái bệnh mà cả cái chế độ xã hội cũ đã trút nặng trên đầu chúng ta.
Còn lại, trong văn chương Đoạn trường tân thanh - chúng ta sẽ trân trọng sự sống bị chà đạp, sự giày vò và cái phần muốn vươn lên của sự sống ấy. Về phương diện này Nguyễn Du gần chúng ta lắm. Cái xã hội Nguyễn Du vẽ ra bằng những nét khinh bỉ và tức tối chính là cái xã hội chúng ta đương đạp đổ. Bao nhiêu những cái xấu xa nhơ nhớp chúng ta đang quét cho kỳ hết. Bao nhiêu những cái tàn nhẫn, cái khắt khe nặng đè lên kiếp sống của con người, chúng ta đang phá đổ, chúng ta đang đạp đổ tất cả những suy lực phong kiến đẩy bước mạnh trên con đường xây dựng chế độ Dân chủ Nhân dân.
Qua tác phẩm Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du như đã dạy cho ta biết ghét, biết yêu; ghét những cái bất lương trong xã hội, yêu những cảnh sống đáng yêu và nhân đó tránh cuộc sống tẻ nhạt, hiu hắt, cuộc sống của cỏ cây. Nguyễn Du đối với chúng ta vẫn có thể là một kỹ sư của tâm hồn.
 Tài liệu tham khảo
- Bản chính Kim Vân Kiều chú giải tân truyện của Trần Trọng Kim (1941)
- Truyện Kiều trong Thượng Chi văn tập IV của Phạm Quỳnh (1919)
- Khảo luận Kim Vân Kiều của Đào Duy Anh (1943)
- Nguyễn Du và Truyện Kiều bản mới của Nguyễn Bách Khoa (1945)
- Văn chương Truyện Kiều của Nguyễn Bách Khoa (1945)
- Báo Thanh Nghị, Tao Đàn (những bài nghị luận của Hoài Thanh (1941), Hoàng Xuân Hãn)v.v....
- Các bài soạn, bài giảng của các giáo sư văn học trường Phan Đình Phùng năm 1952, các bài ghi trong các cuộc tranh luận về Đoạn trường tân thanh giữa học sinh lớp 8, 9 với các giáo sư Trần Đình Đàn, Trần Quốc Nghệ, Bùi Văn Nguyên, Hoàng Ngọc Hiến (1952)...
- Quyền sống con người trong Truyện Kiều của Hoài Thanh (1949)
- Phương pháp Phê bình văn học (bài Giáo khoa lớp 9 - 1953)
 (Chương Thâu chép lại
trong kỳ nghỉ Đông năm 1952)

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114565127

Hôm nay

2156

Hôm qua

2263

Tuần này

22068

Tháng này

223651

Tháng qua

129483

Tất cả

114565127